Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng quốc tế rủi ro hệ thống trong ngân hàng toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.03 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA NGÂN HÀNG

NGÂN HÀNG QUỐC TẾ

CHƯƠNG 14
RỦI RO HỆ THỐNG TRONG NGÂN HÀNG TOÀN
CẦU
Giảng viên phụ trách: PGS.TS. Trương Quang Thông
Nhóm: 10 Lớp: Chủ Nhật - Khóa 24 thực hiện

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 03 năm 2016


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
Họ và tên

1. Nguyễn Thị Đồng Diễm

2. Thái Thị Trang

3. Nguyễn Thị Kim Ngân

4. Trần Quang Vinh

5. Nguyễn Ngọc Duy

6. Nguyễn Công Nghĩa

Chữ



Tỷ lệ
đóng góp

Ghi chú


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................................1
MỤC LỤC.......................................................................................................................................1
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………...……...24

[Type text]

Trang 1


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

[Type text]

Trang 2


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam


Phần 1: LỜI MỞ ĐẦU
Đưa ra đòn bẩy cao vốn cao, và sự dễ dàng đối với các hồ sơ rủi ro của tài sản tài chính
có thể bị thay đổi,các ngân hàng và tổ chức tài chính của quỹ có động lực để đảm nhận
rủi ro quá mức từ triển vọng của toàn hệ thống tài chính. Điều đó làm cho cảm giác đối
với một tổ chức tài chính nhất định có thể không, nhìn chung chung, làm cho cảm giác
đối với hệ thống tài chính, hoặc sự phơi bày của người nộp thuế những người mà có thể
được kêu gọi để giải cứu các tổ chức đó đã gây ra rủi ro hệ thống. Điều đó như ô nhiễm
môi trường trong ngành công nghiệp, hoạt động tài chính có thể đặt chi phí lên người đi
đường vô tội đang bị buộc phải chịu một phần chi phí của các hoạt động. Trong ngành
công nghiệp, ô nhiểm môi trường dẫn đến nước bẩn, không khí và chất thải rắn. Trong tài
chính, thì dẫn đến hình thức giải cứu các doanh nghiệp có rủi ro mà sự thất bại của các
công ty này có thể nhấn chìm toàn bộ hệ thống. Nếu những chi phí này được định giá
thấp, hoặc không có giá cả, ô nhiễm sẽ tăng rất cao trong ngành công nghiệp và rủi ro cho
hệ thống sẽ được nhiều trong tài chính hơn so với khi các chi phí này được định giá đầy
đủ.
Nói chung, người ta có cơ chế thị trường định giá rủi ro một cách chính xác và do đó đảm
bảo rằng rủi ro dùng trong nền kinh tế đang ở mức hiệu quả. Tuy nhiên, có một số yếu tốmột số yếu tố lạ và một số yếu tố truyền thống- mà đã loại trừ các kết quả có hiệu quả
như vậy. Đây là những gì xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009 và cuộc
khủng hoảng khác trong quá khứ. Chương này đánh giá cao khi rủi ro hệ thống liên kết
với ngân hàng toàn cầu và tài chính, sử dụng các ví dụ từ các khủng hoảng tài chính gần
nhất.

[Type text]

Trang 3


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

Phần 2: LÀM THẾ NÀO ĐỂ CÁC NGÂN HÀNG TẠO

RA RỦI RO HỆ THÔNG
2.1. Lý thuyết ngân hàng và bảo hiểm tiền gửi:
2.1.1. Lý thuyết ngân hàng:
Các ngân hàng đóng vai trò là trung gian tài chính giữa người gửi tiền và người đi vay.
Người gửi tiền cung cấp vốn để cho vay, và các ngân hàng cung cấp chuyên môn trong
việc đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay.

Phần tài sản của bảng cân đối của ngân hàng (Sơ đồ 14-1) sẽ bao gồm: các khoản vay tài
trợ bằng tiền gửi, cũng như các khoản vay tài trợ bởi vốn chủ sở hữu và một số khoản nợ
phi tiền gửi.
• Các khoản cho vay của ngân hàng được coi là tài sản vì chúng là nợ đối với ngân
hàng của người vay.
• Tiền gửi được coi là nợ bởi vì, theo yêu cầu, họ phải được trả về bởi các ngân
hàng để gửi tiền hoặc các chủ nợ khác.

[Type text]

Trang 4


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
• Các khoản tiền gửi, trừ dự trữ thanh khoản, đã được cho người đi vay vay. Lãi vay
của các khoản vay là nguồn thu chính của ngân hàng thương mại. Do đó, hầu hết
các khoản tiền gửi là không có sẵn để bị đòi lại bởi người gửi tiền.
2.1.2 Bảo hiểm tiền gửi:
Để tránh khả năng mà tất cả những người gửi tiền sẽ đòi lại của tiền gửi của họ tại cùng
một thời điểm, các khoản tiền gửi (từ năm 1933 tại Hoa Kỳ) được bảo hiểm lên đến một
mức nhất định bởi chính phủ. Đổi lại cho bảo lãnh này và một khoản phí bảo hiểm, và để
đảm bảo rằng các ngân hàng có đóng góp trong quá trình này, các ngân hàng phải nắm
giữ một lượng” vốn “ tối thiểu của như một bộ đệm chống thiệt hại.

Từ sự thận trọng đơn giản trong quản lý và quản trị, các ngân hàng muốn tồn tại luôn
luôn giữ một ánh mắt sắc bén về an toàn vốn. An toàn vốn cấu thành vốn, ngày nay được
xác định bởi những điều chỉnh. Các quy định đúng chỗ trong thời gian trước cuộc khủng
hoảng 2007-2009 ở hầu hết các nước phương Tây xác định vốn dưới dạng quỹ thu được
bằng cách tăng vốn cổ phần (bán cổ phần, hoặc hình thức nhất định của "lai" nợ là các
khoản nợ có các tính năng cổ phiếu) hoặc bằng cách giữ lại thu nhập.
Nhưng việc tạo ra bảo hiểm tiền gửi lại tạo ra một nguy cơ rủi ro đạo đức cho các ngân
hàng truyền thống. Và tương tự như vậy, việc đảm bảo cứu trợ tài chính tuyệt đối của
chính phủ cho các tổ chức được coi là quá lớn để thất bại đã tạo ra rủi ro đạo đức cho các
tổ chức tài chính lớn phức tạp (LCFIs) hiện nay.
2.2. Quy định về an toàn vốn và chứng khoán hóa:
2.2.1. Quy định về an toàn vốn:
Các quy định vốn ngân hàng của hầu hết các nước phương tây theo các điều khoản được
đề nghị của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ( BCBS) của ngân hàng Thanh toán
Quốc tế tại Basel Thụy Sỹ. Theo thỏa ước Basel, các ngân hàng phải duy trì ít nhất 8%
đệm vốn chống lại một mức rủi ro có điều chỉnh về tài sản. mặc dù điều đó là tủy thuộc
đáng kể vào quyết định quốc gia trong việc thực hiện hiệp định.

