Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ẨN DỤ VỀ “XẤU HỔ” TRONG MỘT SỐ THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.35 KB, 13 trang )

ẨN DỤ VỀ “XẤU HỔ” TRONG MỘT SỐ THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ
TIẾNG VIỆT TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ HỌC TRI NHẬN
Tran Xuan Diep, Assoc. Prof, Dr.
English Linguistics Division
MỞ ĐẦU
Một trong những kỳ vọng của việc học ngoại ngữ, mà cụ thể là học tiếng Anh, là
đạt được một khả năng ngôn ngữ mà nền tảng của nó là một lối tư duy như người
bản ngữ tiếng Anh. Nói cách khác, đó là làm thế nào để đạt tới một năng lực ngôn
ngữ mà nó có thể phản ánh được thế giới quan của người bản ngữ. Sở dĩ có kì
vọng như vậy là vì hai ngôn ngữ, Anh và Việt, không chỉ khác nhau về hình thức
như hệ thống âm thanh, ngữ pháp, từ vựng vv…, mà còn về những quá trình nhận
thức thế giới của người tạo sản ra các phát ngôn bằng hai ngôn ngữ đó. Sư khác
nhau đó xuất phát từ nền tảng văn hóa – xã hội. Ngôn ngữ vừa là sản phầm vừa là
phương tiện của nhận thức này. Một trường phái ngôn ngữ học đặc biệt quan tâm
đến phương thức con người nhận thức thế giới là Ngôn ngữ học tri nhận (cognitive
linguistics). Tình cảm là một trong những vấn đề thuộc thế giới khách quan mà
con người đặc biệt quan tâm. Xấu hổ là một trong những tình cảm của con người ở
mọi nền văn hóa. Bài viết dưới đây bàn đến cách thức xem xét của ngôn ngữ học
tri nhận đối với vấn đề ẩn dụ về xấu hổ trong tiếng Anh và tiếng Việt.

PHÁT TRIỂN
1. ẨN DỤ NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TRI NHẬN
1.1.

Những vấn đề chung về ngôn ngữ học tri nhận

Tri nhận (Cognition) là thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Latin cognoscere, nghĩa là
hiểu biết (know), ý niệm hóa (conceptualize) hoặc nhận biết (recognize). Tuy có
tác giả dịch thành “nhận thức” xong chúng tôi cho rằng “tri nhận” trong tiếng Việt
mang nội hàm tương đương hơn và để đảm bảo tính nhất quán chúng tôi sử dụng
thuật ngữ “tri nhận” trong suốt công trình này (xem thêm Diệp Quang Ban, 2008).


Tri nhận là quá trình tinh thần bao gồm chú ý, ghi nhớ, tạo sản (production) và/


hoặc tiếp thu (reception) ngôn ngữ, giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định. Theo
Lý Toàn Thắng (2005), “Nói đến tri nhận là nói đến thu nhận, tàng trữ và xử lý
thông tin, chế biến thành các tri thức”.
Khoa học tri nhận (Cognitive Science) ra đời vào nửa cuối thế kỷ XX, nghiên cứu
trí tuệ con người ở dưới tất cả các hình thức từ tri giác đến hành động, ngôn ngữ
và lập luận; là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành, gồm tâm lý học, trí thông minh
nhân tạo, triết học, khoa học thần kinh, ngôn ngữ học, nhân chủng học, giáo dục
học.
Ngôn ngữ học tri nhận (Cognitive Linguistics) bắt đầu phát triển từ những năm
1980 như một trường phái ngôn ngữ vận dụng kiến thức liên ngành, nghiên cứu
ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của con người về thế giới
khách quan cũng như phương thức mà con người tri giác và ý niệm hóa các sự vật
của thế giới khách quan đó. Trong tiếng Anh Ngôn ngữ học tri nhận gắn liền với
những tác giả như: Charles Fillmore (1982, 1985), George Lakoff (1980, 1987,
1989, 1992), Leonard Talmy (2000, 2001) và Ronald Langacker (1987, 1991,
1999, 2008). Ở Việt Nam, những tác giả đi đầu trong đường hướng này đối với
Việt ngữ học là Lý Toàn Thắng (2005, 2009) và Trần Văn Cơ (2007, 2010).
Mặc dù cùng xuất phát từ một số quan điểm và tư tưởng chung, song ngôn ngữ
học tri nhận có ba đường hướng nghiên cứu chính:
1/ Hướng tiếp cận thứ nhất quan tâm đến vấn đề giữa tri nhận và ngữ pháp, cũng
như ảnh hưởng của các phạm trù ý niệm vào ngữ pháp.
2/ Hướng nghiên cứu thứ hai thiên về ngữ nghĩa học, còn gọi là Chủ nghĩa kinh
nghiệm (Experientialism). Hướng này tìm hiểu những gì diễn ra trong đầu óc con
người khi tạo sản (production) và tiếp thu (reception) ngôn ngữ, cách thức miêu tả
các thuộc tính của sự vật, sự liên tưởng và ấn tượng về sự vật hiện tượng đó.
3/ Hướng nghiên cứu thứ ba thiên về ngữ dụng: nghiên cứu Không gian tinh thần
(Mental Spaces) và Tích hợp ý niệm (Conceptual Blending/ Integration).

