Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận môn ngân hàng quốc tế điều hành chính sách tiền tệ ở một số quốc gia trong thời gian gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.36 KB, 26 trang )

Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM, MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
1.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ (Monetary Policy):
Theo điều 2 luật NHNNVN: “CSTT quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh
tế-tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống
nhân dân…”
Chính sách tiền tệ là một hệ thống các quan điểm, các chủ trương và biện pháp của
nhà nước nhằm tác động vàđiều chỉnh các hoạt động về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng và
ngoại hối, tạo ra sự ổn định của nền kinh tế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân
phát triển. Chính sách tiền tệ là công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước, là một bộ phận hợp
thành của chính sách kinh tế, và trong một mức độ nào đó thì chính sách tiền tệ là một bộ
phận của kinh tế tài chính quốc gia và chính sách phát triển kinh tế.
1.2 Trách nhiệm và quyền hạn của các đối tượng liên quan đến chính sách tiền tệ
quốc gia:
Chính sách tiền tệ quốc gia là chính sách vĩ mô của Nhà nước, Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, NHNN và các Bộ, Ngành khác của Chính phủ đều có quyền hạn và
trách nhiệm nhất định liên quan đến chính sách tiền tệ.
+ Quốc hội: Giám sát chính sách tiền tệ; quyết định và giám sát mức lạm phát dự kiến
hàng năm.
+ Chủ tịch nước: Đàm phán, ký kết, tham gia, phê chuẩn điều ước quốc tế, thỏa thuận
quốc tế về lĩnh vực tài chính, tiền tệ và hooatj động ngân hàng.
+ Ngân hàng Nhà nước: Là cơ quan của Chính phủ, NHNN có trách nhiệm chủ trì xây
dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ trình Quốc hội quyết định; xây dựng
các dự án luật, pháp lệnh về tiền tệ và hoạt động ngân hàng…
+ Các Bộ, Ngành khác của Chính phủ: Phối hợp với NHNN trong việc cung cấp định
hướng chủ trì xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia…


1


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

1.3 Các loại chính sách tiền tệ:
-

Chính sách tiền tệ mở rộng:áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất
nghiệp gia tăng, chính sách tiền tệ này nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu
tư mở rộng sản xuất kinh doanh và tạo việc làm. Trong trường hợp này, Chính sách tiền

-

tệ nhằm chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: áp dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá, đồng thời
lạm phát ngày càng gia tăng, chính sách tiền tệ này nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn
chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá cao của nền kinh tế. Trường hợp này, Chính sách
tiền tệ nhằm chống lạm phát kìm hãm sự phát triển “quá nóng” của nền kinh tế.
1.4 Các mục tiêu của chính sách tiền tệ:
1.4.1 Ổn định giá cả
Ổn định giá cả hay kiểm soát lạm phát là mục tiêu hàng đầu và là mục tiêu dài
hạn của chính sách tiền tệ. Các ngân hàng Trung Ương (NHTW) thường lượng hoá mục
tiêu này bằng tốc độ tăng của chỉ số giá cả tiêu dùng xã hội. Việc công bố công khai chỉ
tiêu này là cam kết của NHTW nhằm ổn định giá trị tiền tệ về mặt dài hạn. Điều này có
nghĩa là NHTW sẽ không tập trung điều chỉnh sự biến động giá cả về mặt ngắn hạn. Do
những biện pháp về chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế có tính chất trung và dài
hạn, hơn nữa khó có thể dự đoán chính xác kết quả sẽ xảy ra vào thời điểm nào trong

tương lai, vì vậy sẽ là không khả thi đối với NHTW trong việc theo đuổi để kiểm soát giá
cả trong ngắn hạn.
Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của
quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô.
Mức lạm phát thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu
tư và đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Đây là lợi ích có tầm quan
trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của quốc gia.Lạm phát cao hay thiểu phát
liên tục là rất tốn kém cho xã hội, thậm chí ngay cả trong trường hợp nền kinh tế phát
triển khả quan nhất. Sự biến động liên tục của các tỷ lệ lạm phát dự tính làm méo mó, sai
lệch thông tin và do đó làm cho các quyết định kinh tế trở nên không đáng tin cậy và
không có hiệu quả. Nguy hiểm hơn, sự bất ổn định giá cả dẫn đến sự phân phối lại không
dân chủ các nguồn lực kinh tế trong xã hội giữa các nhóm dân cư.
2


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả không đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát
bằng không. Những nghiên cứu về lạm phát cho thấy trong khi cố gắng duy trì lạm phát ở
gần mức 0, chính sách tiền tệ dễ đưa nền kinh tế đi quá đà và rơi vào tình trạng thiểu phát
gây hậu quả còn trầm trọng hơn, đó là làm nền kinh tế suy thoái. Hơn nữa một mức lạm
phát dương được chứng minh là có tác dụng bôi trơn và hâm nóng nền kinh tế nên sẽ có
những ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Theo các chuyên gia về chính sách tiền
tệ ở châu Âu, mức lạm phát từ 1.5% đến dưới 4% là phù hợp với các nền kinh tế phát
triển.
1.4.2 Ổn định tỷ giá hối đoái
Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các luồng hàng hoá và tiền vốn vào ra một quốc
gia gắn liền với việc chuyển đổi qua lại giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Việc ngăn

ngừa những biến động mạnh, bất thường trong tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho các hoạt động
kinh tế đối ngoại được hiệu quả hơn nhờ dự đoán được chính xác về mặt khối lượng giá
trị. Thêm vào đó, tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hoá
trong nước với nước ngoài về mặt giá cả.
1.4.3 Ổn định lãi suất
Lãi suất là một biến số kinh tế vĩ mô hết sức quan trọng trong nền kinh tế do nó
ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu của các doanh nghiệp và hộ gia đình. Những biến động
bất thường trong lãi suất sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp và cá nhân trong việc dự
tính chi tiêu hay lập kế hoạch kinh doanh. Do đó ổn định lãi suất cũng là một mục tiêu
quan trọng mà các NHTW hướng tới nhằm góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.
1.4.4 Ổn định thị trường tài chính
Thị trường tài chính được xem là nơi tạo ra nguồn vốn cho phát triển kinh tế. Nó
góp phần quan trọng trong việc điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn, giúp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Với vai trò như vậy, sự ổn định của thị trường tài
chính có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế các quốc gia. NHTW với khả năng tác
động tới khối lượng tín dụng và lãi suất có nhiệm vụ đem lại sự ổn định cho thị trường tài
chính.

3


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

1.4.5 Tăng trưởng kinh tế
Do chính sách tiền tệ có thể ảnh hưởng tới của cải và chi tiêu của xã hội nên có thể
sử dụng nó làm đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế phải được
hiểu cả về khối lượng và chất lượng. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của
GDP thực tế, tức là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ.

Chất lượng tăng trưởng được biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh
tranh quốc tế của hàng hoá trong nước tăng lên.
Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định là nền tảng cho
mọi sự ổn định, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh
toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
1.4.6 Giảm tỷ lệ thất nghiệp
Tạo công ăn việc làm đầy đủ là mục tiêu của tất cả các chính sách kinh tế vĩ mô
trong đó có chính sách tiền tệ. Công ăn việc làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng bởi ba lý
do:
+ Chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ tiêu phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó
phản ánh khả năng sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội.
+ Thất nghiệp gây nên tình trạng căng thẳng cho mỗi cá nhân và gia đình của họ và là
mầm mống của các tệ nạn xã hội.
+ Các khoản trợ cấp thất nghiệp tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách
và làm căng thẳng tình trạng ngân sách.
Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp bằng 0 mà ở
mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên được cấu thành từ tỷ lệ thất
nghiệp tạm thời (những người đang tìm kiếm công việc thích hợp) và tỷ lệ thất nghiệp cơ
cấu (thất nghiệp bởi sự không phù hợp giữa nhu cầu về lao động và cung của lao động).
Mỗi quốc gia cần xác định được tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên một cách chính xác để đạt
được mục tiêu này. Bên cạnh đó, cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng được coi là
mục tiêu của chính sách tiền tệ.