[Type text]

Trang 5


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
 Ví dụ, ở Mỹ, FDIC đã giải thích “ ít nhất 8%” có nghĩa là 10 % nếu một ngân
hàng được chỉ định là “ vốn tốt ” ( một tiên gọi mang lại đặc quyền nhất định
chẳng hạn như là mức bảo hiểm tiền gửi thấp hơn).
Theo những quy tắc Basel, hai hình thức chính của vốn thực là:
• Vốn cổ phần
• Và lợi nhuận giữ lại

Những quy tắc này cho phép vốn cấp 1 (vốn thực) và vốn cấp 2 (các khoản tương đương
vốn) kết hợp lại với nhau. Duy trì bộ đệm vốn lớn thì tốn kém từ quan điểm kinh tế, vì
nợ, đặc biệt nếu nợ ngắn hạn và có thể tiêu thụ được, có một vai trò thi hành kỷ luật thị
trường mà không thể được cân bằng bởi tính chất tương đối thụ động của vốn chủ sở hữu.
Nhưng về cơ bản duy trì mức độ an toàn vốn có thể tốn kém đối với việc quản lý ngân
hàng nếu họ tập trung vào các biện pháp cổ đông thực hiện, chẳng hạn như thu nhập trên
vốn cổ phần ( ROE) .
 Ví dụ, vốn và các quỹ đầu tư có thể chỉ được đầu tư ở mức tương đối an toàn
nhưng lãi suất phi rủi ro thấp, trong khi đó tiền vay có thể được dùng để tài trợ cho
các khoản đầu tư rủi ro cao hơn ở mức lãi suất cao hơn. Trong khi lợi nhuận trên
cả hai hình thức đầu tư nên giống nhau trên cơ sở rủi ro điều chỉnh, việc thiếu tính
toán thích hợp về rủi ro trong thu lợi nhuận có thể làm gia tăng đòn bẩy (do đó làm
giảm tỷ lệ vốn) rất hấp dẫn từ quan điểm của việc tạo ra lợi nhuận.
Như vậy, trong thời điểm khó khăn, nếu vốn của ngân hàng phải được đẩy mạnh thông
qua phát hành chứng khoán vốn, nó thường báo hiệu đến các nhà đầu tư tin tức bất lợi là
lợi nhuận giữ lại là không đủ để đáp ứng yêu cầu về vốn của ngân hàng. Và, việc phát
hành vốn cổ phần mới sẽ pha loãng giá trị cổ phần hiện có, bởi vì các lợi ích chính của
việc phát hành mới dồn cho các chủ nợ. Có vẻ như các chi phí phát hành vốn này có thể
thi hành kỷ luật với ngân hàng và khiến họ quản lý vốn một cách chu kỳ. Tuy nhiên, một
khi quyết định đưa ra bị ảnh hưởng bởi các biện pháp kế toán hàng quý về hiệu suất, với
việc điều chỉnh rủi ro thấp của các khoản lợi nhuận được ghi nhận, khuyến khích năng
động và dài hạn như đang bị xói mòn.
[Type text]

Trang 6


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
Liên quan đến bản chất chính xác của chi phí vốn ngân hàng, để đối phó với giữ vốn tốn
kém trên bảng cân đối kế toán khi tài sản là tài sản ban đầu, mô hình ngân hàng phát triển

để tập trung vào phân phối và chứng khoán hoá (Phụ lục 14-2). Điều này cho phép các
ngân hàng tránh việc phải tăng vốn để hỗ trợ các bảng cân đối lớn hơn trong khi họ cố
gắng để mở rộng kinh doanh. Nếu một ngân hàng có thể bắt đầu một khoản vay, mà nó
thu lệ phí, và chỉ giữ lại một phần của nó trên sổ sách, bảng cân đối của ngân hàng chỉ
mở rộng biên hạn . Sau khi vay được xóa khỏi bảng cân đối tài sản của ngân hàng theo
cách này, dự trữ vốn không cần được nắm giữ.

2.2.2. Chứng khoán hóa:
Khái niệm chứng khoán hóa: Là một quá trình mua tài sản để biến chúng thành chứng
khoán để hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tổ chức có sử dụng các tài sản cơ bản (ví dụ như,
thế chấp) như vật thế chấp.
Thị trường thế chấp toàn cầu rất lớn; do đó, nó là nguồn gốc của một số lượng lớn các
phát hành chứng khoán hoá. Các ngân hàng cố gắng để có nguồn gốc các phát hành
(đóng gói chúng), và sau đó bảo lãnh và phân phối cho khách hàng tổ chức. Thông
thường, họ cũng tìm cách để giữ lại chỉ một số tiền tối thiểu của các phát hành mà họ bảo
[Type text]

Trang 7


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
lãnh, phân phối các phần còn lại. Các ngân hàng cần rất ít vốn để hỗ trợ kinh doanh này,
trừ khi họ trở thành chủ đầu tư. Kinh doanh này, cùng với các hình thức khác của chứng
khoán có tài sản đảm bảo và cho vay doanh nghiệp, đòi hỏi tương đối ít vốn (hoặc tiền ký
gửi). Điều này giải thích thực tế rằng ngày hôm nay có rất ít tiền ký gửi trong hệ thống tài
chính hiện đại hơn là những khoản vay ngân hàng.
 Ví dụ: Trong năm 2010, hệ thống ngân hàng Mỹ hiện tại nắm giữ xấp xỉ 7 nghìn
tỷ $tiền gửi, nhưng các tín dụng tổ chức tài trợ khoảng 16 nghìn tỷ $ vay và thế
chấp, bao gồm 2.7 nghìn tỷ $ tại ngân hàng và cho vay đòn bẩy, 3.3 nghìn tỷ $
trong thế chấp thương mại, 1.3 nghìn tỷ $ trong các khoản thế chấp dưới chuẩn,

5.8 nghìn tỷ $ trong thế chấp nhà phi GSE, và 2.6 nghìn tỷ $ trong cho vay tiêu
dùng. Các khoản tín dụng rủi ro hơn, chẳng hạn như các khoản vay có năng suất
cao của công ty, thế chấp không cơ bản, thế chấp thương mại và tín dụng tiêu
dùng, tương tự như vậy thường được chứng khoán hóa.
2.3. Chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản thế chấp:
Với việc chứng khoán hoá, ngân hàng trở thành trung gian chủ yếu giữa người đi vay và
các nhà đầu tư (thay vì chỉ gửi tiền).
 Ví dụ, chứng khoán hóa các khoản thế chấp không cơ bản liên quan đến việc tổng
hợp chúng vào chứng khoán thế chấp (MBSs) để chi trả dòng phân đoạn của
người sở hữu của các khoản thanh toán lãi và gốc được trả chung của những người
nắm giữ thế chấp. Tiền gốc và lãi của các khoản thế chấp được bảo đảm bởi
Fannie Mae và Freddie Mac. Thị trường thế chấp nhà ở Mỹ trong năm 2010 trị giá
hơn 10 tỷ đồng, trên 55% được chứng khoán hóa và 64% của các chứng khoán này
được hậu thuẫn bởi Fannie và Freddie. Các ngân hàng mở rộng mô hình thế chấp
chứng khoán đối với các loại khác, các loại tài sản rủi ro, trong đó cho phép họ
chuyển giao các rủi ro từ bảng cân đối của họ với thị trường vốn rộng lớn hơn, bao
gồm các quỹ hưu trí, quỹ đầu cơ, quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm, và các tổ
chức nước ngoài .

