Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận môn quản trị rủi ro phân tích rủi ro quốc gia liên bang nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.9 KB, 23 trang )

Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO QUỐC GIA
1.1 Khái niệm về rủi ro quốc gia:

Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ
đúng được lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không
hoàn thành được nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài
chính khác trong quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ.
Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và
hợp đồng tương lai mà được phát hành trong một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết
thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương
mại nghiêm trọng.
Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay
người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không sẵn sàng để
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với một hay nhiều người cho vay nước ngoài
hay nhà đầu tư nước ngoài.
Rủi ro quốc gia còn là rủi ro tổng hợp được cấu thành từ rủi ro hệ thống và rủi ro
phi hệ thống.
Rủi ro hệ thống cũng có thể xem như là rủi ro không thể tránh được hay rủi ro
không thể đa dang hóa.
Rủi ro phi hệ thống cùng một lúc có thể được mô tả như là rủi ro chính trị và rủi ro
có thể đa dạng hóa.
Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị ở
một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia
cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước
ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối.
Thuật ngữ rủi ro quốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và
được phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Có 3 dạng đầu tư nước ngoài phổ


biến: cho vay, đầu tư vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp FDI.
1.2 Phân loại rủi ro quốc gia:

1


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó các nhà phân
tích có xu hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 5 loại chính: rủi ro kinh tế, rủi ro chuyển
giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay vùng lân cận, rủi ro chính trị
1.2.1 Rủi ro chính trị:
Thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà có thể ảnh hưởng đến
khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình. Rủi ro chính trị
tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng
bố... dẫn đến những thay đổi trong chính phủ, thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính
phủ, cơ cấu xã hội. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột
bên trong và bên ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều
nhân tố bao gồm các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá
trình ra quyết định của chính phủ và lịch sử của quốc gia đó.
1.2.2 Rủi ro chuyển giao:
Là rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ một quốc gia về việc hạn
chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể là: gây khó khăn
cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức hay vốn về nước. Rủi ro chuyển giao cũng có thể hiểu
là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi sang một đồng tiền thanh toán (đồng
tiền có khả năng chuyển đổi) bởi vì quốc gia vay nợ thiếu ngoại hối cần thiết hay kiềm
chế khả năng này. Kiểm soát ngoại hối là một ví dụ của rủi ro chuyển giao.
1.2.3 Rủi ro tỷ giá:

Là một sự biến động không mong đợi trong tỷ giá hối đoái, vídụ như một sự thay
đổi từ tỷ giá cố định sang thả nổi. Trong ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể
được loại bỏ ở một chi phí có thể chấp nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác
nhau và các hợp đồng tương lai.
1.2.4 Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận:
Bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên bởi những khó khăn trong một khu
vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay trong các quốc gia với tính chất tương
tự. Chẳng hạn, nếu quốc gia đi vay nằm bên cạnh một quốc gia đang có chiến tranh thì
mức độ rủi ro của quốc gia này sẽ cao hơn bởi vì mặc dù quốc gia đi vay không liên quan
trực tiếp đến cuộc xung đột nhưng nguy cơ ảnh hưởng từ cuộc xung đột này là tồn
2


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

tại.Tính chất lây lan thể hiện tiêu biểu ở các quốc gia Latin vào những năm 1980, sự lây
lan ở châu Á vào năm 1997-1998.
1.2.5 Rủi ro kinh tế-tài chính:
Thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém hiện tại của nền kinh tế một quốc gia, khả
năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh toán các khoản tín dụng chính thức,
thương mại... nước ngoài. Sự đo lường rủi ro kinh tế bao gồm các đo lường truyền thống
về chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ như quy mô và thành phần của chi tiêu chính
phủ, chính sách thuế, tình trạng nợ công, chính sách tiền tệ và tính vững chắc về tài
chính.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc phân tích, đánh giá rủi ro quốc gia:
Có 4 nhóm nhân tố chính ảnh hưởng tới xếp hạng tín nhiệm quốc gia như sau:
1.3.1 Tình trạng kinh tế:
Đâylà nhóm nhân tố ảnh hưởng lớn nhất tới xếp hạng tín nhiệm quốc gia, bao gồm

hầu hết các biến số kinh tế cơ bản của một quốc gia như: tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm
và đầu tư, mức trung chuyển vốn, việc làm và thất nghiệp, thu nhập quốc dân và hộ gia
đình, tình trạng bảo hộ sản xuất hay phát triển theo định hướng thị trường và dự báo về
khả năng tăng trưởng hay thu hẹp của nền kinh tế cũng được tính đến.
1.3.2 Tình trạng tài chính:
Nhóm yếu tố này bao gồm cả tình trạng tài chính đối nội và đối ngoại, các chính
sách tài khóa, chính sách tiền tệ và tác động của các chính sách này, từ đó phản ánh tình
hình thu nhập và chi tiêu của một quốc gia có ổn định an toàn hay không.
1.3.3 Tình trạng chính trị, xã hội:
Đây là những yếu tố dường như không liên quan nhưng lại ảnh hưởng khá lớn tới
mức độ tín nhiệm của một quốc gia. Trong đó, mức độ ổn định chính trị, xã hội; độ trong
sạch của bộ máy nhà nước và an ninh quốc gia được đặt lên hàng đầu.
1.3.4 Tình trạng nợ:
Nợ ở đây được hiểu là nợ của chính quyền trung ương và địa phương, nợ trong
nước và nợ nước ngoài. Bên cạnh tổng số nợ, khả năng trả nợ, thời hạn trả nợ và nguồn
trả nợ cũng được quan tâm.

3


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA DƯỚI GÓC ĐỘ LIÊN BANG
NGA
2.1 Giới thiệu sơ nét về Nga:
2.1.1 Lịch sử hình thành:
Nước Nga cổ đại - Nga Ki-ép (lấy tên của thủ đô Ki-ép lúc đó) xuất hiện vào thế
kỷ thứ IX ở trên một phần lãnh thổ Nga ngày nay. Năm 988 dưới thời trị vì của công tước

Vla-di-mia Xvi-a-tơ-xla-vích, Đạo Cơ đốc dòng Chính thống (Đạo Chính thống) đã du
nhập và trở thành tôn giáo chính của Nga. Thế kỷ XII – XV trên lãnh thổ Nga xuất hiện 2
quốc gia phong kiến tập quyền là Nô-vơ-gô-rớt và Pơ-xcốp. Đến giữa thế kỷ XIII người
Mông Cổ - Tácta xâm lược Nga. Nhân dân Nga đã đứng lên đấu tranh trong suốt 250
năm và đến năm 1480 đã lật đổ ách thống trị Mông Cổ - Tác Ta, lập nhà nước tập quyền
Mát-xcơ-va, thống nhất các vùng lãnh thổ Đông Bắc và Tây Bắc Nga vào thế kỷ XIV –
XVI.
Năm 1613 bắt đầu triều đại Rô-ma-nốp và sau đó dưới thời Sa Hoàng, Pie Đại đế
thủ đô của Nga chuyển từ Mát-xcơ-va về Xanh Pê-téc-bua. Năm 1721, Sa Hoàng Pie Đại
đế tuyên bố Nga trở thành Đế chế Nga. Trong hơn 300 năm triều đại Rô-ma-nốp (1613 –
1917), nước Nga đã chinh phục được nhiều vùng lãnh thổ và chiến thắng quân xâm lược:
năm 1654 sáp nhập U-crai-na, năm 1700 - 1721 chinh phục các nước vùng Ban tích, năm
1812 đánh thắng đại quân Na-pô-lê-ông của Pháp, thế kỷ XVIII - XIX chiếm Crưm, Cápca-dơ, một phần Balan, Phần Lan, Trung Á. Thời kỳ này đã xảy ra nhiều cuộc nổi loạn
nông dân do S. Ra-zin , E. Pu-ga-trốp v.v.. đứng đầu. Năm 1861, Sa hoàng đã tiến hành
cải cách xoá bỏ chế độ nông nô.
Chiến tranh Nga - Nhật năm 1905 và việc Nga tham gia vào Chiến tranh thế giới
thứ nhất năm 1914 đã làm suy yếu Đế chế và dẫn đến cách mạng tư sản năm cách mạng
1905 – 1907 và cách mạng vô sản tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, làm sụp đổ Đế quốc
Nga và cho ra đời Nhà nước Xô Viết, Nhà nước công - nông đầu tiên trên thế giới. Năm
1918, chính quyền Xô Viết rời đô từ Xanh Pê-téc-bua về Mát-xcơ-va. Năm 1922 thành
4