4


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG


CHƯƠNG 2: CƠ CẤU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
2.1 Chính sách cung ứng và điều hòa khối tiền (còn gọi là chính sách phát hành):
Chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền được coi là bộ phận quan trong nhất
của chính sách tiền tệ. Do tính chất quan trong của nó mà người ta thường coi chính sách
tiền tệ là chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền.
Chính sách này nhằm duy trì một sự cân đối giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ
trong nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế vừa tránh được lạm phát nặng nề, vừa đảm
bảo cung cấp đủ phương tiện cho nền kinh tế, nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cung ứng và điều hoà khối tiền: được thực hiện theo các nhu cầu đối ứng, tức là đi
từ gốc theo 3 kênh tạo tiền: tín dụng tăng cho nền kinh tế; tạm ứng cho ngân sách; mua
vàng và ngoại tệ.
Chính sách cung ứng và điều hoà khối tiền: được thực hiện một cách tốt nhất trên
cơ sở quan sát các tín hiệu của thị trường như: chỉ số giá cả hàng hoá thiết yếu, giá vàng
và tỉ giá hối đoái. Những tín hiệu trên có biến động hay tăng giảm đều kéo theo một sự
thay đổi về nhu cầu tiền tệ tăng giảm tương ứng. Vì vậy, ta có thể dựa vào đó để cung
ứng và điều hoà khối tiền.
2.2 Chính sách tín dụng:
Thực chất chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế,
thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ
các nguồn tiền gửi của xã hội và 1 hệ thống lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với sự
vận động của cơ chế thị trường
2.3 Chính sách ngoại hối:
Nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại
phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc
làm trong xã hội, bảo đảm chủ quyền tiền tệ của đất nước.
Chính sách ngoại hối phải thỏa mãn 3 yêu cầu cơ bản:
+Bảo vệ độc lập chủ quyền của đồng tiền quốc gia.
+Cho phép tập trung các nguồn ngoại hối vào trong tay nhà nước để sử dụng một cách
hợp lý và tiết kiệm cho việc phát triển nền kinh tế quốc dân.
5



Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

+Tạo điều kiện để mở rộng các quan hệ về kinh tế, chính trị-xã hội, ngoại giao giữa
nước ta và nước ngoài.
2.4 Công cụ của chính sách tiền tệ quốc qia (Monetary Policy Instruments)
2.4.1 Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là một hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của NHNN nhằm cung ứng vốn
ngắn hạn và công cụ thanh toán cho các ngân hang (NHTM).Khi cấp 1 khoản tín dụng
cho NHTM, NHNN đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng
thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
- Ưu điểm: các khoản vay của NHNN đảm bảo thu về được.
- Nhược điểm: việc vay hay không vay phụ thuộc vào các NHTM
2.4.2 Lãi suất
- Lãi suất là tỷ lệ % trên khoản tiền người vay phải trả cho người cho vay trên tiền vốn,
trong những khoảng thời gian nhất định.
- Lãi suất được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự
thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông,
mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất.Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là
tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của NHNN nhằm điều tiết lãi
suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
- Ưu điểm: NHNN có thể tác động trực tiếp đến các dự án đầu tư bằng các điều kiện
tín dụng.
- Nhược điểm: Lãi suất được ấn định có thể không phù hợp với nền kinh tế, gây khó
khăn cho việc thực hiện các dự án đồng thời tính linh hoạt của thị trường tiền tệ sẽ bị suy
giảm.
2.4.3 Tỷ giá hối đoái

- Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa
phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá
hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập
khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách
nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ,
6


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá
không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ
trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển
đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
2.4.4 Dự trữ bắt buộc
- Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa và dự trữ
theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở ngân hàng trung
ương và để tại quỹ của mình, với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của
Ngân Hàng Thương Mại và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của
ngân hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho vay
và đầu tư của ngân hàng thương mại từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm
giảm cầu tiền để cân bằng với sự giảm cung xã hội. Trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của Ngân Hàng Thương Mại sẽ tăng lên, dẫn đến sự
gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để cân đối tăng cầu về
tiền.
- Ưu điểm: NHNN nắm được khối lượng tín dụng mà các NHTM và các tổ chức tín
dụng khác cung cấp và có khả năng cung cấp cho nền kinh tế do đó NHNN có thể tác
động trực tiếp đến khối lượng tín dụng bằng cách tăng hay giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.

- Nhược điểm: Hạn chế khả năng sinh lời của đồng tiền.
2.4.5 Nghiệp vụ thị trường mở
- Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ
của các NHTM, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến
làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
- Ưu điểm: NHNN tác động trực tiếp đến dự trữ của các NHTM, buộc các NHTM phải
gia tăng hay giảm khối lượng tín dụng.
- Nhược điểm: Biện pháp này chỉ thực hiện được trong điều kiện các khoản tiền trong
lưu thông đều nằm tại các NHTM.

7


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

2.4.6 Các công cụ khác
-

Tăng cường hoạt động thanh tra giám sát: Cần nâng cao năng lực giám sát của NHNN và
công tác kiểm tra nội bộ của các NHTM nhằm đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng, ổn
định kinh tế vĩ mô

-

Can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tệ: Việc can thiệp vào thị trường vàng và ngoại tệ
của NHNN nhằm đảm bảo chính sách tỷ giá duy trì ổn định, kiểm soát lạm phát.


8


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

CHƯƠNG 3: ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở MỘT SỐ QUỐC GIA THỜI
GIAN GẦN ĐÂY.
3.1 Các chính sách FED sử dụng để tác động vào nền kinh tế Mỹ trong cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008 và trong thời gian gần đây.
3.1.1 Chính sách tiền tệ của FED


Chính sách lãi suất

Về cơ bản FED đang điều hành lãi suất thông qua hai công cụ quan trọng đó là Lãi suất
chiết khấu (Discount rate) và Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate – FFR)
Lãi suất quỹ dự trữ liên bang (Federal Funds Rate – FFR)
FFR là công cụ được FED sáng tạo muộn hơn so với công cụ lãi suất chiết khấu.
Quỹ dự trữ liên bang hình thành từ lượng tiền dự trữ bắt buộc của tất cả các trung gian tài
chính nhận tiền gửi tại FED. Cũng chính vì thế mà FFR có tên gọi là “lãi suất quỹ dự trữ
liên bang”. FFR được ủy ban thị trường mở công bố sau các phiên họp định kỳ và nó
không mang tính chất ấn định cụ thể mà thực chất chỉ là lãi suất mục tiêu để Fed thực
hiện trên thị trường mở nhằm đạt đến lãi suất mục tiêu đã công bố. FFR là lãi suất thấp
nhất mà các trung gian nhận tiền gửi có thể vay để bù đắp thiếu hụt dự trữ bắt buộc .
Mặc dù công cụ này được FED áp dụng chưa lâu nhưng FED lại thực hiện chính
sách tiền tệ chủ yếu thông qua định hướng loại lãi suất này. Fed sẽ cố gắng tác động tỷ lệ
này ở con số mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua
hoạt động của nó trên thị trường.