[Type text]

Trang 8


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
Các chứng khoán có tài sản đảm bảo mới được cơ cấu, nghĩa là họ chia (ví dụ) tài sản thế
chấp thành"đợt" theo mức độ rủi ro dự đoán của các khoản vay. Nắm giữ cổ phần trong
đợt rủi ro nhận được các khoản thanh toán lãi suất cao hơn, nhưng đổi lại, họ đã chịu thua
lỗ trước những người nắm giữ cổ phiếu trong đợt ít rủi ro. Vì vậy, các chủ sở hửu của các
đợt phát hành ít rủi ro nhất, như được xác định bởi ba cơ quan xếp hạng - Moody,

Standard & Poor, Fitch – nhận lãi dựa trên rủi ro thấp hơn, nhưng họ sẽ cảm thấy bất kỳ
tác dụng không hiệu quả nào trong việc bảo mật có cấu trúc chỉ sau khi "đợt trực thuộc"
của nó đã ngừng thực hiện (thông qua phạm pháp hoặc mặc định). Tuy nhiên mức độ rủi
ro tương đối thấp của một đợt đánh giá AAA không nhất thiết có nghĩa là nó được hỗ trợ
bởi các khoản vay. Nó có thể chỉ có nghĩa rằng, trong số hàng nghìn các khoản vay
không cơ bản trong một chứng khoán có thế chấp được đưa ra, đợt này đã được chỉ định
là một trong đó sẽ tiếp tục ném ra thu nhập và thu nhập chính từ việc thực hiện các khoản
nợ trong toàn bộ chứng khoán, cho đến khi tất cả các đợt khác đã ngừng hoạt động.
Để đáp ứng yêu cầu về hệ số đánh giá xếp hạng AAA thích hợp cho các chứng
khoán nằm ở top đầu, các khoản thế chấp dưới chuẩn được bao gồm trong các gói chứng
khoán, cùng với các sản phẩm khác, chẳng hạn như bao gồm cả hợp đồng phái sinh cho
những chứng khoán tầm trung mà có thể được đưa vào thành các nghĩa vụ nợ thế chấp
(CDOs), từ đó có thể được chia thành nhiều chứng khoán đánh giá loại AAA. Quá trình
này được lặp đi lặp lại cho những chứng khoán của CDO, cái mà tạo ra một số lượng
CDO tăng gấp đôi, đôi khi được gọi là sự phát hành gấp đôi CDO (14-3)
Thật rõ ràng là nhu cầu mạnh nhất về những sản phẩm tài chính này đến từ các
nhà đầu tư như là quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm, quỹ thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, các nhà
đầu tư cuối cùng không chỉ là người mua những chứng khoán này hoặc lần lượt, những
chứng khoán có rủi ro cơ bản được chứng khoán hóa. Thực tế , chính bản thân ngân
hàng, thay vì hoạt động như những trung gian, thì lại trở thành những khách hàng như
những nhà đầu tư của chính họ. Ngoài việc tổn thất tài sản trong quá trình ban đầu,
chứng khoán hóa, phân bổ, . họ đưa vào tổn thất dự trữ bằng cách đặt chúng vào thu
nhập mà họ tạo ra trên chi phí phát hiện của họ. Kể từ khi ngân hàng được đánh giá cao,
chiến lược đầu tư này sẽ là cực kỳ nguy hiểm nếu tự tin hoặc tính thanh khoản trong các
[Type text]

Trang 9


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

loại tài sản phải được xác định. Mục tiêu của ngân hàng, tuy nhiên, là hợp lý, để tạo ra lợi
nhuận trên vốn chủ sở hữu bằng việc sở hữu ABS, trong khi đồng thời tránh quy định tối
thiểu về vốn.
Một trong hai ý nghĩa chính cho việc "chênh lệch giá quy định" này là tạo ra
khoản mục ngoại bảng, phương tiện truyền dẫn chuyên dùng được xếp vào ABS. Những
công cụ này được gọi là phương tiện truyền dẫn chung. Công cụ đầu tư cấu trúc (SIV), đã
nhận được sự chú ý của công chúng nhất, là một loại công cụ ngoại bảng. Mức độ chênh
lệch giá quy định. Là điều hiển nhiên trong 14-6, trong đó so sánh tổng tài sản với tổng
tài sản rủi ro của ngân hàng quốc tế -hiển thị mức độ mà họ đánh giá AAA, ABS cao cấp
đã được chỉ định độ rủi ro thấp.
Với cho vay chứng khoán được đặt trong công cụ truyền dẫn trên bảng cân đối kế
toán của ngân hàng, các ngân hàng không cần phải duy trì bất kỳ vốn đối ứng. Các công
cụ truyền dẫn tài trợ ABS bằng cách phát hành giấy tờ có giá có tài sản đảm thương mại
(ABCP) - công cụ nợ ngắn hạn được bán cho các nhà đầu tư vào các công cụ thị trường
tiền tệ. Để có thể bán ABCP, các ngân hàng cung cấp cho người mua một cách " thoải
mái," (sắp xếp hỗ trợ cung cấp các thỏa thuận không ràng buộc để đảm rằng chứng khoán
được hoàn trả), đã thuyết phục các cơ quan đánh giá để cung cấp xếp hạng cao nhất .
Thực sự, các xếp hạng AAA đã làm cho nó có thể cho các ngân hàng bán ABCP cho các
quỹ thị trường tiền tệ, được yêu cầu của pháp luật để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán
được đánh giá là AAA. Nhìn vào 14-7 cho thấy các vấn đề của ABCP trong giai đoạn
trước khủng hoảng.
Các thỏa thuận hỗ trợ đã được xem là 1 dự phòng để "tăng cường tính thanh
khoản" của chứng khoán kỳ hạn dưới 1 năm . Chúng không phải là sự bảo đảm rằng phải
được báo cáo trên bảng cân đối của các ngân hàng, do đó, các ngân hàng không cần cung
cấp bất kỳ vốn Basel, cho phép đầu tư sử dụng đòn bẩy 100% trong một công ty con mà
có thể được hợp nhất với lợi nhuận công ty mẹ.
Bảng 14-7 cho thấy sự phát triển và sụp đổ của thị trường ABCP trong các năm
2001-2010. Chỉ số ABCP đạt đỉnh từ năm 2004 đến quý 2 năm 2007. Sau đó nghi ngờ về
cả tài sản thế chấp và chất lượng của sự hỗ trợ sắp xếp kết quả trong khi thị trường này
[Type text]