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

lập Liên bang Xô Viết gồm 14 nước cộng hoà. Năm 1945 Hồng quân Liên Xô đã chiến
thắng phát xít Đức - Nhật trong chiến tranh vệ quốc thời kỳ thế chiến thứ 2.
Sau hơn 70 năm tồn tại và đã từng là một cực của thế giới hai cực, đứng đầu phe

xã hội chủ nghĩa, do kết quả của đấu tranh quyền lực và đường lối trong nội bộ ban lãnh
đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, ngày 12/6/1990 nước Nga tuyên bố chủ quyền. Năm 1991,
Bô-rít En-xin được bầu làm tổng thống đầu tiên của Nga. 19/8/1991 xảy ra vụ đảo chính
lật đổ tổng thống Liên Xô Goóc-ba-chốp nhưng bị thất bại. Ngày 8/12/1991 những người
đứng đầu 3 nước Nga, U-crai-na, Bê-la-rút tại Be-lô-vê-giơ (Bê-la-rút) tuyên bố giải thể
Liên Xô và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG).
2.1.2 Chính trị:
Từ năm 2000 đến nay, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống V. Pu-tin đã
dần dần đi vào ổn định, phục hồi và phát triển. Tổng thống V. Pu-tin đã thi hành một loạt
biện pháp nhằm ổn định tình hình, củng cố quyền lực của Trung ương, cải cách hệ thống
chính trị, củng cố các định chế nhà nước, bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ Nga: sửa đổi luật
bầu cử, tăng cường tính đại diện, tính minh bạch trong các cơ quan dân cử, nâng cao vai
trò và ảnh hưởng chính trị của Đảng thân chính quyền "Nước Nga thống nhất", quản lý
chặt hơn các tổ chức xã hội phi chính phủ, tăng vai trò của Nhà nước trong các ngành
kinh tế chủ chốt, đặc biệt là dầu khí, xây dựng các chủ thể mạnh thông qua sáp nhập các
vùng để hỗ trợ nhau về kinh tế, phát triển văn hoá, xã hội; áp dụng các biện pháp mạnh
về quân sự để tiêu diệt bọn đầu sỏ ly khai ở Che-snia đi đôi với các biện pháp chính trịkinh tế, cơ bản lập lại trật tự tương đối ở vùng Bắc Cáp-ca-dơ.
Tháng 12/2007 đã diễn ra cuộc bầu cử Hạ viện (Đu-ma quốc gia) Nga nhiệm kỳ 5
với 4 đảng vượt được ngưỡng 7 % số phiếu để có đại diện trong Đu-ma, là đảng Nước
Nga thống nhất, đảng Cộng sản Liên bang Nga, đảng Dân chủ tự do và đảng Nước Nga
công bằng, trong đó Đảng Nước Nga thống nhất thân chính quyền và được đích thân
Tổng thống Pu-tin ủng hộ đã chiếm đa số với 315/450 ghế; đảng Cộng sản là đảng đối lập
duy nhất có đại diện trong Đu-ma với 50 ghế. Với thành phần này, Đu-ma nhiệm kỳ 5 sẽ
là lực lượng ủng hộ mạnh cho chính quyền.
5


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông


Tháng 3/2008 đã diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống. Ông Mét-ve-đép Đờ-mi-tơ-ri Ana-tô-li-e-vích đã trúng cử Tổng thống ngay từ vòng đầu với hơn 70% số phiếu, nhờ vào
sự hậu thuẫn và ủng hộ to lớn của ông Pu-tin. Sau lễ nhậm chức vào ngày 7/5/2008, ông
đã bổ nhiệm cựu Tổng thống Pu-tin làm Thủ tướng. Đồng thời ông Pu-tin cũng chấp
nhận làm Chủ tịch Đảng Nước Nga thống nhất mặc dù không là đảng viên của đảng này.
Quá trình chuyển giao quyền lực của Nga đã diễn ra trong hoà bình và hoàn toàn hợp
hiến. Việc ông Pu-tin làm Thủ tướng sẽ tạo điều kiện cho nước Nga một sự ổn định trong
chính sách đối nội, đối ngoại, cũng như đường lối kinh tế.
Ngày 4-3-2012, khoảng 108.137.000 cử tri Nga đã đến 94.000 điểm bỏ phiếu
trong nước và 384 điểm bỏ phiếu ở nước ngoài để bầu tổng thống Nga. Đây là cuộc bầu
cử Tổng thống lần thứ 6 trong lịch sử hiện đại của nước Nga kể từ năm 1991 đến nay.
Với kết quả giành 63,83% số phiếu, V. Putin đã trúng cử Tổng thống Nga lần thứ 3.


Về đối nội:
Cải cách kinh tế và hành chính, là một chủ trương lớn, đã và đang được thực hiện

theo hướng ưu tiên nhiệm vụ giảm tỷ lệ đói nghèo, thiết lập hệ thống điều hành mới, nâng
cao tính cạnh tranh của nền sản xuất và hàng hoá Nga, tạo sự hợp tác hiệu quả giữa
doanh nghiệp và Nhà nước.
Một nhiệm vụ lớn khác của Chính phủ Nga trong thời điểm hiện nay là hình thành
nền sản xuất có khả năng cạnh tranh cao thực hiện hai nhiệm vụ cụ thể là xóa bỏ các rào
cản hành chính và đảm bảo các công ty được tiếp cận các nguồn dự trữ phát triển. Song
song với đó là thành lập cơ chế hợp tác hiệu quả giữa giới doanh nghiệp và Nhà nước,
thực hiện các dự án hỗn hợp.
Nếu như những đe doạ đối với an ninh Nga thời Chiến tranh lạnh là vũ khí hạt
nhân từ bên kia bờ đại dương thì ngày nay, đó là nguy cơ ly khai của các vùng trong
nước cùng với diễn biến hoà bình và sức nóng các cuộc cách mạng xảy ra ngay trên vùng
lãnh thổ từng là "sân nhà". Chính quyền Putin ưu tiên tăng cường quan hệ hợp tác giữa
trung ương với địa phương, thắt chặt kiểm soát đối với các phần tử âm mưu đe doạ chủ

trương lớn đó.