Lãi suất chiết khấu
Bên cạnh nhu cầu đảm bảo dự trữ bắt buộc, các trung gian tài chính còn có nhu
cầu đảm bảo thanh khoản, an toàn chi trả. Lãi suất chiết khấu của Fed chính là lãi suất
cho các trung gian tài chính vay để đáp ứng các nhu cầu này. Về nguyên tắc, lãi suất liên
ngân hàng thông thường sẽ thấp hơn lãi suất chiết khấu vì nếu không, trung gian tài chính
sẽ không vay liên ngân hàng mà sẽ vay từ Fed để được hưởng lãi suất chiết khấu thấp
hơn.

9


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Lãi suất chiết khấu thường thường cao hơn lãi suất FFR và có ba mức lãi suất
chiết khấu áp dụng cho ba loại cho vay khác nhau là tín dụng chính (Primary credit), tín
dụng mở rộng (Secondary credit) và tín dụng thời vụ (Seasonal credit) .


Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Việc bắt buộc các NHTM phải để dự trữ tối thiểu cần thiết lần đầu tiên được sử

dụng ở Mỹ vào năm 1913, với mục đích là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các
NHTM.
Dự trữ bắt buộc là một phần số dư tiền gửi các loại mà các ngân hàng thương mại
(NHTM) phải dự trữ dưới dạng tiền mặt hoặc tiền gửi tại Cục dự trữ liên bang.
Trong thời hạn giới hạn quy định của pháp luật, Hội đồng thống đốc có quyền duy
nhất đối với các thay đổi trong dự trữ bắt buộc. Tổ chức lưu ký phải có dự trữ dưới các
hình thức tiền mặt, tiền gửi kho quỹ tại Cục dự trữ Liên bang. Số tiền dự trữ bắt buộc của

một tổ chức lưu ký được xác định bằng cách áp dụng tỷ lệ dự trữ quy định tại Quy chế
của Hội đồng Dự trữ Liên bang.
Các tài khoản dự trữ bắt buộc bao gồm tài khoản giao dịch ròng, tiền gửi không kỳ
hạn và nợ EURO. Kể từ ngày 27 tháng 12 năm 1990, tiền gửi có kỳ hạn và nợ EURO đã
có một tỷ lệ dự trữ bằng không. Tỷ lệ dự trữ trên tài khoản giao dịch ròng phụ thuộc vào
số lượng tài khoản giao dịch ròng tại tổ chức lưu ký.
3.1.2 Các chính sách FED sử dụng trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009
Khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ 2007-2009 là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh
vực tài chính (tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán) diễn ra từ năm 2007. Đây là đợt suy
thoái nghiêm trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai.
3.1.2.1 Những thay đổi trong chính sách lãi suất


Điều chỉnh FFR
Ngay khi khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra, Fed bắt đầu can thiệp bằng

cách hạ lãi suất. Đến khi tình hình phát triển thành khủng hoảng tài chính từ tháng 8 năm
2007, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tiếp tục tiến hành các biện pháp nới lỏng
tiền tệ để tăng thanh khoản cho các tổ chức tài chính. Cụ thể là lãi suất cho vay qua đêm
liên ngân hàng đã được giảm từ 5,25% qua 6 đợt xuống còn 2% chỉ trong vòng chưa đầy
10


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

8 tháng (18/9/2007-30/4/2008). Sau đó vẫn tiếp tục giảm và đến ngày 16/12/2008 chỉ còn
0,25%, mức lãi suất thấp gần 0 hiếm thấy.
Biểu đồ: Diễn biến lãi suất cơ bản của FED 2007-2009


Nguồn: Cục dữ trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED)



Điều chỉnh lãi suất chiết khấu
FED cũng hạ lãi suất chiết khấu áp dụng với các khoản vay trực tiếp từ FED cho

các ngân hàng và các công ty chứng khoán từ mức 1,25% xuống còn 0,5%.
Diễn biến lãi suất chiết khấu:
Ngày
Lãi suất chiết khấu
22/01/2008
4,00
30/01/2008
3,5
17/03/2008
3,25
18/03/2008
2,5
30/04/2008
2,25
17/07/2008
5,75
18/09/2008
5,25
8/10/2008
1,75
29/10/2008
1,25

31//10/2008
5,00
11/12/2008
4,75
16/12/2008
0,5
Nguồn: Cục dữ trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED)
11


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

3.1.2.2 Nghiệp vụ thị trường mở
Fed thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua mua lại trái phiếu chính phủ Mỹ
mà các tổ chức tài chính của nước này đang nắm giữ. Đặc biệt, Fed đưa ra chính sách
tăng mua MBS. Nhìn vào biểu đồ dưới đây, có thể thấy khối lượng mua repo MBS của
Fed tăng vọt vào cuối năm 2007
Biểu đồ: Hoạt động mua lại MBS của Fed

Nguồn: Reuters
Từ năm 2000 đến đầu năm 2006, khối lượng mua lại MBS của Fed chỉ giao động
dưới 10 tỷ USD. Tuy nhiên, đến cuối năm 2007, con số đó đã lên mức gần 40 tỷ USD.
Tính đến ngày 31/03/2010 cơ quan này đã hoàn thành việc mua 1.25 nghìn tỷ USD
“MBS agency” nhưng vẫn tiếp tục tiến hành các giao dịch trong những tháng tiếp theo.
Chương trình mua lại MBS của chi nhánh được điều phối bởi Federal Reserve Bank of
New York dưới sự chỉ đạo của Federal Open Market Committee (FOMC). Mục tiêu của
chương trình này nhằm hỗ trợ cho thị trường thế chấp và nhà ở đồng thời giúp phục hồi
thị trường tài chính.


12


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

3.1.2.3 Chương trình đấu giá cho vay kì hạn (Term Auction Facility ProgramTARP)
Ngày 17/12/2007, trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn,
Fed đưa ra chương trình TAF nhằm tăng cường tính thanh khoản của thị trường tín dụng
Mỹ. TAF cho phép các tổ chức nhận kí gửi đấu giá để được vay những khoản vay ngắn
hạn đổi bằng tài sản kí quỹ. Những tổ chức này phải được thẩm định là có tình trạng tài
chính lành mạnh. Các tổ chức tham gia đấu giá qua các ngân hàng của Fed. Các khoản
đấu giá bắt đầu ngày 17/12/2007, với mức lãi suất khởi điểm 4,17% và kết thúc ở 4,65%,
Fed đã nhận được các khoản kí quỹ trị giá 63 tỷ USD và cho vay 20 tỷ USD với 93 tổ
chức khác nhau. Tính đến tháng 11 năm 2008, đã có 300 tỷ USD được Fed cho vay theo
chương trình TAF.Ngoài ra, Fed còn tiến hành cho vay thế chấp đối với các tổ chức tài
chính với tổng số tiền tính đến tháng 11/2008 là 1,6 nghìn tỷ USD.Sau khi nỗ lực của Fed
đối phó với khủng hoảng bằng cách hạ lãi suất chiết khấu không đạt được kết quả mong
đợi, Fed hợp tác với các ngân hàng trung ương khác như Ngân hàng TW Canada, Ngân
hàng TW Anh, Ngân hàng ECB, Ngân hàng quốc gia Thụy Sỹ tạo ra công cụ chính sách
tiền tệ TAF nhằm ngăn chặn tình hình trở nên tồi tệ hơn.
3.1.3 Các chính sách FED sử dụng trong thời gian gần đây