Công trình này được tiến hành theo đường hướng ngữ nghĩa học tri nhận.


1. 2. Ẩn dụ – một trong những vấn đề cơ bản của ngữ nghĩa học tri nhận
(Cognitive Semantics)
Ý niệm và hệ thống ý niệm (Concept & Conceptual System): Một trong những
vấn đề then chốt của ngôn ngữ học tri nhận là ý niệm hóa thế giới diễn ra trong ý
thức con người. Quá trình này dẫn đến việc phân xuất ra những đơn vị nội dung
tối thiểu thuộc cấp độ tinh thần vốn là kết quả của trải nghiệm thực tiễn trong quá
trình con người nhận thức thế giới xung quanh. Vậy nên, đơn vị cơ sở của ngôn
ngữ học tri nhận là ý niệm.
Mô hình tri nhận và mô hình văn hóa (Cognitive Model and Cultural Model):
Lakoff và Turner (1989) cho rằng lược đồ ý niệm tổ chức tri thức của chúng ta.
Chúng cấu thành mô hình tri nhận của một bình diện nào đó trong thế giới hiện
thực. Chúng ta sử dụng những mô hình này để hiểu những kinh nghiệm ta bắt gặp
và suy luận về nó. Mô hình tri nhận không phải là mô hình mang tính ý thức mà
chúng được vận dụng một cách vô thức và tự động. Không thể nhìn thấy mô hình
đó trực tiếp mà suy ra từ hệ quả của nó. Con người tích lũy mô hình tri nhận bằng
hai con đường cơ bản: bằng trải nghiệm trực tiếp và thông qua tri thức văn hóa.
Mô hình tri nhận nhấn mạnh bản chất tinh thần trong trải nghiệm tri giác, còn mô
hình văn hóa nhấn mạnh bản chất văn hóa, những mô hình thông dụng mà một
cộng đồng nào đó đều có.
Phạm trù hóa (Categorization) và điển dạng (prototype) trong ngôn ngữ: Quan
điểm truyền thống về phạm trù hóa cho rằng sự vật được xếp loại với nhau dựa
trên những đặc tính mà các thành viên đều có. Ví dụ, “đĩa” có đặc điểm chung là
bằng gốm, tròn, rất nông, miệng rộng, dùng để đựng thức ăn. Do vậy, để được xếp
vào nhóm “đĩa” thì một cá thể nào đó phải đáp ứng được các điều kiện trên. Nếu
như vậy, về mặt thuộc tính, thì các thành viên của một phạm trù ngang bằng nhau
và không có thành viên nào là đại diện, điển hình hơn các thành viên khác. Như
vậy ngôn ngữ là một hệ thống máy móc, không còn thuộc địa hạt xã hội nữa và

nghiên cứu ngôn ngữ cũng chẳng khác gì nghiên cứu trong các ngành khoa học tự
nhiên khác như toán, chẳng hạn.