Về đối ngoại:
6


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Xuất phát từ chủ trương đối nội nêu trên, chính sách đối ngoại của Nga được hiểu
là sẽ thiết lập quan hệ ổn định lâu dài với bất cứ nước nào tôn trọng và ủng hộ việc Nga
xử lý các vấn đề trong nước. Ngược lại, bất cứ ai nếu có ý định can thiệp vào nội bộ cũng
như diễn biến làm lệch hướng phát triển của Nga sẽ được xếp vào hướng đối địch. Nói
cách khác, Nga sẽ tiếp tục duy trì đường lối đối ngoại theo hướng nỗ lực bảo đảm lợi ích
quốc gia bằng các giải pháp hòa bình, tránh đối đầu và tập trung vào việc tìm kiếm đối
tác.
Nhìn chung, sau khi Liên Xô tan rã, Nga thực hiện chiến lược đối ngoại nhằm 2
mục tiêu cơ bản: Một là, tạo các điều kiện bên ngoài thuận lợi để có hỗ trợ về mặt chính
trị và vật chất cho cuộc cải cách trong nước; Hai là, bảo đảm cho nước Nga giữ được vị
trí nhất định trên trường quốc tế, trước hết là ở các khu vực, lĩnh vực chiến lược quan
trọng nhất. Chiến lược đối ngoại của Nga luôn có những điều chỉnh theo hướng vừa có
ưu tiên, vừa đa dạng hóa, vừa linh hoạt, thực dụng phù hợp với những thay đổi của tình
hình trong nước và cục diện quốc tế, mối quan hệ của các nước lớn cũng như vị thế của
Nga trên thế giới, nhưng các phương hướng chung của chiến lược này không thay đổi.
2.1.3 Kinh tế:
Nga là một nước phong phú về tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, than và quặng
thép. Đây cũng là một nước có nhiều ngành nông nghiệp phong phú. Sau khi Liên bang
Xô viết tan rã, Nga đã phải trải qua nhiều giai đoạn khá phức tạp. Nền kinh tế của nước

này thay đổi từ kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa. Các cuộc cải
tổ kinh tế vào những năm 1990 chủ yếu là về công nghiệp, năng lượng và quốc phòng.
Trải qua những khó khăn của chuyển đổi, khủng hoảng nặng nề trong suốt thập kỷ 90 của
thế kỷ 20, Kinh tế Nga những năm qua liên tiếp tăng trưởng, xã hội đã có những thay đổi
tích cực: thu nhập của dân tăng nhanh hơn tốc độ trượt giá, trong giai đoạn 1999 đến
2012 cơ bản đã giải quyết được nợ lương, lương hưu trung bình tăng gần 90%, lương
thực tế tăng gần gấp đôi, bước đầu cải thiện được đời sống nhân dân, thu nhập thực tế của
dân tăng gấp 1,5 lần, thất nghiệp giảm gần 1/3, số người sống dưới mức tối thiểu giảm
1/3. Tổng GDP năm 2012 đạt gần 2.732 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người 16.137
USD.

7


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Tính đến năm 2015, Kinh tế Nga là nền kinh tế lớn thứ 10 trên thế giới sau Ấn Độ (9)
và Ý (8).
Thời gian qua, cùng với sự sụt giảm của giá dầu, đồng nội tệ Nga liên tục mất giá
so với đồng USD. Tháng 1/2016 đồng Rúp đã rớt giá xuống mức thấp kỷ lục khi giá dầu
giảm 11% từ ngày 1/1 về vùng 30 USD/thùng. Với một nửa nguồn thu ngân sách từ dầu
khí, Chính phủ Nga đang loay hoay với khoản thâm hụt ngân sách 1,5 nghìn tỷ Rúp,
tương đương 19,2 tỷ USD. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo kinh tế Nga sẽ suy giảm
1% trong năm nay, sau khi giảm 3,7% trong năm 2015, thu nhập hộ gia đình Nga giảm
trong hai năm qua, khoảng 22 triệu người Nga sống trong cảnh nghèo đói và số người
nghèo tăng 50% kể từ năm 2013. Doanh số bán lẻ giảm 10% và doanh số ô tô giảm 36%
trong năm 2015. Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 7,4%, tương đương 4,2 triệu việc làm biến
mất. Vốn đầu tư giảm 8,4% xuống còn 230 tỉ USD.

Ngành công nghiệp và lĩnh vực sản xuất ô tô cũng lao dốc: sản xuất ô tô Nga giảm
27,7% và sản lượng công nghiệp hạ 3,4% trong năm 2015. Song ngành nông nghiệp lại
tăng khoảng 3%, đến 82 tỉ USD. Kinh tế Nga đã và đang chịu tác động mạnh từ giá dầu
thấp và các lệnh trừng phạt từ phương Tây. Giá trị rúp Nga chạm đáy so với đô la Mỹ,
lạm phát gia tăng khiến hàng triệu người phải sống trong cảnh nghèo. Tổng thống
Vladimir Putin và chính phủ của ông buộc phải cắt giảm mạnh chi tiêu công vì doanh thu
dầu khí giảm.
Mặc dù giá dầu giảm nhưng tiền ruble thu về từ bán dầu bằng USD tăng cao, dẫn
đến khả năng tự bảo vệ của nền kinh tế Nga được củng cố. Ngoài ra, mảng kinh tế tư
nhân của Nga cũng đang có những thay đổi đáng kể: hiện đang xuất hiện ngày càng nhiều
các công ty IT của Nga có thể cạnh tranh sòng phẳng với các công ty IT quốc tế. Nền sản
xuất xe ô tô đang được “Nga hóa” khá mạnh, đồng thời Nga cũng xây dựng được tiềm
lực không nhỏ cho ngành công nghiệp sản xuất và chế biến các sản phẩm lương thực.
Nga hiện vẫn đang duy trì được cán cân thương mại theo chiều hướng tích cực, ngay cả
khi giá dầu ở mức khá thấp như hiện nay.
2.1.4 Văn hóa tôn giáo:


Văn hóa:

8


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Nga là một trong những nước ở phương Tây có nền văn hóa được toàn thể nhân
loại ngưỡng mộ và tự hào. Nền văn hóa Nga trải qua nhiều thế kỷ đến nay vẫn còn giữ
trong mình những nét đặc sắc

Nước Nga có trên 16 dân tộc, mỗi dân tộc lại có những nét văn hóa khác nhau tuy
vẫn mang đặc trưng chung của người Nga. Văn hóa Nga chịu ảnh hưởng của nền tư
tưởng tôn giáo chính thống là Slav. Kiến trúc Nga gắn liền với nền văn hóa với những
ngôi nhà gỗ ở miền đồng quê Nga. Hàng thủ công mỹ nghệ cũng mang đậm văn hóa Nga.
Đồ thủ công mỹ nghệ Nga có tiếng trên toàn thế giới với nét chạm trổ tinh xảo, hình vẻ
và nét vẽ sắc nét. Điện ảnh Nga góp phần lớn trong việc phác thảo đầy đủ về nền văn hóa
Nga và xứng đáng với cái nôi của nền văn hóa Điện ảnh Thế giới. Những thể loại mà sân
khấu Nga có thể thể hiện là opera, âm nhạc, ballet, kịch. Người dân Nga có thói quen đến
rạp để thưởng thức bộ môn nghệ thuật này. Nước Nga còn là cái nôi của hệ thống giáo
dục Hàn lâm. Nga là nơi đào tạo nên những người tài giỏi trên tất cả các lĩnh vực. Hệ
thống giáo dục của Nga không chỉ nổi tiếng từ những năm đầu của thế kỷ và đã duy trì
đến nhiều năm sau này. Trang phục và lối sinh hoạt hàng ngày của người dân Nga cũng
thể hiện phần nào nền văn hóa Nga. Nga cũng là nước có một nền văn hóa vật chất phong
phú và một truyền thống mạnh mẽ trong công nghệ.