Đối với lãi suất FFR
Ngày 10/8/2010 trong thông báo được đưa ra sau cuộc họp của Ủy ban Thị trường

Mở Liên bang (FOMC), FED cho biết sẽ tiếp tục duy trì tỷ lệ lãi suất ở mức thấp kỷ lục

thêm một thời gian nữa, đồng thời sẽ kéo dài các khoản đầu tư thời kỳ hậu khủng hoảng
và bơm tiền vào nền kinh tế.
Dưới sự đánh giá của một số chuyên gia, việc duy trì lãi suất ở mức thấp này là
một con dao hai lưỡi. Duy trì tỷ lệ lãi suất thấp kỷ lục (0,25%) là chơi một canh bạc nguy
hiểm, về lâu dài có thể gây tổn thương cho nền kinh tế đang trong quá trình phục hồi
mong manh của Mỹ.
Và đến ngày 17/12/2015, FED đã quyết định nâng lãi suất lần đầu tiên trong gần 1
thập kỷ, đồng thời phát tín hiệu rằng lãi suất sẽ được nâng lên “từ từ” và phù hợp với các
dự báo trước đây. Sau cuộc họp kéo dài 2 ngày, Ủy ban thị trường mở ( FOMC) đã nhất trí
nâng khoảng mục tiêu cho lãi suất liên bang từ mức 0 – 0,25% lên 0,25 – 0,5%. FOMC
13


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

cũng dự báo đến cuối năm 2016, lãi suất sẽ ở mức khoảng 1,375%, tức trong năm tới sẽ
có thêm 4 lần tăng lãi suất, mỗi lần tăng 0,25%.
Lãi suất mà Fed trả cho các thỏa thuận mua lại đảo ngược được nâng từ 0,05% lên
0,25%, đồng thời lãi suất trả cho phần dự trữ dôi dư mà các ngân hàng gửi tại Fed cũng
được nâng từ 0,25% lên 0,5%.
Như vậy, Fed đã chấm dứt thời kỳ lãi suất thấp kỷ lục - vốn là một phần trong các
chính sách bất thường và gây nhiều tranh cãi mà Fed đã áp dụng để kích thích nền kinh tế
Mỹ sau khủng hoảng tài chính. Fed hạ lãi suất cơ bản xuống mức gần 0 vào tháng
12/2008, 3 tháng sau khi ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ và 10 tháng trước khi tỷ lệ
thất nghiệp đạt đỉnh 10%.


Đối với lãi suất chiết khấu

Ban điều hành chính sách của FED đã nâng lãi suất chiết khấu đối với các ngân

hàng vay tiền trực tiếp của FED thêm 0.25% lên mức 0.75% và cho rằng điều này đảm
bảo cho các thể chế tài chính hoạt động vững chắc hơn trong thị trường tiền tệ hơn là tập
trung giải quyết những khoản vay ngắn ngày để giải quyết tính thanh khoản.
Quyết định tăng lãi suất chiết khấu của FED bắt đầu có hiệu lực từ 19-2-2010. Ban
điều hành FED cho biết họ vẫn điều hành chính sách tiền tệ như trước và cho biết ngân
hàng trung ương này thấy rằng các điều kiện kinh tế đảm bảo lãi suất sẽ ở mức thấp trong
một thời gian dài nữa.
Thị trường cho rằng FED đã tiến một bước nữa trong việc thu hồi các khoản tiền
kích thích kinh tế. Khoản tiền này lên tới hàng trăm tỷ đô la được cung cấp bằng các
khoản tín dụng cho các ngân hàng, cho các nhà môi giới trái phiếu, bằng các giấy nợ
thương mại và bằng các khoản tiền cứu trợ các thể chế tài chính sắp phá sản như AIG là
một ví dụ.


Các chính sách khác:
Hành động đầu tiên mạnh tay nhất là mua lại các khoản nợ xấu trị giá 1450 tỷ

USD chứng khoán thế chấp và giấy tờ nợ, do ngân hàng Fannie Mae, Freddie Mac và
Ginnie Mae phát hành, mua lại mua lại 300 tỷ USD trái phiếu chính phủ. Hành động này
giúp cho các ngân hàng này tăng tính thanh khoản và tiếp tục đi vào hoạt động.
14


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Nhìn vào quy mô của khoản mua lại phần nào đó làm cho giới đầu tư tin tưởng

vào quá trình khôi phục của thị trương tài chính. Trong cuộc đại khủng hoảng lần này,
ngoài 3 công cụ truyền thống là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, công cụ thị
trường mở, Fed đã đưa ra 7 công cụ mới: TAF (đấu thầu cho vay kỳ hạn), TSLF (cho vay
chứng khoán kỳ hạn), PDCF (tín dụng cho các trung gian tài chính hàng đầu),
AMLF( cho vay dựa trên thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản), CPFF( quỹ thương
phiếu), MMIFF( công cụ quỹ dành cho các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ), TALF (cho
vay dựa trên chứng khán được đảm bảo bằng tài sản). Ngoài ra, Fed cũng cùng phối hợp
cùng với 14 ngân hàng trung ương các nước khác, để trong một khoảng thời gian ngắn cơ
cấu tiền tệ các nước cùng có thể liên minh với nhau, đồng thời tăng thêm vị thế của đồng
đô-la ra thị trường các nước. Từ đó, việc nước Mỹ dựa vào đồng đô-la để vực dậy nền
kinh tế là hoàn toàn có lợi.
3.2 Chính sách tiền tệ của NHTW Trung Quốc
3.2.1 Các công cụ chính sách tiền tệ
Các công cụ chính sách tiền tệ được áp dụng bởi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
bao gồm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, vay ngân hàng
trung ương, lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương và các công cụ chính sách khác
theo quy định của Hội đồng Nhà nước.


Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB):
Năm 1984, PBC bắt đầu đưa ra hệ thống DTBB, tỷ lệ DTBB được thiết lập ở mức

20% đối với tiền gửi của các doanh nghiệp, 40% đối với tiền gửi cá nhân và 25% đối với
tiền gửi của dân cư khu vực nông thôn.
Năm 1985, PBC thống nhất các mức dự trữ này ở mức 10% nhằm khuyến khích
các NHTM Nhà nước cân bằng tài sản Có và tài sản Nợ.
Đến năm 1987, PBC nâng mức dự trữ lên 12% nhằm sử dụng tiền gửi DTBB để
tập trung vốn hỗ trợ cho các ngành công nghiệp và các dự án trọng điểm; năm 1988, PBC
đã cải tổ đáng kể hệ thống DTBB, tỷ lệ này lại tăng lên một lần nữa lên mức 13%. Nhìn
chung, hai lần điều chỉnh này nhằm hạn chế sự tăng trưởng quá nóng của nền kinh tế, sự

tăng giá và tăng cung tiền quá mức. Có thể nói, trong giai đoạn đầu này, DTBB tương đối
cao nhằm tăng quyền lực của PBC trong việc kiểm soát và điều chỉnh tín dụng. Bên cạnh
15