Rosch (1977) đã chứng minh rằng con người phân loại sự vật khi tương tác với thế
giới và đặt tên cho các phạm trù dựa trên sự tương tự chứ không phải điều kiện
cần và đủ máy móc như quan điểm truyền thống nói trên. Trong các phạm trù, nói
chung, luôn có những thành viên mang đặc tính trung tâm hơn những thành viên
khác trong nhóm. Những thành viên trung tâm đó gọi là điển dạng. Nói cách khác,
điển dạng là những thành viên điển hình của một phạm trù, làm chuẩn cho những
thành viên xung quanh nó, ngoại biên hơn hay kém điển hình hơn
Đồng tình với quan điểm này, Lakoff (1987) cho rằng ngôn ngữ vận dụng toàn bộ
hệ thống tri nhận tổng thể của con người. Như vậy, có hai hệ quả quan trọng: Thứ
nhất, các phạm trù ngôn ngữ cũng tương tự như các phạm trù khác trong hệ thống
ý niệm của chúng ta, và chịu tác động của hiệu ứng điển dạng. Thứ hai, bằng
chứng về bản chất của các phạm trù ngôn ngữ cũng góp phần hiểu rõ về các phạm
trù tri nhận một cách tổng quát. Theo đó, trong trường hợp “đĩa” nói trên, điển
dạng chỉ là những vật thể mà con người tri giác được sao cho có đặc điểm: tròn,
rất nông và có miệng rộng là đủ. Nên mới có “đĩa đèn”, “đĩa xe đạp”, “đĩa hát”,
“đĩa bay” ….
Ẩn dụ (Metaphor): Ẩn dụ là đối tượng thu hút sự chú ý đặc biệt trong văn học và
ngôn ngữ học. Theo truyền thống, có ba quan điểm chính về ẩn dụ: quan điểm so
sánh, quan điểm thay thế, và quan điểm tương tác. Cả ba cách tiếp cận này đều có
chung một điểm: ẩn dụ là hiện tượng của ngôn ngữ, chỉ là một phép tu từ và có
chức năng thẩm mỹ; do vậy, chúng ta hoàn toàn có thể chuyển tải ý nghĩa một
cách bình thường mà không cần đến ẩn dụ.
Vị trí của ẩn dụ trong ngôn ngữ học tri nhận:
2 cam kết (commitment) mang tính then chốt của ngôn ngữ học tri nhận làm cho
trường phái này khác hẳn các trường phái ngôn ngữ học khác là khái quát hóa
(Generalization) và tri nhận (Cognitive). Cam kết khái quát hóa là cam kết mô tả

đặc điểm của những nguyên lý chung làm cơ sở cho tất cả các bình diện của ngôn
ngữ. Theo truyền thống, việc nghiên cứu ngôn ngữ được tách bạch ra thành những


bình diện khác nhau như âm vị học, ngữ nghĩa học, ngữ dụng học…. được xem
như những kiểu loại nguyên tắc khác nhau kiến tạo nên ngôn ngữ. Ngôn ngữ học
tri nhận phủ nhận sự phân loại này. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng 3 khu
vực làm cho những thành tố ngôn ngữ khác nhau đều có chung những đặc điểm tổ
chức cơ bản là phạm trù hóa (categorization), đa nghĩa (polysemy) và ẩn dụ
(metaphor) (Evans, 2007). Như vậy, ẩn dụ có một vị trí then chốt trong cam kết
khái quát hóa của ngôn ngữ học tri nhận.
Khác với ngôn ngữ học truyền thống, ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ không
đơn thuần là vấn đề của ngôn ngữ mà còn là vấn đề của tư duy và hành động. Ẩn
dụ là phổ biến trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta và là một cơ chế tri nhận
không thể thiếu của con người. Chúng được sử dụng không chỉ bởi những người
có năng lực sáng tác phi thường (trong văn học) mà còn bởi những người bình
thường nhất. Ẩn dụ có 3 chức năng giao tiếp cơ bản: thứ nhất tính bất khả diễn đạt
(inexpressibility), nghĩa là ẩn dụ cho phép người ta diễn đạt một ý niệm rất khó mà
không thể miêu tả bằng ngôn ngữ thông thường; thứ hai là tính súc tích
(compactness) – ngắn gọn nhưng có khả năng biểu đạt lớn; thứ ba là tính sinh
động (vividness) – gắn liền với giao tiếp hàng ngày, gợi tả và dễ hiểu. Vì thuộc
quá trình tư duy nên ẩn dụ không những thể hiện qua ngôn ngữ mà còn rất nhiều
hình thức giao tiếp phi ngôn như cử chỉ/ động tác, phim ảnh, hội họa, kiến trúc,
quảng cáo, biểu tượng, v.v….
Ngôn ngữ học truyền thống thường phân biệt ẩn dụ và so sánh (simile). Theo đó,
dạng A là B được xem là ẩn dụ, còn A như B là so sánh. Lakoff và Turner (1989)
cho rằng cách xác định ẩn dụ thông qua cấu trúc cú pháp như vậy là hoàn toàn
hiểu sai bản chất ý niệm của ẩn dụ. Theo đường hướng tri nhận, ẩn dụ là hiểu một
ý niệm thông qua một ý niệm khác. Hai câu Thương trường là chiến trường và
Thương trường như chiến trường về bản chất là như nhau vì chúng đều liên quan