Trang 10


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
đi xuống. Khi sự sụp đổ xảy ra, các chi phí phát hành ABCP tăng từ 15 điểm cơ bản so
với mức tăng quỹ liên bang cho hơn 100 điểm cơ bản (ở đỉnh cao của nó, là gần 150 điểm
cơ bản). Do đó, các ABCP có thể không còn được đáo hạn, và các ngân hàng đã phải trả
lại các khoản vay vào các bảng cân đối của họ, buộc họ phải huy động thêm vốn để hỗ
trợ họ. Khi cuộc khủng hoảng xảy ra, các công cụ ABS khoảng 125 nghìn tỉ đô chỉ có
4,3% của giá trị được hấp thụ bởi các nhà đầu tư, các khoản lỗ còn lại bị xóa sổ phần vốn
đáng kể các ngân hàng phát hành, đe dọa khả năng thanh toán của họ.
Không phải tất cả các ngân hàng theo mô hình truyền dẫn như vậy. Một số đã
chọn một con đường thay thế có hiệu quả tương tự. Một ngân hàng vẫn cho vay và
chuyển chúng từ bảng cân đối của mình bằng việc chứng khoán hóa chúng. Nhưng nếu
các ngân hàng sau đó quay lại và tái đầu tư trong đợt đánh giá AAA của các sản phẩm
chứng khoán hóa (hoặc ngân hàng khác) đã tạo ra. Vì đánh giá AAA, các chứng khoán
đã có một yêu cầu về vốn thấp hơn đáng kể dưới sự sắp xếp Basel. Cho các ngân hàng
thương mại, hiệp định Basel xem nguy cơ của chứng khoán được đánh giá AAA bằng
một nửa nguy cơ các khoản vay thương mại hoặc thế chấp thông thường, Và vì vậy yêu
cầu dự trữ vốn thậm chí thấp hơn để sao lưu. Trong năm 2004, SEC cấp ngân hàng đầu tư
Mỹ khả năng sử dụng mô hình nội bộ để đánh giá rủi ro tín dụng và các chi phí vốn
tương ứng. Điều này cho phép họ tận dụng thậm chí còn cao hơn so với các ngân hàng
thương mại, trong đó hợp lệ đã tăng vọt từ 22: 1 tỷ lệ nợ công bằng đến 33: 1 chỉ trong
vòng ba năm.
Trong năm 2007, ngân hàng, GSEs (Fannie và Freddie), và môi giới / đại lý tổ
chức 789 tỉ $ của đợt CDO được xếp hạng AAA đã được hỗ trợ bởi các khoản vay phi
chính thức, hoặc khoảng 50% khối lượng vượt trội vào thời điểm đó. Hơn nữa, phần lớn
các đợt trực thuộc của CDO cũng đã được tổ chức bởi ngân hàng, môi giới / đại lý, và
công ty bảo hiểm trái phiếu. Họ nắm giữ 320 tỉ $ của $ 476 tỉ của đợt vượt trội. Nhưng,

các ngân hàng đã được xem xét bởi các nhà quản lý đã và đang đầu tư vào các tài sản
tương đối an toàn trong giai đoạn này, vì các tài sản này được xếp hạng AAA. Điều này
cho phép các ngân hàng tăng gấp đôi đòn bẩy của họ, và do đó số lượng các khoản cho
vay có lợi nhuận họ có thể làm.
[Type text]

Trang 11


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
Tại sao các Ngân hàng tạo ra, chứng khoán hóa và sau đó giữ lại các rủi ro liên
quan đến tài sản mang tính hệ thống và dài hạn như là các khoản thế chấp dưới chuẩn.
Câu trả lời là do các ngân hàng giữ xếp hạng AAA cố gắng bằng cả hai cách. Một
mặt, họ giảm các yêu cầu của họ về vốn và kiếm được nhiều hơn về thu phí bảo hiểm do
các rủi ro tự nhiên của các món vay dưới chuẩn. Mặt khác, thiệt hại chỉ xảy ra nếu như
một lượng lớn các thế chấp dưới chuẩn bị tìm ra trong một lần, trong trường hợp đó, ngay
cả những xếp hạng AAA của các nghĩa vụ nợ thế chấp (CDO) cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu
một sự kiện cực kỳ hiếm xảy ra như vậy thực sự xảy ra,, họ nghĩ rằng đó là kết quả của
một thảm họa kinh tế - một cú sốc hệ thống ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường tại một thời
điểm. Các Ngân hàng đánh cược tương lai của mình rằng điều đó sẽ không xảy ra hoặc là
những quyết định thị trường mang tính ngắn hạn cho họ để quan tâm nếu nó xảy ra.
Nhưng rất khó để sự kiện đó xảy ra.
Các ngân hàng đã sớm phát hiện, khi giá nhà đất bắt đầu giảm trong năm 2006.
Một khi các thị trường nhận ra rằng các tài sản thế chấp cho các chứng khoán thế chấp bị
nghi ngờ, sự nhận ra đó không đủ nhanh. Ngành tài chính đã trải qua một cú sốc lớn về
thanh khoản và đe dọa nhanh chóng đến khả năng chi trả, và cuộc khủng hoảng cũng đã
đến. Trước tháng 9 năm 2008, hoạt động của các ngân hàng đầu tư đã được hậu thuẫn bởi
các xếp hạng AAA do chứng khoán hóa các khoản thế chấp dưới chuẩn và hệ quả của
chúng đã ảnh hưởng đi xuống cho UBS, Bear Stearns, và Lehman Brothers và đe dọa đến
Merrill Lynch, Citigroup, Morgan Stanley.


[Type text]

Trang 12


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

Phần 3 : NHỮNG YẾU TỐ KHUẾCH ĐẠI RỦI RO HỆ
THỐNG
Không thiếu các nguyên nhân sâu xa của các cuộc khủng hoảng tài chính và sự tích tụ
của các rủi ro hệ thống mô tả cho chúng, gồm các nguyên nhân chính sau đây:






Rủi ro đạo đức (Moral Hazard) trong mô hình về nguồn gốc và phân phối
Vai trò của các cơ quan đánh giá
Các nhà đầu tư bỏ đi
Sự mất cân bằng toàn cầu
Rủi ro định giá sai – Niềm tin sai lệch trong sự điều độ tổng quát và tâm lý bầy

đàn “Animal Spirits”
• Greenspan Put
3.1. Rủi ro đạo đức (Moral Hazard) trong mô hình về nguồn gốc và phân phối:
Một nguyên nhân phổ biến của cuộc khủng hoảng là từ mô hình nguồn gốc và phân phối
chứng khoán hóa ngân hàng – bị phá hủy bởi động cơ của người vay, là tín hiệu cho
nguồn gốc và phân phối của các khoản thế chấp kém chất lượng.