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

đó, PBC sử dụng tiền gửi trong tài khoản dự trữ cho việc cung cấp tín dụng PBC cho sản
xuất nông nghiệp và các dự án đầu tư quan trọng.
Tháng 3/1998, PBC đã thay đổi về căn bản hệ thống dự trữ bằng việc sát nhập hai
tài khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức thành một tài khỏan thống nhất là tài khoản
dự trữ; đồng thời, các TCTD được toàn quyền sử dụng phần dự trữ vượt mức trong tài
khoản này. Tỷ lệ DTBB sẽ là khác nhau với các đối tượng khác nhau và tình trạng tài
chính, nội bộ khác nhau. Cách xác định tỷ lệ DTBB dựa trên: Tỷ lệ vốn thích hợp, tỷ lệ
nợ quá hạn, tình trạng kiểm soát nội bộ, sự vi phạm quy chế lớn, sự cố rủi ro nghiêm
trọng…
Bước sang năm 2011, nhằm kiềm chế lạm phát, kiểm soát tăng trưởng kinh tế và
tổng phương tiện thanh toán (M2), PBC điều chỉnh tăng tỷ lệ DTBB. Cụ thể: Ngày
20/6/2011, PBC đã tăng tỷ lệ DTBB áp dụng đối với các TCTD lớn lên mức 21,5%/năm,
các tổ chức tín dụng nhỏ và vừa lên 19,5%/năm.
Hiện tại, PBC sử dụng hai tài khoản tiền gửi cho các TCTD: (1) tài khoản DTBB,
yêu cầu hàng ngày các TCTD phải duy trì đúng quy định, hiện được trả lãi là 1,92%/năm;
(2) Tài khoản DTBB vượt, hiện được trả lãi 0,72%/năm.
Việc áp dụng tỷ lệ DTBB được phân chia thành hai khối là: (1) các TCTD lớn chịu
tỷ lệ DTBB cao hơn; (2) các TCTD nhỏ chịu tỷ lệ DTBB thấp hơn. Việc quy định tỷ lệ
DTBB của các TCTD nhỏ và vừa ở mức thấp hơn trong khi áp dụng cùng một mức trần
lãi suất huy động và sàn lãi suất cho vay tạo điều kiện cho các TCTD nhỏ có thể cạnh
tranh, đảm bảo ổn định so với các TCTD lớn khác.

Ngoài ra, PBC còn ban hành chính sách mới về áp dụng tỷ lệ DTBB phạt đối với
từng TCTD tăng trưởng tín dụng cao. Trước đây, PBC đã từng áp dụng biện pháp DTBB
phạt trong trường hợp các TCTD không đảm bảo tỷ lệ vốn tối thiểu hoặc có tỷ lệ nợ xấu
cao hơn mức cho phép. Tùy vào từng mục tiêu cụ thể, PBC sẽ áp dụng DTBB phạt như là
một chế tài để đạt được các mục tiêu điều hành của mình. Việc áp dụng tỷ lệ DTBB phạt
đối với các TCTD có tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn được coi là một biện pháp quan
trọng để đảm bảo các TCTD sẽ tăng trưởng tín dụng ở mức “vừa phải, hợp lý” theo mục
tiêu điều hành của PBC.


Nghiệp vụ Thị trường mở (OMO):
16


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Nghiệp vụ Thị trường mở bắt đầu thực hiện từ tháng 3/1994, đây là nghiệp vụ
ngoại hối. Tuy nhiên, thị trường mở bắt đầu khôi phục và được đánh giá là hoạt động
thực sự có hiệu quả bắt đầu từ tháng 5/1998, hệ thống buôn bán sơ cấp được thành lập
khi PBC xóa bỏ cơ chế điều hành thông qua việc phân bổ hạn mức tín dụng. Nghiệp vụ
OMO dần trở thành một kênh quan trọng trong quá trình truyền dẫn chính sách tiền tệ và
trở thành một công cụ định hướng diễn biến lãi suất thị trường. Các nghiệp vụ OMO bắt
đầu được sử dụng kể từ ngày 26/5/1998; đến ngày 22/4/2003, tín phiếu NHTW bắt đầu
được phát hành trên cơ sở thị trường trái phiếu liên ngân hàng. Mục đích chính của tín
phiếu NHTW là hút về phương tiện thanh toán tăng lên do mua ngoại hối cho dự trữ
ngoại hối.



Công cụ tái chiết khấu:
Các công cụ chiết khấu là thương phiếu, hối phiếu được các ngân hàng chấp nhận

trên thị trường. Tái chiết khấu là công cụ hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các TCTD, không phải
là kênh cung ứng vốn chủ yếu của PBC đối với các TCTD. Lãi suất tái chiết khấu do
PBC quy định trong từng thời kỳ. Lãi suất tái chiết khấu được xây dựng ở mức điều
chỉnh phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ (nới lỏng hoặc thắt chặt).
Từ năm 1986, PBC bắt đầu thực hiện chiết khấu đối với các NHTM, thời gian này
thị trường tín phiếu ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển và khối lượng giao dịch
tương đối nhỏ.
Đến ngày 21/3/1998, PBC đã đổi mới cơ chế điều hành lãi suất chiết khấu và tái
chiết khấu. Theo đó, PBC quyết định lãi suất tái chiết khấu như là một loại lãi suất độc
lập và lãi suất chiết khấu bằng lãi suất tái chiết khấu cộng biên độ 0,9%.
Từ 1/7/1998, PBC điều chỉnh giảm lãi suất tái chiết khấu và mở rộng biên độ tăng
lãi suất chiết khấu lên 2%, do đó lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất cho vay kỳ hạn 6
tháng. Đến tháng 12/1998, trần lãi suất chiết khấu được điều chỉnh đúng bằng mức lãi
suất cho vay cùng kỳ hạn.
Việc PBC điều chỉnh thận trọng lãi suất tái chiết khấu là một bước đi quan trọng
trong quá trình đổi mới cơ chế lãi suất theo định hướng thị trường. Điều này góp phần cải
thiện cơ chế hoạt động của chính sách lãi suất, điều tiết mối quan hệ vay mượn giữa PBC

17


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

với các TCTD, nâng cao khả năng quản lý hiệu quả, minh bạch nguồn vốn vay từ PBC
của các TCTD.



Vay ngân hàng trung ương (Tái cấp vốn):
PBC thực hiện cho vay tái cấp vốn đối với các NTM mà không cần cầm cố bằng

giấy tờ có giá. Hệ thống lãi suất thả nổi đối với các khoản vay của PBC, lãi suất vay của
PBC kỳ hạn 20 ngày đóng vai trò như lãi suất trần, lãi suất tiền gửi dự trữ vượt mức đóng
vai trò lãi suất sàn, còn lãi suất repo 7 ngày trên OMO và lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng 7 ngày dao động trong khoảng của hai lãi suất trên.