Tôn giáo:
Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Phật giáo, và Do Thái giáo là các tôn giáo truyền thống

của Nga, được cho là một phần của “di sản lịch sử” Nga trong một điều luật được thông
qua năm 1997. Những con số ước tính về các tín đồ rất khác biệt tuỳ theo các nguồn, và
một số báo cáo đưa ra con số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số.Chính thống giáo
Nga là tôn giáo thống trị ở Nga. 95% xứ đạo có đăng ký Chính thống thuộc Nhà thờ
Chính thống giáo Nga trong khi có một số Nhà thờ Chính thống nhỏ hơn. Tuy nhiên, đại
đa số tín đồ Chính thống không thường xuyên tới nhà thờ. Tuy thế, nhà thờ được cả các
tín đồ và người vô thần kính trọng và coi nó là một biểu tượng của di sản và văn hoá
Nga.Các phái Thiên chúa giáo nhỏ hơn như Cơ đốc giáo La Mã, Armenian Gregorians,
và nhiều phái Tin Lành có tồn tại.

9



Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu ý kiến Công chúng Nga, 63%
người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và
chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do
Thái giáo. 12% khác nói họ tin vào Chúa, nhưng không thực hiện bất kỳ tôn giáo nào và
16% nói họ là người vô thần. Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín
đồ Hồi giáo. Tuy nhiên học giả hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev
đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga. Nga cũng có ước tính 3
tới 4 triệu người nhập cư Hồi giáo từ các nước cộng hoà hậu Liên xô.Đa số tín đồ Hồi
giáo sống ở vùng Volga-Ural, cũng như Bắc Caucasus, Moscow, Saint Petersburg và Tây
Siberia. Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và
Kalmykia. Một số người sống ở Siberi và vùng Viễn Đông, Yakutia, Chukotka.. thực
hiện các nghi thức shamanist, pantheistic, và pagan, cùng với các tôn giáo chính. Việc
tham gia tôn giáo chủ yếu theo sắc tộc. Đại đa số người Slav theo Cơ Đốc giáo Chính
thống. Những người nói tiếng Turkic chủ yếu là tín đồ Hồi giáo, dù một số nhóm Turkic
tại Nga không theo.
2.2 Các phương diện phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga:
2.2.1 Rủi ro kinh tế-tài chính:
Tình hình kinh tế Nga gần đây qua những con số thống kê có thể vẫn chưa phản
ánh đầy đủ triển vọng xấu của một nền kinh tế mà mới chỉ cách đây vài năm còn đang
trong thời kỳ hưng thịnh. Các chuyên gia kinh tế và lãnh đạo doanh nghiệp, bao gồm một
số người có quan hệ thân thiết với điện Kremlin, đã cảnh báo rằng Nga đang đối mặt với
tình trạng trì trệ kinh tế kéo dài và sức cạnh tranh suy giảm. Sự suy giảm niềm tin vào
nền kinh tế Nga khiến nhà đầu tư bán tháo tài sản ở Nga của họ, gây ra sự suy giảm giá
trị của đồng rúp Nga và nỗi sợ hãi về một cuộc khủng hoảng tài chính Nga. Lòng tự tin

đối với nền kinh tế Nga đã giảm đi rất nhiều, xuất phát từ ít nhất hai nguồn chính: Việc
giảm giá dầu và các biện pháp trừng phạt kinh tế quốc tế đối với Nga sau vụ sáp
nhập Crimea vào nước mình.


Việc giảm giá dầu

10


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Sự sụt giảm giá dầu là do sự sụt giảm nhu cầu dầu trên toàn thế giới, cũng như
việc tăng sản xuất dầu tại Hoa Kỳ. Đợt giảm giá dầu này đã tác động rất lớn đối với Nga,
vì khoảng một nửa doanh thu của chính phủ Liên bang Nga đạt được từ việc bán dầu hỏa
và khí đốt.
Một lí do lí giải cho sự sụt giảm giá dầu liên tục vừa rồi là cung dầu mỏ tăng lên trong
khi nhu cầu lại giảm.Cầu dầu mỏ của thế giới đang giảm trong bối cảnh các quốc gia
đang tìm cách khai thác các nguồn năng lượng thay thế cho dầu mỏ và sức ép từ các hiệp
định cam kết bảo vệ môi trường.
Về phía cung, Thời gian gần đây, tại Mỹ “cuộc cách mạng dầu khí đá phiến” đang
được triển khai rầm rộ. Từ một nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, Mỹ đã trở thành
nước sản xuất dầu lớn thứ 3 của toàn cầu. Hiện nay, lượng khai thác dầu thô của Mỹ đã
đạt mức 8,7 triệu thùng/ngày (chỉ đứng sau Nga - trên 10 triệu thùng/ngày và Saudi
Arabia - gần 10 triệu thùng/ ngày).Theo dự báo, nếu vẫn với đà tăng trưởng như hiện nay,
chỉ sau khoảng 5 năm nữa, Mỹ sẽ vượt Ảrập Xê út và rất có thể sẽ “qua mặt” cả Nga.
Mặc khác OPEC sẽ không giảm sản lượng ngay cả khi giá dầu đang ở mức 60
USD/thùng, thậm chí xuống đến 30 USD/thùng. Nghĩa là dầu mỏ của Nga nếu muốn có

người mua phải chấp nhận hạ thấp đến mức có thể hủy hoại nền kinh tế nội địa nước
này.Cũng cần phải thấy rằng, nhiều quốc gia vùng vịnh trong OPEC là đồng minh thân
cận của người Mỹ trong nhiều năm qua.


Tác động của các biện pháp trừng phạt kinh tế đến rủi ro đối với Nga
Bất kỳ viện trợ quốc tế cho Nga đều không khả dĩ do kết quả của sự can thiệp

quân sự Nga tại Ukraina năm 2014. Các quan chức Nhà Trắng Mỹ cũng cho biết, bất
chấp cuộc khủng hoảng tài chính ở Nga, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu sẽ không dễ dàng
giảm nhẹ việc áp đặt trừng phạt kinh tế đối với Nga do việc sát nhập Crimea vào Nga và
sự giúp đỡ của Nga cho các chiếnbinh Novorossiya chiến đấu chống Ukraina trong cuộc
chiến tranh ở Donbass.
Các biện pháp trừng phạt trả đũa lẫn nhau đã không giúp ích gì cho cuộc khủng
hoảng ở Ukraine, nhưng thực tế đã cho thấy, chính người dân Nga đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn do tác động của những biện pháp trừng phạt này mang lại.Lệnh cấm vận
đã ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và tiêu dùng của Nga. Việc giá cả sẽ tăng do tình
11


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

trạng thiếu hụt và lạm phát tăng, dẫn đến tiết kiệm giảm, tiền lương giảm và thất nghiệp
gia tăng, hệ quả là chất lượng cuộc sống của người dân Nga giảm sút, đặc biệt là các gia
đình trung lưu và những người Nga nghèo. Qua đó thu nhập các hộ gia đình ở Nga đã
giảm liên tục trong 2 năm qua, và hiện có khoảng 22 triệu người Nga sống trong nghèo
khổ, tăng gấp rưỡi so với năm 2013. Tỉ lệ thất nghiệp ở Nga vẫn ở mức 5,8% tháng 122015, nghĩa là 4,4 triệu người không có việc làm trong khi tiền lương thực tế đã giảm
10% cho đến hiện tại.