 Ví dụ, có những khoản thế chấp được cấp cho những người có ít khả năng trả nợ
và các khoản thế chấp được thiết kế theo hệ thống mặc định hoặc tái tài trợ chỉ
trong một vài năm, tùy thuộc vào giá nhà đất. Việc chứng khoán hóa các khoản thế
chấp giúp cho thị trường tín dụng phát triển rất nhanh nhưng chi phí của những
nhà cho vay cũng đã lột tả trò chơi đó và lần lượt đóng góp vào sự suy giảm của
chất lượng tín dụng và mờ đi cấu trúc chứng khoản hóa các khoản thế chấp bởi
xếp hạng AAA của cơ quan đánh giá làm cho mô hình trở nên thất bại và có thể
tạo ra xung đột giữa đánh giá rủi ro toàn diện và doanh thu phí từ phát hành các
khoản chứng khoán hóa.
3.2. Vai trò của các cơ quan đánh giá:
Từ khi các xếp hạng AAA chỉ ra cho các nhà đầu tư rằng những đợt đầu tư xếp hạng của
các tài sản bảo đảm – nghĩa vụ nợ thế chấp (CDOs) và nghĩa vụ cho vay thế chấp (CLOs)
- an toàn như các công cụ nợ không chủ quyền an toàn nhất, vai trò của các cơ quan xếp
[Type text]

Trang 13


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
hạng không nên bị đánh giá thấp. Nhưng vai trò của các cơ quan xếp hạng trong thị
trường chứng khoán hóa tài sản bảo đảm với các nhà đầu tư đã được nhấn mạnh như là
một yếu tố nguyên nhân, thực sự các nhà đầu tư không là người duy nhất mua những
khoản chứng khoán hóa này. Các ngân hàng cũng đã đầu tư.
3.3. Các nhà đầu tư bỏ đi:
Những rủi ro bất lợi có thể hiện thực trong một môi trường không chắc chắn, cái có thể
làm cho các công cụ tài chính trở nên nhạy cảm với các thông tin tài sản cơ bản – trong
trường hợp nhà đầu tư bỏ đi để có lợi thế về giá trước khi các nhà đầu tư khác thiết lập
giá và trước khi có một sự suy giảm nữa về tài sản. Vì thế cuộc khủng hoảng mang tính
hệ thống trong suốt một năm hoang mang 2008, một phần, do sự gia tăng rủi ro do các tài
sản và rủi ro đối tác giữa chính các tổ chức trung gian tài chính.

3.4. Sự mất cân bằng toàn cầu:
Nhiều phân tích về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chỉ ra rằng sự mất cân bằng
toàn cầu là nguyên nhân chính cho cuộc khủng hoảng. Tranh cãi ở đây cho rằng Trung
Quốc và một số nước châu Âu có thặng dư tài khoản vãng lai, tạo ra sự mất cân bằng
toàn cầu nghiêm trọng và dai dẳng.
Những mất cân đối tìm thấy con đường của nó thông qua vốn chảy vào các nền kinh tế
Mỹ, và một phần lớn những dòng tiền này đầu tư vào các tài sản có rủi ro thấp như trái
phiếu kho bạc Mỹ, nợ chính phủ của Mỹ, và thị trường cổ phiếu. Nó chắc chắn sự thật
rằng có rất nhiều vốn đã chảy vào Mỹ. Tài khoản vãng lai của Mỹ đã bị thâm hụt trong
20 năm, và kích thước của thâm hụt trung bình hơn 4% GDP trong ít nhất 10 năm. Nhưng
trong khi sự mất cân bằng toàn cầu rõ ràng là trung tâm để hiểu các dòng vốn vào nền
kinh tế Mỹ, họ chưa kín kẽ trong việc giải thích các cuộc khủng hoảng tài chính theo hai
cách khác nhau.
• Đầu tiên, họ không giải thích lý do tại sao các tài sản phi rủi ro - ví dụ như các
chứng khoán xếp hạng AAA - được tìm thấy trong bảng cân đối của các tổ chức
tài chính của Mỹ, chứ không phải chỉ đơn giản là kết thúc trong sự nắm giữ tài sản
của các nước thặng dư.

[Type text]

Trang 14


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
• Thứ hai, họ không giải thích được tính địa lý của cuộc khủng hoảng tài chính nói
riêng, tại sao cuộc khủng hoảng mất diễn ra như một hình thức toàn cầu ngay từ
khi ra đời.
Rõ ràng các tổ chức tài chính ở Anh và Mỹ, cả những nước thâm hụt, đã ảnh hưởng nặng
nhất trong cuộc khủng hoảng. Nhưng, các tổ chức tài chính ở Thụy Sĩ (UBS), Hà Lan
(ABN AMRO) và Đức (West LB, Deutsche Bank), các nước thặng dư, cũng là những

nước ảnh hưởng nặng nhất. UBS đã có sự phòng chống trong đầu tư hiệu quả khi dành
hầu hết số vốn của mình đặt vào tài sản xếp hạng AAA nhưng dưới chuẩn của Mỹ. ABN
AMRO là một trong những người sáng tạo lớn nhất của bảng cân đối ngoại bảng, với quy
định đảm bảo thanh khoản được hỗ trợ bởi các nguồn vốn ít . Và quả thực, các ngân hàng
đầu tiên sụp đổ trong cuộc khủng hoảng do tiếp xúc với thị trường ABCP là ở Đức, một
quốc gia thặng dư.
Trong ngắn hạn, sự mất cân bằng toàn cầu giúp cho việc tìm hiểu các dòng vốn
giữa các quốc gia, nhưng trong một thế giới của ngành tài chính hợp nhất, các ngân hàng
toàn cầu của các nước thặng dư có thể bộc lộ nếu những quy định của họ lỏng lẻo và tiếp
nhận các tài sản có chất lượng kém (được tài trợ bởi các nơi khác bởi sự mất cân bằng)
3.5. Rủi ro định giá sai – Niềm tin sai lệch trong sự điều độ tổng quát và tâm lý bầy
đàn “Animal Spirits”:
Có rất nhiều những động lực tâm lý dẫn đến khủng hoảng hệ thống tài chính. Nó có thể
bao gồm niềm tin mù quáng trong việc nâng giá thái quá nhà cửa, và cả sự tuột dốc một
cách tương ứng ở thị trường vốn khi giá nhà giảm mạnh. Hiển nhiên, có một quan điểm
chia sẻ rộng rãi trong các nhà kinh tế học vĩ mô, trong thập kỷ trước đó của khủng hoảng,
điều đó cũng được gọi là Sự điều phối tổng quát được hình thành, một giai đoạn với sự
tuột dốc của biến động kinh tế vĩ mô bởi sự phát triển của thị trường vốn quốc tế và chia
sẻ rủi ro được đưa ra. Điều này được mạo nhận cho là liên quan đến chu trình suy thoái
kinh tế định kỳ, và thị trường, trong trường hợp tổng quát, quá nhiều hưng phấn trong
thời gian kết quả tốt, và thất bại trong việc áp dụng chuyên môn đối với những đối tượng
nhận lấy rủi ro. Theo cách nói khác, quan điểm mang tính hành vi về khủng hoảng tài
[Type text]