Công cụ lãi suất:
Đối với Trung Quốc, việc xây dựng hệ thống lãi suất NHTW, cải thiện cơ chế hoạt

động của chính sách lãi suất và tăng cường định hướng lãi suất thị trường của lãi suất
NHTW là điều kiện tiên quyết đối với NHTW trong việc thực thi có hiệu quả chính sách
điều hành lãi suất trong quá trình cải cách lãi suất. Cải cách lãi suất ở Trung Quốc được
thực hiện trên cơ sở thị trường, lãi suất được tự do hóa từng bước thông qua việc tự do
hóa (i) Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng; (ii) Lãi suất thị trường trái phiếu; (iii) Lãi
suất huy động và cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế.
Tự do hóa lãi suất trên thị trường liên ngân hàng: Từ 1996, lãi suất thị trường liên
ngân hàng được tự do hóa: tất cả các hoạt động cho vay liên ngân hàng được tổ chức
thông qua một hệ thống mạng liên ngân hàng thống nhất, lãi suất thị trường liên ngân
hàng được tự do hóa, mức lãi suất do các bên tự quyết định theo quan hệ cung cầu vốn
trên thị trường.
Tự do hóa lãi suất của các trái phiếu: PBC cho rằng thị trường trái phiếu là một bộ
phận quan trọng của thị trường tài chính và việc tự do hóa lãi suất thị trường trái phiếu đã
tạo thành một bước tiến quan trọng trong cải cách toàn diện lãi suất theo thị trường.
Tự do hóa lãi suất cho vay và lãi suất huy động: Trung Quốc đang thực hiện cơ
chế trần lãi suất tiền gửi và sàn lãi suất cho vay để tránh tình trạng cạnh tranh không lành

mạnh giữa các ngân hàng và tổ chức tài chính. Các mức lãi suất trần tiền gửi và sàn cho
vay chuẩn được điều chỉnh linh hoạt để đạt được sự cân bằng trong và ngoài nước. Việc
quản lý sàn lãi suất cho vay chủ yếu nhằm 2 mục tiêu chính (i) Hạn chế hạ thấp lãi suất
kiểm soát tăng trưởng tín dụng khi nền kinh tế phát triển quá nóng; (ii) Hạn chế cạnh
18


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

tranh không lành mạnh giữa các TCTD lớn với các TCTD nhỏ. Việc áp dụng trần lãi suất
huy động nhằm hai mục tiêu chính (i) Lãi suất tiền gửi không được tăng cao quá mức làm
hạn chế tiêu dùng gây ra tình trạng dư cung. (ii) Hạn chế sự dịch chuyển vốn giữa các
NHTM.
Hiện PBC thực hiện công bố các mức lãi suất huy động và cho vay chuẩn với
nhiều kỳ hạn khác nhau như lãi suất tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn 3, 6, 12 tháng, 2
năm, 3 năm và 5 năm, lãi suất cho vay thời hạn 6 tháng, 1 năm, 1-3 năm, 3-5 năm và trên
5 năm để làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay.


Công cụ tỷ giá:
Trước năm 1979, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá. Cơ

chế này đã làm cho các doanh nghiệp mất đi quyền chủ động trong kinh doanh, không
gắn kết lợi ích kinh tế với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho các doanh
nghiệp không chú ý đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng tính ỷ lại vào
sự bao cấp của nhà nước, chính điều này đã làm cho Trung Quốc rơi vào suy thoái, khủng
hoảng kinh tế sâu sắc.
Đầu những năm 80, Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá

giảm dần để phản ảnh đúng sức mua của đồng NDT. Chính sách này đã giúp Trung Quốc
cải thiện được cán cân thương mại, giảm thâm hụt thương mại và cán cân thanh toán, đưa
đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, lạm phát của Trung quốc
tiếp tục gia tăng, hạn chế xuất khẩu và ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế.
Tháng 1/1994, Trung Quốc chính thức công bố điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng NDT;
đồng thời, để chính sách điều chỉnh tỷ giá giữ được ổn định, không bị giới đầu cơ thao
túng, Trung Quốc đã thực hiện chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối, nhằm mục đích tập
trung ngoại tệ về Nhà nước, đảm bảo cung-cầu ngoại tệ thông suốt. Đồng thời, từ năm
1994-1996, Trung Quốc thực hiện chính sách kết hối ngoại tệ bắt buộc theo quy định của
Chính phủ và quy định về cải cách cơ chế quản lý ngoại hối PBC. Theo đó, các nguồn thu
ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội phải kịp thời chuyển về nước và bán hết
cho các ngân hàng được ủy quyền. Từ năm 1997 đến nay chính sách kết hối ngoại tệ tiếp
tục được nới lỏng khi dự trữ ngoại hối tăng lên.

19


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Hiện Trung quốc đang thực hiện việc quản lý tỷ giá theo một rổ tiền tệ của các đối
tác thương mại chính. Bên cạnh đó, việc điều hành chính sách tỷ giá thuộc nhiệm vụ của
Vụ CSTT của PBC vì theo quan điểm của PBC trong việc điều hành chính sách tiền tệ,
kênh tỷ giá cũng là một kênh quan trọng trong cơ chế truyền dẫn và có tác động qua lại
với các kênh khác. Kết quả là nhờ thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chặt chẽ về
ngoại hối, Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Thị trường ngoại
tệ ổn định, cung cầu ngoại tệ được cân đối.
3.2.2 Tình hình thực hiện chính sách tiền tệ của Trung Quốc thời gian gần đây

Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc đã bắt tay thực hiện chương trình cải cách sâu
rộng, điều chỉnh kết cấu, chuyển đổi, nâng cấp kết cấu kinh tế và phương thức phát triển
sau hơn 30 năm cải cách mở cửa với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Chương trình này
được triển khai dựa trên chính sách kinh tế mới - thường được xem là học thuyết kinh tế
mới (Likonomics) của Tân thủ tướng Lý Khắc Cường với trọng tâm là ổn định tăng
trưởng, điều chỉnh kết cấu thúc đẩy cải cách để có thể giải quyết được tận gốc những vấn
đề tồn tại của kinh tế Trung Quốc trong hơn 3 thập kỷ vừa qua. Và định hướng chính sách
này đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình hoạch định điều hành CSTT của Ngân hàng
Nhân dân Trung Quốc trong thời điểm hiện nay. Trong đó đáng chú ý là những định
hướng cải cách khu vực ngân hàng như sau: Không theo đuổi kích thích chính sách tiền
tệ hay tài khóa nới lỏng; Các ngân hàng phải kìm hãm sự gia tăng nguy hiểm tài chính
bằng cách giảm cung tiền và nợ xấu; Nhấn mạnh sự cần thiết phải tái cấu trúc nền kinh
tế, từ thả nổi lãi suất đến tăng độ linh hoạt của giá cả.
Trên cơ sở đó, quan điểm điều hành của Trung Quốc hiện nay là tạo ra sự cân bằng
giữa tăng trưởng và cải cách, vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng để không dẫn đến
những rối loạn xã hội trong ngắn hạn, vừa đảm bảo sự tăng trưởng bền vững, không phụ
thuộc vào sự gia tăng nóng của tín dụng trong dài hạn. Chính vì vậy bước sang năm
2015, tất cả các mục tiêu kinh tế được Quốc hội thông qua đều đặt ở mức thấp hơn so với
năm trước (mục tiêu tăng trưởng là 7% - 7,5%; mục tiêu tăng trưởng thương mại ở mức
6% so với mức 7,5%, lạm phát ở mức 1 – 2%, tăng trưởng M2 khoảng 12%,….) Những
định hướng phát triển này đã có ảnh hưởng mạnh đến xu hướng điều hành CSTT của
20