Ngành năng lượng
Các công ty năng lượng cũng không đứng ngoài cuộc khủng hoảng này khi sự rớt
giá của đồng Ruble đã “cắt xén” lợi nhuận của các công ty làm ăn với Nga. Cổ phiếu của
Rosneft, công ty dầu lớn nhất của Nga, đã lao dốc 25% trong năm 2014 do lợi nhuận
chững lại khi giá dầu rớt thảm. Tập đoàn Total của Pháp cũng đã ngừng kế hoạch liên
doanh khai thác đá phiến với Công ty Lukoil của Nga. Các công ty năng lượng khác như
Exxon Mobil cũng không phải ngoại lệ.
Ngành bán lẻ
Năm 2015 vừa qua doanh số bán lẻ của Nga giảm 10%, vốn đầu tư giảm 8,4%
trong bối cảnh hoạt động kinh tế ảm đạm nhất từ năm 2009 trở lại đây.
McDonald’s, Adidas và các thương hiệu lớn cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ
các biện pháp trừng phạt. Mối quan hệ lạnh nhạt giữa Mỹ và Nga được cho là nguyên
nhân đằng sau việc Nga đóng cửa các nhà hàng của McDonald's tại nước này. Hãng thời
trang thể thao Adidas của Đức đang đóng cửa các cửa hàng và ngừng mở rộng hoạt động
tại Nga do căng thẳng tại đây đã tác động đến chi tiêu của người dân và đà sụt giảm của
đồng Ruble đã tác động xấu đến lợi nhuận. Tương tự, Coca-Cola cũng bị ảnh hưởng nặng
nề khi giá cổ phiếu của Coca-Cola HBC, hãng đóng chai và phân phối đồ uống tại Nga,
đã chìm nghỉm 32% trong năm 2014.
Chưa kể đến việc lệnh trừng phạt của phương Tây sẽ gây khó khăn trong việc tiếp
cận thị trường vốn, các doanh nghiệp còn phải đối mặt với làn sóng sa thải công nhân ồ
ạt. Tỉ lệ thất nghiệp chính thức của Nga đã lên đến con số 5.8%(12/2015)
Thị trường tài chính

12


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông


Trong phiên giao dịch ngày 16/12/2014, tỷ giá đồng Ruble từng sụt giảm ở mức
được cho là mạnh nhất trong vòng 16 năm qua. Việc đông Ruble mất giá thê thảm trong
một thời gian ngắn đã gây ra rất nhiều tác động tiêu cực đến thị trường tài chính của Nga
trên nhiều lĩnh vực.
Thị trường chứng khoán Nga đã chịu mức giảm lớn, với mức suy giảm 30% theo chỉ số
RST chỉ trong vòng nửa đầu tháng 12 năm 2014.
Không tránh khỏi những ảnh hưởng nặng nề, các ngân hàng của Nga cũng liên tục
phải đối mặt với những vấn đề phức tạp. VTB, ngân hàng lớn thứ hai của Nga, ra thông
báo cho biết, lợi nhuận ròng trong năm 2014 của họ giảm tới 99,2%. Cụ thể, lợi nhuận
của VTB trong năm 2014 chỉ ở mức 0,8 tỷ Ruble (12,7 triệu USD), giảm 99,2% so với
mức 100,5 tỷ Ruble năm 2013. Riêng trong quý IV/2014, ngân hàng này đã để lỗ 4,6 tỷ
Ruble. Ngay trong tháng 1/2015, Ban giám đốc VTB ra thông báo kế hoạch cắt giảm 5 7% nhân sự, tương đương khoảng 2.500 người, nhằm nỗ lực tiết kiệm chi phí.
Trong năm 2014, dòng vốn Nga chảy ra nước ngoài lên đến 120-130 tỷ USD,
phần lớn là do người dân Nga đổi đồng Ruble thành đồng ngoại tệ nhưng các ngoại tệ
này không thể lưu thông trên thị trường tiêu dùng Nga.
Bên cạnh đó, Nga cũng đứng trước tình trạng cạn tài chính “cứu” doanh nghiệp
khi nhu cầu cứu trợ của các doanh nghiệp nhanh chóng vượt xa nguồn cung tiền.
Ngay trong tháng đầu tiên của năm 2016, đồng Rúp đã rớt giá xuống mức thấp kỷ lục khi
giá dầu giảm 11% từ hôm 1/1 về vùng 30 USD/thùng. Với một nửa nguồn thu ngân sách
từ dầu khí, Chính phủ Nga đang loay hoay với khoản thâm hụt ngân sách 1,5 nghìn tỷ
Rúp, tương đương 19,2 tỷ USD.


Tác động của các biện pháp trừng phạt kinh tế đến rủi ro đối thế giới
Ngành năng lượng
Nga là nước nắm giữ huyết mạch năng lượng của EU khi cung cấp gần 1/3 lượng

khí đốt cho thị trường này, nên một khi Nga áp dụng các biện pháp chống trừng phạt, EU
sẽ phải đối mặt với các vấn đề kinh tế và xã hội nghiêm trọng. IMF nêu bật một “nguy cơ
tiềm tàng khác” – sự gián đoạn nguồn cung khí đốt của Nga cho Châu Âu, với riêng tập

đoàn Gazprom đã đảm nhận tới 1/3 nhu cầu khí đốt của EU và ½ sản lượng này được vận
chuyển qua Ukraine.
13


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Năng lượng là một nhược điểm của Châu Âu. Liên minh này nhập vào hơn 50%
năng lượng để đảm bảo nhu cầu tiêu thụ của tư nhân và các doanh nghiệp trong toàn
khối. Mặc dù tại Hội nghị Thượng đỉnh Âu – Mỹ mùa xuân vừa qua, Washington đã đề
nghị “sẵn sàng giúp đỡ châu Âu giải tỏa bớt áp lực của Moskva”. Tuy nhiên, đề nghị của
Washington cung cấp khí đốt cho Châu Âu mới chỉ là lời hứa, vì việc đưa khí đốt của Mỹ
sang thị trường châu Âu không đơn giản. Do vậy, các chính khách của châu Âu đủ thực
tế để ý thức được rằng mùa đông tới đây, EU sẽ vô cùng chật vật nếu không có khí đốt
của Nga.
Một số nước EU phụ thuộc 100% vào nguồn khí đốt của Nga sẽ chịu ảnh hưởng
nghiêm trọng bởi họ không có nhà cung cấp nào khác. Trong số đó, Đức và Italy là hai
nước sẽ bị tác động nhiều nhất. Nếu năng lượng là một trong những lĩnh vực chịu lệnh
trừng phạt, EU sẽ phải cân nhắc các biện pháp nhằm chia sẻ gánhnặng tài chính.
Tài chính quốc tế
Ủy ban châu Âu (EC) cho biết, các nước thành viên EU sẽ thiệt hại khoảng 40 –
50 tỉ euro trong 2 năm 2014 – 2015 do bị hạn chế tiếp cận thị trường tài chính Nga, cũng
như lệnh cấm cung cấp vũ khí và hàng hóa, công nghệ lưỡng dụng. Các biện pháp trừng
phạt tiềm tàng của Nga gây lo ngại cho các nước có nền kinh tế gặp khó khăn của EU,
đặc biệt là Italy. Trong khi đó, Trung tâm Tài chính London sẽ mất phần từ Nga và con
số có thể lên đến hàng triệu bảng.
Thương mại quốc tế
EU hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Nga, với kim ngạch thương mại song

phương năm 2013 đạt 336 tỷ euro. Các biện pháp hạn chế huy động vốn sẽ tác động
nghiêm trọng tới quan hệ kinh tế, thương mại song phương. Một phản ứng tiêu cực rõ nét
đó là ngay sau khi Mỹ và EU đồng loạt áp đặt thêm các biện pháp trừng phạt mới, nhiều
nước châu Âu như Thụy Điển, Ba Lan, Anh, Đức, Bỉ, … đều thừa nhận chính họ sẽ thiệt
hại lớn từ “cuộc chiến” lệnh trừng phạt giữa phương Tây và Nga.
Có thể nói, gia tăng các biện pháp trừng phạt Nga không chỉ ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp Nga nói riêng, và rộng hơn là nền kinh tế Nga, mà
chính các doanh nghiệp Mỹ và châu Âu cũng bị vạ lây khi bỏ lỡ cơ hội tại thị trường Nga
nhiều tiềm năng.
14