Trang 15


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
chính (tinh thần động vật) đơn giản là rủi ro khi định giá sai, và thị trường bỏ qua những
tín hiệu cảnh báo rằng thị trường nhà ở và nền kinh tế đang trong tình trạng quá nhiệt,

châm ngòi cho quả bom thay vào đó thông qua định giá khác thường được đính kèm với
tài sản cơ bản.
Nhưng sự mở rộng tài sản cố định trong hệ thống tài chính không đơn thuần là
nhân rộng bảng cân đối tài chính, nó cũng là sự gia tăng đòn bẩy của tổ chức tài chính.
Bức tranh nổi lên là một trong những lĩnh vực đầy háo hức của tài chính để gánh vác đòn
bẫy to lớn ngay cả khi trong một thế giới mà vốn chủ sở hữu có thể có sẵn một cách dễ
dàng. Hơn thế nữa, đòn bẫy dưới sự đón nhận bởi quá nhiều lĩnh vực tài chính đã hứa hẹn
trong ngắn hạn. Từ khi những nhà đầu tư có trách nhiệm ngắn hạn được trông đợi để làm
dấy lên những kế hoạch sản xuất bằng cách mua sự thay thế, nhà đầu tư có được một sự
lựa chọn để làm mới sự đầu tư của họ, thứ có thể tạo ra một sự dịch chuyển trên bảng cân
đối tài chính của cơ quan phát hành. Giá trị của nợ, vì thế, một cách tự nhiên phụ thuộc
vào sự đo lường biến động ngắn hạn. Nếu sự biến động tăng lên, những kế hoạch trong
ngắn hạn có thể không được lật lại, và sự thiếu hụt sẽ bị được đáp ứng nhu cầu bởi vốn
ngân hàng. Vì mô hình kiểm soát rủi ro của các ngân hàng hiện đại trong giai đoạn 2004 2007 đã được xây dựng xung quanh việc tạo ra trong ngắn hạn chiến lược tài chính cho
tài sản cố định dài hạn, rủi ro thanh khoản dài hạn hơn có liên quan không được cân nhắc
một cách cẩn trọng bởi những quản lý ngân hàng và hội đồng quản trị của họ.
3.6. “Greenspan Put”:
Một lý do quan trọng tại sao bong bóng giá tài sản cố định có thể tăng (ngay cả khi thiếu
đi tính bầy đàn) là khi giá của tài sản cố định chẳng hạn như nhà giảm xuống, một sự hy
vọng rằng suất sinh lời sẽ giảm xuống bởi ngân hàng trung ương làm dịu đi điều kiện
kinh tế, và sự giảm suất sinh lời này sẽ có xu hướng tăng (tái tăng) giá của tài sản cố
định. Sự trông đợi này làm trầm trọng thêm vấn đề xoay chuyển rủi ro liên quan đến đòn
bẩy tài sản tài chính.
Vai trò của chính sách tiền tệ lỏng lẻo trong việc châm ngòi cho bong bóng giá
nhà đất thì có thể gây tranh luận. Thật vậy, chính sách tiền tệ của Mỹ giữ cho lãi suất cho
vay thấp, không chỉ đối với chủ nhà mà còn với những khu vực tài chính. Một cách trầm
[Type text]

Trang 16



Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
trọng, điều này trở nên hấp dẫn hơn với ngân hàng từ bên ngoài Mỹ để vay đô la và gây
quỹ tài sản cố định ở Mỹ. Hành động này không nhất thiết giải thích vì sao thế giới kết
thúc với một khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Vì thế, những ngân hàng chuyển tài
sản họ tạo ra (đặc biệt những CMOs dưới chuẩn) đến những những người sử dụng một
cách thường xuyên, ngay cả khi cú sốc tiêu cực như là một hệ quả từ vụ nổ bong bóng
báo hiệu cho khủng hoảng tài chính. Kết quả là, chính sách tiền tệ lỏng lẻo trong giai
đoạn 2002 – 2005 giúp gieo hạt mầm của khủng hoảng kinh tế, sự giữ lại bởi ngân hàng
của phần tệ nhất đối với hàng hóa được định giá quá cao, cái mà bóp cò cho một vài ngân
hàng lớn, là lý giải tại sao khủng hoảng tăng cho toàn bộ hệ thống .
3.7. Khủng hoảng thanh khoản hay khủng hoảng khả năng thanh toán?
Sự bất lực của các ngân hàng trong thanh lý các tài sản dài hạn với giá trị hợp lý đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc tích tụ cho cuộc khủng hoảng. Đổi lại, khả năng
thanh khoản như vậy sẽ khiến tất cả người gửi tiền bỏ đi cùng một lúc, vì sẽ không có
nhiều giá trị dài hạn cho tài sản làm tăng lên sự thanh khoản.
Nguyên nhân gốc rễ của cuộc khủng hoảng là khả năng trả nợ của các hộ gia đình và khu
vực tài chính có lẽ là một lời giải thích cho lý do cơ sở cho việc bơm vào thanh khoản
khổng lồ được tạo ra bởi FED và Ngân hàng Trung ương khác trong chức năng người cho
vay cuối cùng, nhưng đã không thành công trong việc ngăn chặn cuộc khủng hoảng. Giữa
mùa thu năm 2007 và tháng 12 năm 2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tạo ra cơ sở vật chất
hỗ trợ hiệu quả đối với hầu hết các loại tài sản đã trải qua giai đoạn căng thẳng trong
cuộc khủng hoảng, nó cung cấp cơ sở cho vay dài hạn đối với các tài sản thế chấp có chất
lượng cao, mở ra cơ hội giảm giá mở rộng cho các công ty chứng khoán và ngân hàng
đầu tư, cho vay đối với chứng khoán có tính thanh khoản cao và chất lượng trong bảo
đảm, cho vay mua ABCP và thương phiếu không có bảo đảm, cung cấp thanh khoản cho
quỹ thị trường tiền tệ, và mua tài sản của GSEs. Đây là những biện pháp đáp ứng mục
tiêu thanh khoản và không giống như tiết kiệm trong ngày nếu các vấn đề cơ bản là thiếu
khả năng thanh toán. Thật vậy, bất cứ bảng cân đối được cơ cấu hoặc các bài kiểm tra
stress test chỉ xảy ra sau 14 tháng của khủng hoảng, sau sự thất bại của Lehman Brothers


[Type text]

Trang 17


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
vào giữa tháng 9 năm 2008. Ở giai đoạn mà cuộc khủng hoảng đã lan rộng hoàn toàn
trong hệ thống.