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

PBC. Theo đó, trong năm 2015, PBC sẽ điều hành CSTT theo phương thức linh hoạt hơn,
để hỗ trợ tăng trưởng đạt được theo mục tiêu đề ra, ngăn chặn những rủi ro mà nền kinh

tế phải đối mặt trong bối cảnh suy giảm trên toàn cầu. Tuy nhiên sự linh hoạt phải được
thực hiện trên quan điểm thận trọng.
Trong thực tế, định hướng này được PBC thực hiện thông qua việc bơm thanh
khoản qua OMO, hạ dự trữ bắt buộc, cắt giảm lãi suất, khuyến khích mở rộng cho vay
đối với khu vực tư nhân, lĩnh vực kinh doanh ưu tiên và cho vay mua nhà, nhưng đồng
thời cũng đưa ra những chính sách để kiểm soát hoạt động tín dụng diễn ra trong năm
2014 và những tháng đầu năm 2015. Ngay từ năm 2014, PBC đã bắt đầu thay đổi quan
điểm chính sách được duy trì trong vòng 4 năm, đó là việc chuyển từ trạng thái thắt chặt
(thắt chặt tín dụng để giảm sức nóng trên thị trường bất động sản) sang nới lỏng từng
bước thông qua việc cắt giảm lãi suất tham chiếu vào cuối tháng 11/2014 (lần lượt là 25
điểm cơ bản đối với huy động và 40 điểm cơ bản đối với lãi suất cho vay). Quyết sách
này, một mặt nhằm ngăn chặn sự phát triển của hệ thống ngân hàng ngầm (Shadow
banking), là nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của nợ nần với lãi suất cao hơn nhiều
so với lãi suất ngân hàng và thực hiện việc huy động và cho vay vốn bất hợp pháp (tín
dụng từ hệ thống này đã gia tăng nhanh chóng từ năm 2008 từ 27%/GDP lên 70%/GDP
tương đương khoảng 36.000 tỷ NDT). Mặt khác là để hỗ trợ, tạo sự chủ động cho thị
trường tín dụng chính thức, không để việc mở rộng tín dụng bị thu hẹp quá nhanh, đặc
biệt là các khoản tín dụng dành cho DNNVV. Ngoài ra, quyết định này cũng hướng tới
việc cứu vãn sự yếu kém của thị trường nhà ở đang cản trở tăng trưởng kinh tế tại Trung
Quốc.
Tuy nhiên, bước sang năm 2015, các bước nới lỏng này chưa đủ mạnh để hỗ trợ
cho tăng trưởng kinh tế, vì thế để ngăn chặn diễn biến bất lợi trong quý I/2015, Trung
Quốc tiếp tục thực hiện các bước đi chính sách mới, tạo điều kiện hơn cho thị trường tín
dụng và cho việc mua bán nhà trở nên tốt hơn, can thiệp để hồi sinh thị trường tài sản. Cụ
thể là vào tháng 02/2015, PBC đã hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc 0,5% cho tất cả các loại hình
TCTD và cắt giảm lãi suất tham chiếu đối với cả lãi suất huy động và cho vay thêm 25
điểm cơ bản. Vào ngày 20/04/2015, PBC đã hạ tiếp tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm một điểm
phần trăm, đưa tỷ lệ này về mức 18,5%.
21



Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Bên cạnh đó, PBC tích cực tham gia thực hiện các định hướng chính sách của
Chính phủ trong việc thiết lập đường cong lợi tức dựa trên cơ sở thị trường và tự do hóa
lãi suất, và là một trong những bước cơ bản để đưa nền kinh tế vận hành theo định hướng
thị trường nhiều hơn. Cụ thể là việc nghiên cứu thông qua các quy định cho phép các
ngân hàng tham gia vào thị trường các sản phẩm phái sinh đối với các giao dịch tương
lai các trái phiếu nợ của Chính phủ với kỳ hạn 10 năm, chính thức niêm yết trái phiếu kỳ
hạn 10 năm vào ngày 21/03/2015, hay đề xuất các cơ chế chính sách liên quan đến bảo
hiểm tiền gửi ngân hàng,…
Như vậy có thể nhận thấy rằng, các quyết sách tiền tệ của Trung Quốc luôn bám
sát chặt chẽ diễn biến của kinh tế vĩ mô đang thay đổi mạnh mẽ để có những bước điều
chỉnh thích hợp, tính linh hoạt của chính sách luôn được hình thành trên nền tảng thận
trọng. Bởi vì, các quyết sách của NHTW được đưa ra không bao giờ được thực hiện một
cách cô lập, các quyết định lớn như việc cắt giảm lãi suất phải được Hội đồng Nhà nước
thông qua, và phải bám sát với diễn biến giảm của lạm phát nhằm điều chỉnh lãi suất vay
thực tế chứ không hoàn toàn là tín hiệu nới lỏng. Việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong
thời gian gần đây là để duy trì tình trạng thanh khoản ổn định trong hệ thống khi dòng
vốn rút ra khỏi nền kinh tế đang có xu hướng gia tăng.
Sự thận trọng trong các bước quyết sách tiền tệ linh hoạt của PBC được xem là rất
có ý nghĩa trong công cuộc cải cách sâu, rộng tại Trung Quốc hiện nay. Các chính sách sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình điều chỉnh và được kỳ vọng là sẽ sớm giúp
giải quyết được những bất ổn trong hệ thống tài chính, từng bước hỗ trợ ngăn chặn đà suy
giảm của tăng trưởng kinh tế và áp lực giảm phát. Đặc biệt, chúng sẽ giúp thực hiện được
các định hướng cải cách trong lĩnh vực ngân hàng trong giai đoạn tới, vượt qua giai đoạn
khó khăn để trở thành một nền kinh tế lớn nhất của thế giới trong tương lai.
3.3 Chính sách tiền tệ của NHTW Nhật Bản

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (Bank of Japan - BOJ) ra đời từ năm 1882 dưới
thời Hoàng đế Minh Trị. Công tác điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
Nhật Bản (BOJ) được thực hiện dựa trên Luật Ngân hàng trung ương Nhật Bản nhằm đạt
được mục tiêu ổn định giá cả và hệ thống tài chính, qua đó góp phần phát triển nền kinh
tế quốc gia một cách lành mạnh.
22


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

BOJ điều hành chính sách tiền tệ độc lập với Chính phủ Quan điểm này được ghi
nhận tại Luật Ngân hàng trung ương Nhật Bản (Điều 3, Khoản 1): “Tính tự chủ của BOJ
đối với các vấn đề liên quan đến tiền tệ và kiểm soát hoạt động tiền tệ phải được tôn
trọng”. Việc sắp xếp để đảm bảo quyền tự chủ của BOJ được thể hiện qua những quy
định như: (i) Nhiệm kỳ chính thức của các thành viên Ủy ban chính sách BOJ, bao gồm
cả Thống đốc BOJ là 5 năm (Điều 24). Và Ủy ban chính sách BOJ là tổ chức ra các quyết
định cao nhất của ngân hàng trung ương này; (ii) Các thành viên Ủy ban chính sách sẽ
không bị sa thải vì lý do họ có quan điểm khác với Chính phủ (Điều 25); (iii) Chi phí
hoạt động của BOJ được trình Bộ Trưởng Bộ Tài chính thông qua và được giới hạn đối
với những chi phí đã được cụ thể hóa tại danh sách Thứ tự chi tiêu Nội các, không cản trở
đến công tác tiền tệ và kiểm soát hoạt động tiền tệ (Điều 51); (iv) Điều 5 của Luật Tài
chính công nghiêm cấm BOJ trực tiếp bảo lãnh trái phiếu chính phủ.
Nhìn chung về mặt cấu trúc, hạn chế lớn nhất là việc BOJ trực thuộc Bộ Tài chính
Nhật Bản. Điều này cho thấy BOJ không phải là một ngân hàng có được sự độc lập tuyệt
đối. Bằng chứng là để đảm bảo chính sách tiền tệ của BOJ tương thích với những lập
trường cơ bản của chính sách kinh tế của chính phủ, Luật Ngân hàng trung ương Nhật
Bản quy định BOJ sẽ "luôn luôn duy trì liên lạc chặt chẽ và trao đổi đầy đủ với chính phủ
" (Điều 4). Luật Ngân hàng trung ương Nhật Bản cũng quy định rằng đại diện của chính