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

2.2.2 Rủi ro chính trị tại Nga:


Chính trị nội bộ:
Từ năm 2000 đến nay, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Vladimir Putin

đã dần dần đi vào ổn định, phục hồi và phát triển.
Tổng thống V. Putin đã thi hành một loạt biện pháp nhằm ổn định tình hình, củng
cố quyền lực của Trung ương, cải cách hệ thống chính trị, củng cố các định chế nhà
nước, bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ Nga: sửa đổi luật bầu cử, tăng cường tính đại diện, tính
minh bạch trong các cơ quan dân cử, nâng cao vai trò và ảnh hưởng chính trị của Đảng
thân chính quyền "Nước Nga thống nhất", quản lý chặt hơn các tổ chức xã hội phi chính
phủ, tăng vai trò của Nhà nước trong các ngành kinh tế chủ chốt, đặc biệt là dầu khí, xây
dựng các chủ thể mạnh thông qua sáp nhập các vùng để hỗ trợ nhau về kinh tế, phát triển

văn hoá, xã hội; áp dụng các biện pháp mạnh về quân sự để tiêu diệt bọn đầu sỏ ly khai ở
Chechnya đi đôi với các biện pháp chính trị - kinh tế, cơ bản lập lại trật tự tương đối ở
vùng Bắc Caucasus.
Hiện các lực lượng đối lập ở Nga đang bị phân hoá và suy yếu, số lượng các đảng
phái chính trị đã giảm nhiều. Một số đảng đối lập mạnh trước kia như Đảng “Quả táo”,
“Tổ quốc” đang dần mất vai trò; Đảng “nước Nga công bằng” do Chủ tịch Thượng viện
Sergey Mironov thành lập tuy tuyên bố là đối lập nhưng thực chất là hoạt động theo
hướng ủng hộ Tổng thống. Đảng Cộng sản Liên bang Nga đang gặp nhiều khó khăn, nội
bộ bị phân liệt, vị trí và uy tín giảm sút nhưng vẫn là một lực lượng chính trị quan trọng,
có vai trò, ảnh hưởng nhất định trên chính trường Nga hiện nay.
Đáng chú ý những năm gần đây, chính quyền Nga đã có những động thái phục hồi
và duy trì những biểu tượng của thời kỳ Liên Xô, nhất là trong lực lượng vũ trang và
trong các vấn đề lịch sử, nhằm tăng cường tập hợp lực lượng xã hội, đề cao tinh thần dân
tộc, phục vụ công cuộc chấn hưng nước Nga.


Đối ngoại
Trong thời gian qua, Nga thi hành chính sách đối ngoại thực dụng và linh hoạt, đa

dạng hoá quan hệ trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng, tranh thủ hợp
tác kinh tế với các đối tác khác nhau, tạo môi trường hoà bình ổn định cho đất nước phát

15


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

triển. Giai đoạn nhiệm kỳ của Tổng thống Putin do thế và lực tăng lên, Nga tỏ cứng rắn

và cương quyết hơn trong bảo vệ lợi ích quốc gia.
Quan hệ với Mỹ và phương Tây: là hướng ưu tiên chính trong chính sách đối
ngoại của Nga. Hai bên phát triển hợp tác trong lĩnh vực chống khủng bố và giải quyết
các vấn đề quốc tế và khu vực. Nga có lợi ích lớn trong quan hệ kinh tế và năng lượng
với EU. Tuy nhiên, gần đây, quan hệ Nga - Mỹ, Nga - EU có phần nóng lên do những bất
đồng xung quanh việc Mỹ dự định triển khai hệ thống phòng thủ chống tên lửa tại Châu
Âu, vấn đề dân chủ nhân quyền, vấn đề Nga gia nhập WTO, vấn đề hợp tác trong lĩnh
vực năng lượng, vướng mắc trong việc ký Hiệp định mới về hợp tác Nga - EU. Ngoài ra,
những căng thẳng giữa Nga với Ukraine năm 2014 và Thổ Nhĩ Kỳ năm 2015 (đều là các
nước đồng minh của Mỹ) cũng khiến quan hệ giữa Nga và phương Tây trở nên xấu đi,
dẫn đến các lệnh cấm vận về kinh tế gây ảnh hưởng rất lớn đến nước Nga trên nhiều lĩnh
vực.
Quan hệ với Cộng đồng các Quốc gia Độc lập SNG cũng là ưu tiên chính trong
chính sách đối ngoại của Nga vì đây là khu vực có nhiều mối ràng buộc về lịch sử, an
ninh, kinh tế, văn hoá với Nga. Nga đẩy mạnh hợp tác song phương với từng nước, đồng
thời tăng cường và củng cố các liên minh tầng nấc trong SNG về chính trị, kinh tế và
quân sự. Thời gian gần đây, Nga thi hành chính sách năng lượng mới, chuyển đổi cơ chế
từ bao cấp sang thị trường trong quan hệ năng lượng với các nước SNG, tăng cường hợp
tác với các nước Trung Á trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, xu thế ly khai vẫn tiếp tục diễn
ra ở khu vực này, gây phức tạp cho Nga trong quan hệ.
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực chiến lược quan trọng và nhiều lợi ích đối
với Nga, và gần đây được Nga coi trọng hơn trước. Vì vậy, Nga chủ trương tích cực hội
nhập và tham gia vào tất cả các cơ chế đối thoại của khu vực (ASEAN, ARF, APEC...),
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước ở khu vực, trong đó có các nước
Đông Nam Á.
Nga đẩy mạnh quan hệ song phương với Trung Quốc và Ấn Độ cũng như khuôn
khổ hợp tác 3 bên Nga - Trung - Ấn. Về kinh tế - thương mại, Trung Quốc và Ấn Độ đều
là thị trường tiềm năng rất lớn đối với Nga. Tuy nhiên, quan hệ Nga - Nhật vẫn gặp nhiều
trở ngại xung quanh vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
16



Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Bên cạnh đó, Nga tích cực đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, chú trọng tới
quan hệ với các nước Trung Đông, Mỹ La Tinh, Châu Phi, trong đó hợp tác kinh tế và kỹ
thuật quân sự được đẩy mạnh.


Tham nhũng và hối lộ
Tham nhũng gây ra cản trở rất đáng kể trong kinh doanh tại Nga, và những vụ

tham nhũng nhỏ là khá phổ biến. Tham nhũng đặc biệt xuất hiện nhiều trong hệ thống tư
pháp và mua sắm công. Môi trường kinh doanh gánh chịu hậu quả từ những mâu thuẫn
trong luật pháp và sự thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm trong quản lý hành chính công.
Sự thiếu hiệu quả trong quản lý làm gia tăng đáng kể các chi phí kinh doanh và có tác
động tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều
khó khăn khi làm việc với các loại giấy phép, mặc dù những thay đổi pháp lý gần đây đã
giảm bớt các thủ tục quan liêu.
Nhìn chung, tham nhũng và hối lộ đã trở thành căn bệnh cố hữu của Nga và điều
này gây ra nhiều lo ngại cho các doanh nghiệp hoạt động tại quốc gia này. Mặc dù chính
phủ đã có nhiều nỗ lực cải thiện vấn đề này, xếp hạng minh bạch của Nga vẫn đang ở
mức thấp, đứng hạng 136/177 quốc gia (Số liệu năm 2014 của tổ chức Transparency
International).