[Type text]

Trang 18


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

Phần 4: VẤN ĐỀ KÍCH THÍCH CỐT LÕI
Nhiều tổ chức tài chính đã trở nên lớn và ngày càng phức tạp và không rõ ràng trong hoạt
động của mình. Điều này đã làm suy yếu quản trị bên ngoài mà hoạt động này thông qua
thị trường vốn (giá chính xác), thị trường cho sự kiểm soát công ty (tiếp quản), và vai trò
và hoạt động của Hội đồng quản trị. Thật trùng hợp, có một thực tế rằng những rủi ro tài
chính tại các tổ chức này đang ngày càng tập trung vào tay của một vài trung tâm lợi
nhuận / rủi ro "hiệu suất cao". Nhân viên (nhân viên ngân hàng, thương nhân) tham gia
vào các trung tâm này có kỹ năng trong việc tạo ra, đóng gói đi đóng gói lại, niêm yết
trên thị trường, và bảo hiểm rủi ro tài chính chứng khoán. Kể từ khi những kỹ năng này
phần lớn có thể thay thế được thông qua các tổ chức, và nhân viên có sức ảnh hưởng và
khả năng thương lượng lớn trong các tổ chức của họ, và đã thành công trong việc tự
thưởng thông qua sự thu hút cao, gói bồi thường ngắn hạn cung cấp cho họ khoản tiền
thưởng béo bở cho hiệu suất ngắn hạn cho thấy chính nó là sự ảo tưởng.

Trong thời gian dẫn đến cuộc khủng hoảng 2007-2009, các ngân hàng ngày càng được trả
tiền thông qua tiền thưởng tiền mặt ngắn hạn dựa trên khối lượng và lợi nhuận đưa ra thị
trường được niêm yết, chứ không dựa vào lợi nhuận dài hạn của họ "đặt cược". Vì vậy,
họ không có động cơ để giảm giá, ví dụ như trong trường hợp, chứng khoán có tài sản
đảm cho rủi ro thanh khoản trong trường hợp đặt cược của họ đã đi sai và không ai muốn
mua các chứng khoán. Và cũng không có động cơ để giảm giá cho các "khoản đến hạn"
vốn có trong các phương tiện đầu tư đặc biệt ngoài bảng cân đối của các ngân hàng - tài
trợ cho tài sản dài hạn thông qua thương phiếu ngắn hạn có tài sản đảm rằng đã được giữ
qua đêm. Cũng không phải, rõ ràng, có phải quản lý của họ đánh giá kỹ năng thực sự của
những người đã tạo ra những "Lợi nhuận" lớn. Trong thực tế, những hoạt động thể hiện
thông qua "chênh lệch giá quy định" – gánh những rủi ro và cơ cấu tài chính mà không có
yêu cầu vốn phù hợp - đó trở thành một ngành kinh doanh chính của khu vực tài chính vì
nó đang tạo ra lợi nhuận ngắn hạn.
Một trường hợp ở điểm 2. Trong mùa hè năm 2005, UBS, Thụy Sĩ, lớn, tổ chức tài chính
phức tạp (LCFI), đã trở thành một người chơi lớn trong cho vay dưới chuẩn thế chấp
nghĩa vụ nợ (CDO). Nó mua khối lượng thế chấp dưới chuẩn từ các nhà phát hành thế
chấp, và đóng gói chúng để các đợt "siêu cao cấp" sẽ nhận được sự đánh giá cao nhất của
cơ quan xếp hạng tín dụng. Kết quả là các chứng khoán AAA sau đó đã được bán cho các
nhà đầu tư. UBS đã được trả hậu hĩnh cho cơ cấu lại các giao dịch. kinh doanh này
thường hoạt động như dự định - các rủi ro tín dụng mà thông thường sẽ được tạo ra bởi
UBS hoặc các ngân hàng khác hoặc các nhà cho vay thế chấp đã được chuyển giao, hay
dịch chuyển đến các lĩnh vực khác của cộng đồng đầu tư.
Bắt đầu từ năm 2006, tuy nhiên, các nhóm CDO tại UBS nhận thấy rằng hệ thống quản lý
của họ được đánh giá là các chứng khoán AAA như về cơ bản không có rủi ro, mặc dù họ
nắm giữ một phí bảo hiểm khá lớn so với chi phí vốn của họ (tục ngữ "ăn trưa miễn phí").
Vì vậy, nhóm quyết định giữ chúng chứ không phải là bán chúng. Sau khi nắm giữ ít hơn
5 tỷ $ của các chứng khoán vào tháng hai năm 2006, CDO được cất giữ 50 tỷ $ vào tháng
Chín năm 2007. Thật khó tin, điều này xảy ra ngay cả khi thị trường nhà đất đã diễn biến
[Type text]


Trang 19


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
đi xuống trong tháng Sáu năm 2006; một số người cho vay dưới chuẩn đã bị phá sản vào
đầu năm 2007, và UBS ngừng quỹ đầu cở của nó, Dillon Read Capital Management,
tháng 5 năm 2007 liên quan tới thua lỗ đầu tư dưới chuẩn.
Không ai trong số này quan trọng với các nhóm UBS CDO. Đối với mỗi $ 1 của chứng
khoán siêu cao cấp của tổ chức, nó đặt được lợi nhuận cao hơn chủ nhà tài trợ như một
lợi nhuận trước mắt. Và đối với mỗi đô la lợi nhuận hiện tại đặt, các thành viên của nhóm
CDO nhận được tiền thưởng cao tương ứng. Do đó nhóm này có động cơ để tăng số
lượng CDO trên bảng cân đối UBS càng nhiều càng tốt. Như một xu hướng mode tương
tư, vào cuối mùa hè năm 2007, Citigroup đã có tích lũy được hơn $ 55 tỉ CDO hạng AAA
ngoài bảng cân đối "công cụ đầu tư đặc biệt"
Nhiều nhà phân tích đã đưa câu chuyện UBS, và tổ chức tài chính khác không thành công
(hoặc gần như thất bại) (ví dụ, Bear Stearns, Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brother,
AIG., Merrill Lynch, Washington Mutual, Wachovia, và Citigroup) như là bằng chứng
của một thất bại lớn của quản trị doanh nghiệp; tức là, về mối quan hệ giữa các cổ đông
và các nhà quản lý. Trong khi điều này là một phần đúng, nó có thể có tầm quan trọng
thứ hai của cổ đông của LCFIs không đứng được hưởng lợi từ các tùy chọn chấp nhận rủi
ro vốn có trong cược CDO như tại các chi phí của chủ nợ và người nộp thuế. Vì vậy, vấn
đề thực sự có thể không có xung đột giữa các cổ đông và các nhà quản lý, mà là giữa các
cổ đông và người nộp thuế, người cuối cùng đã phải dọn dẹp đống lộn xộn hệ thống được
tạo ra bởi các ngân hàng.