phủ có thể, khi cần thiết, tham dự các cuộc họp của Ủy ban chính sách trong việc đưa ra
các quyết định chính sách tiền tệ (tại Các cuộc họp chính sách tiền tệ), hoặc bày tỏ ý kiến,
đề xuất ý kiến, và yêu cầu Hội đồng quản trị BOJ hoãn một cuộc bỏ phiếu về đề nghị Hội
đồng quản trị tổ chức cuộc họp tiếp theo (Điều 19 của Luật Ngân hàng trung ương Nhật
Bản). Tuy nhiên, đại diện chính phủ không có phiếu biểu quyết chính sách tiền tệ. Cuối
cùng, các quyết định chính sách tiền tệ được thực hiện bởi một đa số phiếu trong số 9
thành viên của Ủy ban chính sách.
Ủy ban chính sách BOJ sẽ tổ chức họp 1 hoặc 2 lần trong năm để thảo luận và đưa
ra quyết định về các chính sách tiền tệ, bao gồm cả hướng dẫn về hoạt động thị trường
tiền tệ. Theo đó,BOJ đặt ra lãi suất định hướng cho hoạt động thị trường tiền tệ. Hiện tại,
BOJ lấy lãi suất cho vay qua đêm đối với những khoản vay không thế chấp làm lãi suất
định hướng.
23


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Để điều hành lãi suất định hướng này, BOJ sử dụng các công cụ chính sách của
mình để tác động vào các yếu tố hình thành nên lãi suất, chủ yếu là những yếu tố tác
động đến cung và cầu về nguồn vốn trên thị trường tiền tệ. Các hoạt động trên được thực
hiện qua thị trường mở. Ví dụ, để tăng cung nguồn vốn trên thị trường tiền tệ, BOJ cung
cấp khoản vay cho các tổ chức tài chính dựa trên tài sản mà họ cầm cố tại ngân hàng
trung ương hoặc hạch toán ghi có nguồn vốn trên bảng cân đối BOJ cho tổ chức tài chính
đối tác. Ngược lại, để giảm cung nguồn vốn trên thị trường tiền tệ, BOJ bán các tài sản
mà mình nắm giữ cho các tổ chức tài chính hoặc hạch toán ghi nợ nguồn vốn trên bảng
cân đối BOJ cho tổ chức tài chính đó.
Bằng cách này, BOJ tác động đến lãi suất thị trường tiền tệ, qua đó tác động đến
các mức lãi suất trên thị trường tài chính khác và lãi suất mà các ngân hàng áp dụng đối

với các khoản vay cho các cá nhân và công ty. Đến lượt mình, những thay đổi trong lãi
suất sẽ ảnh hưởng đến đầu tư và tiêu dùng của các tổ chức kinh tế, khi đó ảnh hưởng của
chính sách tiền tệ sẽ lan rộng trong hoạt động kinh tế và giá cả. Ví dụ, khi BOJ tăng lãi
suất cho vay qua đêm, các ngân hàng sẽ tăng lãi suất cho vay, đầu tư thị trường nhà ở sẽ
bị hạn chế vì tỷ lệ thế chấp tăng và tương tự đầu tư cố định của doanh nghiệp cũng bị
giảm. Kết quả là, tổng thể hoạt động kinh tế trở nên hạn chế, gây áp lực giảm giá. Mặt
khác, khi BOJ hạ lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất cho vay của các ngân hàng thường
cũng giảm, một số lượng ngày càng tăng hộ gia đình đi vay ngân hàng do các khoản thế
chấp có lãi suất giảm, gây ra một sự gia tăng đầu tư nhà ở và doanh nghiệp cũng tăng đầu
tư cố định. Kết quả là, tổng thể hoạt động kinh tế gia tăng, dẫn đến áp lực tăng giá.
Luật Ngân hàng Trung ương Nhật Bản yêu cầu BOJ có trách nhiệm cao trong việc
thực thi các chính sách tiền tệ. Khoản 2, Điều 3 Luật Ngân hàng trung ương Nhật Bản
quy định “BOJ có trách nhiệm làm rõ cho các công dân của Nhật Bản về nội dung của
các quyết định cũng như quá trình ra các quyết định liên quan đến tiền tệ và kiểm soát
tiền tệ. Căn cứ vào quy định này, BOJ đã cung cấp rất nhiều thông tin, không chỉ vì quy
định của Luật, nhưng cũng bởi vì BOJ cho rằng việc minh bạch hóa thông tin về các
quyết định và qúa trình ra quyết định liên quan đến chính sách tiền tệ của ngân hàng
trung ương sẽ tăng cường hiệu quả của các chính sách tiền tệ.
24


Nhóm thực hiện: 8

GVHD: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG

Ví dụ, tháng 3/2006, BOJ đã phát hành công khai “Giới thiệu về khuôn khổ mới
cho công tác điều hành chính sách tiền tệ”. Theo đó, BOJ đang thực hiện chính sách tiền
tệ trên 3 yếu tố: (1) BOJ hướng các chính sách đến mục tiêu ổn định giá cả thông qua
việc đưa ra tỷ lệ lạm phát mục tiêu mà các thành viên Ban điều hành BOJ cho rằng tỷ lệ
lạm phát đó sẽ đảm bảo cho sự ổn định giá cả từ trung hạn đến dài hạn. BOJ sẽ thực hiện

chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát nằm trong mục tiêu đề ra; (2) BOJ đánh giá các
hoạt động kinh tế và giá cả từ 2 quan điểm, bao gồm triển vọng kinh tế đi đúng với dự
kiến của BOJ về hoạt động kinh tế và giá cả trong 2 năm tới và triển vọng kinh tế có tính
đến những rủi ro khác nhau trong việc thực hiện chính sách tiền tệ trong 1 kỳ hạn; (3)
BOJ giới thiệu quan điểm hiện hành về chính sách tiền tệ dựa trên phác thảo về triển
vọng kinh tế theo 2 quan điểm BOJ đã đề cập.
Đầu năm 2016 Ngân hàng Trung ương Nhật Bản đã áp dụng mức lãi suất âm 0,1%
đối với một phần các khoản tiền của các định chế tài chính gửi tại ngân hàng này. Đây là
nỗ lực nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay và khuyến khích doanh nghiệp cũng như người
dân Nhật Bản tăng cường chi tiêu và đầu tư. Quyết định trên được đưa ra khi sự tăng
trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc và các nền kinh tế mới nổi khác đang đe dọa khả
năng phục hồi của nền kinh tế lớn thứ ba thế giới. Chính sách lãi suất âm được thực thi
lần đầu tiên bắt đầu từ ngày 16/2/2016 với hy vọng có thể hỗ trợ nền kinh tế Nhật Bản
hiện đang đối mặt với tình trạng giảm phát và tăng trưởng sa sút trong bối cảnh triển
vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm.
Để thực hiện chính sách tiền tệ một cách phù hợp thực tiễn, công tác thống kê số
liệu cũng như việc tiến hành các nghiên cứu và điều tra là rất quan trọng. Để hiểu chính
xác tình hình kinh tế và tài chính Nhật Bản, BOJ không chỉ dựa trên các thống kê và
nghiên cứu trong nước mà phải tiến hành cả ở nước ngoài và trên toàn cầu. Trong khía
cạnh này, BOJ duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng trung ương và các tổ chức
quốc tế.

25


×