Đe doạ từ khủng bố
Tại Nga, mối đe dọa từ chủ nghĩa khủng bố là khá cao. Các cuộc tấn công xảy ra


một cách bừa bãi, kể cả ở những nơi thường xuyên có người nước ngoài, đặc biệt ở các
khu vực công cộngkhông được kiểm soát (ví dụ như các sự kiện ngoài trời, các chợ,…)
và tại các đầu mối giao thông chính. Nhiều cuộc tấn công trước đây được ghi nhận nhắm
vào mục tiêu là cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bao gồm sân bay, xe buýt, xe lửa và hệ
thống tàu điện ngầm. Các cuộc tấn công lớn trong quá khứ bao gồm sự cố khủng bố con
tin tại một trường học tại Beslan năm 2004 và tại một nhà hát tại Moscow năm 2002.
Vào ngày 08/02/2016 các cơ quan chức Nga bắt giữ 7 người đàn ông, bị cáo buộc
liên quan đến Daesh (trước đây gọi là ISIL) ở Ekaterinburg với kế hoạch thực hiện các
cuộc tấn công khủng bố ở một số thành phố trên khắp nước Nga.
Ngày 31/10/2015, một chuyến bay từ Thành phố Sharm el Sheikh đến St
Petersburg đã bị rơi ở Bắc Sinai. Chính quyền Ai Cập và Nga đang tiến hành một cuộc
17


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

điều tra. Cuộc điều tra vẫn chưa đưa ra kết luận chính thức nhưng vào 17/11/2015, chính
quyền Nga tuyên bố rằng vụ tai nạn đã được gây ra bởi một thiết bị nổ trên máy bay.
Ngày 11/10/2015 các cơ quan chức Nga bắt giữ 10 người tại Moscow với cáo
buộc có liên quan đến một âm mưu khủng bố.
Vào ngày 05/10/2014, một kẻ đánh bom tự sát kích nổ tại thủ đô Grozny của
Chechnya, và các cuộc tấn công sau đó đã diễn ra vào ngày 05/12/2014. Có ba vụ đánh
bom tự sát nhắm vàocác phương tiện giao thông công cộng tại thành phố Volgograd
trong ba tháng cuối năm 2013, làm ít nhất 30 dân thường thiệt mạng.
Các mối đe dọa khủng bố chủ yếu tại Nga đến từ các nhóm Hồi giáo ở khu vực
Bắc Caucasus. Hầu hết các cuộc tấn công được thực hiện bởi các phần tử ly khai, hoặc
liên quan đến nhóm Caucasus Emirate, còn được gọi là Imarat Kavkaz. Nhóm phần tử

cực đoan này đối đầu với chính phủ Nga nhằm mục đích thiết lập một triều đại Hồi giáo
tại Caucasus.
2.2.3 Xếp hạng tín nhiệm quốc giacủa Nga:


Hãng xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings:
Năm 2015 Fitch đã hạ một bậc xếp hạng tín dụng quốc gia của Nga từ mức "BBB"

xuống "BBB-", mức cuối cùng trên mức "junk" (vô giá trị), trong bối cảnh triển vọng
kinh tế của Nga tiếp tục xấu đi do giá dầu lao dốc.
Theo Fitch, nguyên nhân khiến họ đưa ra quyết định này là do cả dầu thô và
đồng ruble đều mất giá, trong khi lãi suất tại Nga tăng mạnh. Kinh tế Nga đã đình đốn kể
từ khi Phương Tây áp đặt các biện pháp trừng phạt nước này do sáp nhập Crimea và
những chính sách của Nga đối với khủng hoảng Ukraine.
Fitch dự đoán kinh tế Nga sẽ suy thoái 4% trong năm 2015 và vẫn duy trì triển
vọng tiêu cực, điều ám chỉ có thể tiếp tục đánh tụt xếp hạng của Nga. Triển vọng nền
kinh tế Nga đã xấu đi nhiều kể từ giữa năm 2014 dưới tác động của giá dầu giảm mạnh
và tỷ giá đồng Rúp sụt sâu, cộng thêm việc Ngân hàng Trung ương nước này mạnh tay
tăng lãi suất. Giá dầu giảm hơn 50% từ tháng 6/2014 tới nay đang đẩy Nga, nước xuất
khẩu năng lượng lớn nhất thế giới, tiến sát bờ vực suy thoái.Các lệnh trừng phạt này
khiến các công ty của Nga không thể tiếp cận được nguồn vốn trên thị trường trái phiếu
18


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

quốc tế, đông thời khiến giới đầu tư “mất hứng” với đồng Rúp, trái phiếu và cổ phiếu của
Nga.

Từ tháng 3 năm ngoái tới nay, Ngân hàng Trung ương Nga đã tăng lãi suất 6 lần,
và trong năm 2014, cơ quan này đã chi 88 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối để bảo vệ tỷ giá
đồng Rúp. Tuy vậy, đồng Rúp vẫn là đồng tiền mất giá mạnh thứ nhì thế giới trong năm
ngoái, chỉ sau đồng Hryvnia của Ukraine. Cũng trong năm 2014, lượng vốn ròng thoái
khỏi Nga là 134 tỷ USD, cao hơn gấp đôi so với mức thoái vốn của năm 2013. Ngân
hàng Trung ương Nga dự báo, nếu giá dầu ở mức trung bình 60 USD/thùng trong năm
nay, nền kinh tế nước này sẽ suy giảm tới 4,7%, mạnh nhất từ năm 2009.


Standard & Poor's (S&P):
Năm 2015, tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế Standard & Poor's (S&P) đã hạ bậc

xếp hạng tín dụng của Nga từ BBB- xuống BB+, tức là mức "junk" (vô giá trị). Lập tức,
thị trường chứng khoán Nga chao đảo. Đây là lần đầu tiên trong 10 năm qua, Nga bị hạ
bậc tín nhiệm xuống dưới mức khuyến nghị đầu tư. Theo AFP, S&P hạ tín nhiệm Nga
xuống mức “rác” với cảnh báo về khả năng tăng trưởng yếu. S&P cho biết, viễn cảnh
tăng trưởng kinh tế của Nga đã suy yếu trầm trọng và khả năng linh hoạt về chính sách
tiền tệ rất hạn chế. S&P dự báo, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Nga sẽ giảm 2,6%
trong năm 2015 do giá dầu sụt giảm và cấm vận của phương Tây.