[Type text]

Trang 20



Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam

Phần 5: ĐỐI PHÓ VỚI RỦI RO HỆ THỐNG TRONG
NGÂN HÀNG TOÀN CẦU
Rủi ro hệ thống là rủi ro của một sự sụp đổ của toàn bộ hệ thống tài chính. Một sự sụp
đổ như vậy xảy ra vào cuối những năm 2000 như là kết quả của sự thất bại thảm khốc
của quản lý rủi ro của chính các tổ chức tài chính có ý định cạnh tranh có hiệu quả với
nhau và thu lợi nhuận cao. Sự sụp đổ tạo ra một cơn lốc đã quét qua nền kinh tế thực,
làm tổn hại tất cả các nhà đầu tư, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu tồi tệ nhất
kể từ năm 1930. Có một sự thay đổi cơ bản trong mô hình kinh doanh của các tổ chức
tài chính lớn, phức tạp trong giai đoạn 2003-2007, trong đó đã được hoặc là không bị
phát hiện hoặc dung túng của nhà quản lý và đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo
ra sự hỗn loạn tài chính và kinh tế. Các mô hình kinh doanh thay đổi dẫn đến các trung
gian tài chính lớn "sản xuất" những rủi ro xác suất thấp nhưng ảnh hưởng cao đã trở
thành hệ thống. Điều này liên quan đến việc tạo ra các phương tiện ngoại bảng để trốn
tránh các quy định an toàn vốn, cũng như đầu tư trong các đợt được đánh giá AAA của
tài sản thế chấp dưới chuẩn, thay vì phân phối đầy đủ. Họ đã làm điều này bằng cách sử
dụng những đổi mới phức tạp mà cho phép họ phát huy tối đa đòn bẩy, và do đó phóng
đại mức độ rủi ro liên quan.
Trong số những lý do đằng sau sự thay đổi trong ngành ngân hàng trong giai đoạn này
là (a) sự cạnh tranh tăng lên, làm xói mòn lợi nhuận của các ngân hàng truyền thống,
cung cấp các ngân hàng với các ưu đãi để có nhiều rủi ro; (b) cung cấp bởi chính phủ
bảo lãnh ngầm của các khoản nợ không có tiền gửi ngân hàng mà không cần chi phí phù
hợp cho bảo hiểm, và không có yêu cầu giảm nguy cơ liên quan, do đó, các ngân hàng
đã có thể sử dụng những bảo đảm để tài trợ rủi ro quá mức; và (c) một cách tiếp cận thụ
động trên một phần của quản lý tài chính đối với các cách thức sáng tạo các ngân hàng
đưa ra để tăng đòn bẩy và nguy cơ phơi nhiễm. Yếu tố kinh tế vĩ mô, như lãi suất thấp
tại Hoa Kỳ, và vốn lớn chảy vào các nước thương mại thâm hụt như Hoa Kỳ và Vương
quốc Anh chắc chắn khuếch đại xu hướng cố hữu để tìm kiếm xác suất thấp, rủi ro tác
động cao trong các lĩnh vực tài chính .

Lý tưởng nhất, các cơ quan chính phủ có thể nhận ra một số nguyên tắc pháp lý cần
thiết trong việc thiết lập các cơ chế để kiểm soát rủi ro hệ thống. Điều này sẽ bao gồm
những điều sau đây:
Đầu tiên, các trung gian tài chính hệ thống như LCFIs (những người được cho là quá
lớn để sụp đổ) phải được tính phí bảo hiểm tương xứng với bảo hiểm của chính phủ rõ
ràng hoặc ngầm mà họ được hưởng trên cơ sở liên tục, và không chỉ khi các quỹ giải
quyết đã bị cạn kiệt trong các tình huống khủng hoảng. Những phí bảo hiểm phải được
liên kết một cách rõ ràng với hồ sơ rủi ro của LCFI và tỷ lệ đòn bẩy, do khả năng bài cũ
xảy ra khi một hoặc nhiều người chơi lớn thất bại.
Thứ hai, cần có một bảo hiểm bổ sung gắn cụ thể cho các hệ thống rủi ro của các tổ
chức; tức là, nếu nó được vượt quá mức quy phạm, tổ chức trả tiền cho các nguy cơ bổ
sung đưa vào.
[Type text]

Trang 21


Chương 5: Nghiệp vụ quản lý ngoại hối Việt Nam
Thứ ba, nó đã được công nhận rằng việc tính phí , phí bảo hiểm phụ thuộc vào các đánh
giá pháp quy về rủi ro, và khi nó trở thành hệ thống. Ngay cả với dữ liệu mới nhất và
dựa trên thị trường và tình báo giám sát tốt, đánh giá rủi ro hệ thống là không hoàn hảo,
vì luôn luôn có những vấn đề nội bộ liên quan đến vốn và rủi ro phân bổ mà hậu quả
không phản ánh đầy đủ, rõ ràng, hoặc hiểu, ngay cả ở mức độ quản lý riêng của ngân
hàng. Vì vậy, một số loại kỷ luật sau sự kiện cần thiết, ví dụ, món nợ mà tự động
chuyển đổi thành cổ phiếu khi lỗ cạn kiệt nghiêm trọng vốn chủ sở hữu.
Cuối cùng, một hình thức tách biệt chức năng hoặc tách công ty cần phải được thi hành,
cho dù bởi các quy định được thừa nhận hoặc thông qua phí vốn thích hợp. Nhiều nhà
quan sát tỏ ra nghi ngờ về hiệu quả của các quy định của các công ty tài chính lớn, phức
tạp có, thời gian và một lần nữa, chứng minh và chênh lệch giá. Chức năng tách sẽ khắc
ra các hoạt động ngân hàng và các trung gian truyền thống cho vay và bảo lãnh phát

hành từ các hoạt động rủi ro dễ bị kho bãi, kinh doanh độc quyền hoặc có hiệu quả chạy
một quỹ đầu tư trong nhà. Điều này có thể có một giá về hiệu quả của các trung gian tài
chính, nhưng đó có thể là một giá chấp nhận được để chi trả cho việc giảm số lượng bao
la của rủi ro hệ thống hơn LCFIs hiện đại có khả năng tạo ra. Chức năng tách cũng có
thể là một giá nhỏ để trả cho tăng cường vững mạnh của hệ thống tài chính.
Không cần phải nói, những nỗ lực gần đây để cải cách ngành tài chính ở Hoa Kỳ và
Vương quốc Anh đã thất bại trong việc kết hợp các nguyên tắc này vào những cải cách
của họ đến mức độ đáng kể. Chương tiếp theo sẽ thảo luận chi tiết hơn các tùy chọn
điều đã được trình bày trong những nỗ lực để đạt được những cải cách sau cuộc khủng
hoảng tài chính và kinh tế của giai đoạn 2007-2009.

[Type text]

Trang 22



×