Moody’s:
Sau Fitch và S&P (Standard & Poor’s), tiếp tục đến lượt Moody’s hạ điểm tín

nhiệm của Nga. Hãng đánh giá chỉ số tín nhiệm đầu tư này đã cắt giảm một bậc điểm tín
nhiệm của Nga từ Baa2 xuống Baa3, chỉ còn cao hơn 1 bậc so với ngưỡng “vô giá trị”.
Mức điểm này ngang bằng với điểm tín nhiệm mà hai tổ chức chuyên đánh giá tín nhiệm
đầu tư, có uy tín khác là S&P và Fitch dành cho Nga. Đồng thời cảnh báo có thể hạ định
hạng tín nhiệm của nước này về ngưỡng “vô giá trị” (junk) trong thời gian tới.
Ngoài hạ xếp hạng tín nhiệm trái phiếu Chính phủ Liên bang Nga xuống một bậc,

từ "Baa2" xuống "Baa3", Moody’s cũng hạ chỉ số đánh giá tín dụng ngắn hạn của Nga từ
19


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

"P-2" xuống "P-3”. Trước đó, vào tháng 10, Moody’s đã hạ chỉ số của Nga xuống
"Baa2". Giải thích lý do hạ xếp hạng tín nhiệm của Nga, Moody's cho biết giá dầu giảm
mạnh và sự khủng hoảng của đồng ruble đã khiến kinh tế Nga gặp khó khăn trong vài
tháng qua; đồng thời kéo giảm triển vọng tăng trưởng của nước này xuống mức “tiêu
cực”, tổ chức này cũng cảnh báo là cả hai tiêu chí xếp hạng này có thể được đưa ra xem
xét để hạ cấp tiếp.
Moody’s nhận định cú sốc giá dầu cùng với lệnh cấm vận đang làm xói mòn những
nền tảng của nền kinh tế Nga và ngày càng gây áp lực lên cả khu vực kinh tế công cũng
như tư nhân. Nếu bị hạ xuống dưới mức xếp hạng đầu tư rủi ro, các tài sản nợ do Nga
phát hành có thể bị bán tháo bởi các nhà đầu tư nhạy cảm với xếp hạng.
Như vậy, đến thời điểm này, cả ba tổ chức tín nhiệm đầu tư hàng đầu thế giới đã
lần lượt cắt giảm điểm tín nhiệm của Nga về sát ngưỡng “rác” đi kèm triển vọng “tiêu
cực”. Những đánh giá này có thể sẽ tác động rất lớn đến nhà đầu tư và là rào cản lớn đối
với tăng trưởng kinh tế Nga. Theo nhà quản lý quỹ Ian Hague thuộc Firebird
Managemenet LLC, mức xếp hạng rác sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến nợ của các doanh
nghiệp Nga. Nhiều doanh nghiệp nhà nước của Nga đang phải chịu lệnh trừng phạt và đã
không thể tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Nhiều doanh nghiệp quốc doanh của Nga hiện
đã nằm trong diện bị trừng phạt và không được tiếp cận với thị trường nợ quốc tế. Bởi
thế, họ sẽ không thể có được những khoản vay mới để thanh toán những khoản nợ cũ.
Giá dầu đã giảm mạnh kể từ giữa năm 2014 và thị trường dầu mỏ toàn cầu vẫn
tiếp tục giảm từ đầu năm 2015 đến này, khiến dầu Brent và dầu WTI của Mỹ xuống mức
thấp nhất kể từ tháng 4-2009, khiến triển vọng đối với bậc xếp hạng nhà phát hành dài

hạn của Nga được xếp ở mức tiêu cực. Nước xuất khẩu năng lượng lớn nhất thế giới đang
trên bờ vực suy thoái, sau khi giá dầu - mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước này, chiếm
tới 50% GDP của Nga đã giảm tới hơn 50% từ tháng 6/2014. Cũng trong 6 tháng qua,
đồng Ruble mất giá 47% dưới sức ép của giá dầu lao dốc kỷ lục và lệnh trừng phạt của
phương Tây. Trong trung hạn, cú sốc giá dầu nghiêm trọng và có thể sẽ kéo dài. Hơn
nữa, các biện pháp trừng phạt lên Nga do khủng hoảng Ukraine của Mỹ cùng các đồng
minh đã khóa chặt kênh vay vốn quốc tế của Nga, đang làm suy yếu các yếu tố nền tảng
của nền kinh tế Nga, tiếp tục làm xấu đi triển vọng tăng trưởng kinh tế của nước này.
20


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Đồng Ruble mất giá thê thảm khiến Ngân hàng Trung ương Nga tăng lãi suất 6 lần
kể từ tháng 3 năm ngoái và chi 88 tỷ USD từ dự trữ ngoại hối để bảo vệ tỷ giá đồng nội
tệ. Trong tuần trước, chi phí bảo hiểm cho trái phiếu Nga đã tăng lên mức cao nhất trong
6 năm qua, trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư bán tháo đồng rouble, cổ phiếu và trái phiếu
Nga. Để đối phó với cuộc khủng hoảng tiền tệ, giới chức quản lý kinh tế Nga đã thực
hiện hàng loạt biện pháp khẩn cấp như tăng lãi suất mạnh nhất 17 năm, lên kế hoạch bơm
1.000 tỷ rouble cho các ngân hàng và buộc các hãng xuất khẩu đổi doanh thu ngoại tệ ra
rouble. Quyết định này cho thấy Nga đang mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn với giá dầu
giảm và các lệnh trừng phạt ngày càng khắc nghiệt. Chính sách thiếu chắc chắn và khủng
hoảng sâu đang ăn mòn lẫn nhau. Rất khó để Nga thoát khỏi tình trạng bị xuống mức
“rác”.
Do đó, Moody's cũng hạ dự báo tăng trưởng GDP của Nga trong năm 2015 và
2016. Kinh tế Nga có thể sẽ suy giảm 5,5% trong năm 2015 và 3% trong năm 2016. Kết
quả là, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thực trong 10 năm tính đến năm 2018 sẽ về
0%.

Tuy nhiên, Moody's cũng hy vọng rằng, Nga sẽ tháo gỡ được phần nào khó khăn
thông qua thặng dư tài khoản vãng lai. Năm 2014, thặng dư tài khoản vãng lai của Nga
đạt 56,7 tỷ USD và thặng dư thương mại đạt 185,6 tỷ USD, theo số liệu mới công bố của
ngân hàng trung ương Nga trong ngày 16/1. Cơ bản là các chuyên gia kinh tế phương
Tây đều thống nhất nhận định là năm 2015 sẽ rất xấu đối với kinh tế Nga.

21


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

Kết luận
Nền kinh tế Nga đang thể hiện độ bền đáng kinh ngạc và không có lý do để lo lắng
mặc dù tình trạng bất ổn kinh tế đang ngự trị trên toàn thế giới, còn giá dầu vẫn ở mức
thấp, sự bình tĩnh của Nga là hoàn toàn có cơ sở.
Thứ nhất, không có mối đe dọa nào về khả năng thanh toán của nhà nước. Trong
bối cảnh tất cả những bất đồng chính trị với phương Tây và những biện pháp trừng phạt
chống Nga, đất nước này đã chứng mình rằng kinh tế của họ không thể bị đánh chìm.
Thứ hai, bất chấp sự mất giá của đồng rúp, ở Nga không quan sát thấy tình trạng
bùng nổ lạm phát. Bên cạnh đó, đất nước này trên thực tế đang được hưởng lợi từ giá dầu
thấp vì mức độ tự cung cấp trong nước đã tăng lên đáng kể. Ở thời điểm này Nga không
có nhu cầu cấp thiết đối với các khoản đầu tư nước ngoài do nguồn vốn chính của đất
nước đã đạt đến mức độ cao khá đủ.
Chính phủ Nga sẽ thực hiện các biện pháp nhằm đối phó và xử lý vấn đề mà nền
kinh tế đang phải đối mặt. Để đảm bảo an ninh kinh tế, Moscow cần phải cân đối ngân
sách, ngăn chặn các dòng vốn, kiềm chế lạm phát.Để xử lý các mối đe doạ, chính phủ sẽ
thực hiện chính sách kinh tế và xã hội quốc gia, bao gồm các biện pháp củng cố hệ thống
tài chính, bảo vệ chủ quyền và ổn định tiền tệ.


22


Phân tích rủi ro quốc gia Liên bang Nga

GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông

MỤC LỤC

23



×