đến hai miền ý niệm khác biệt, chỉ khác nhau một điểm nhỏ là: do có như mà hiệu
lực câu thứ hai yếu hơn. Hay nói cách khác, so sánh là một dạng yếu của ẩn dụ.


Ẩn dụ có thể phân loại theo chức năng tri nhận của nó. Trên cơ sở này thì
có thể phân loại ẩn dụ thành: ẩn dụ cấu trúc (structural metaphor), ẩn dụ bản thể
(ontological metaphor), ẩn dụ định hướng (orientational metaphor) và ẩn dụ hình
ảnh (image metaphor).

2. KHÁI QUÁT VỀ CÁC QUAN NIỆM THÀNH NGỮ TRONG TIẾNG ANH
VÀ TIẾNG VIỆT
Để phục vụ cho mục đích của công trình, chúng tôi đã điểm lại các quan niệm về
các thành ngữ trong tiếng Anh như của các tác giả Katz & Postal (1963),
Weinreich (1969), Makkai

(1972), Wood (1981), Fernando (1996), Grant &

Bauer (2004) và của các tác giả Việt ngữ như Hoàng Văn Hành (2004), Nguyễn
Như Ý (1992), Nguyễn Thiện Giáp (2008), Đỗ Hữu Châu (1981), Nguyễn Công
Đức ( 1995). Có thể có nhận xét chung về các các quan niệm này như sau:
Các cách xác định thành ngữ trong tiếng Anh là thiếu nhất quán và phức tạp. Tuy
nhiên, có ba tiêu chí quan trọng để xác định thành ngữ được đa số các học giả
chấp nhận, đó là:
1) Thành ngữ thường mang nghĩa bóng hoặc bán nghĩa đen, khó suy đoán từ nghĩa
thành phần;
2) Chúng thường cố định về mặt cấu trúc; và
3) Thành ngữ là cụm từ bao gồm ít nhất hai từ.
Nếu đối chiếu với quan điểm về thành ngữ trong tiếng Việt, thì những tiêu chí này
về cơ bản là tương tự. Tuy vậy, yếu tố vần điệu không hề được nhắc đến trong các
quan niệm về thành ngữ tiếng Anh. Điều này cũng dễ hiểu – tiếng Anh là ngôn

ngữ biến hình và có trọng âm, trong khi tiếng Việt lại là ngôn ngữ đơn lập có
thanh điệu.
Phần lý luận nói trên là cơ sở để xem xét một trường hợp ẩn dụ cụ thể dưới đây:
3. ẨN DỤ VỀ XẤU HỔ TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT


Theo Ekman (2003), các phạm trù tình cảm cơ bản của con người vừa có tính bản
năng vừa có tính xã hội, trong đó, xấu hổ mang đậm bản chất xã hội hơn cả, và
cảm giác xấu hổ xuất hiện muộn nhất trong quá trình tiến hóa. Có nhiều nguyên
nhân gây ra cảm giác xấu hổ: có thể là lỗi lầm cá nhân, sự thua kém, để lộ những
phần nhạy cảm trên cơ thể, v.v. Vì người ta thường tìm cách dấu sự thể hiện tình
cảm này ra bên ngoài nên những hiệu ứng sinh lý quan sát được cũng rất ít. Đây có
thể là nguyên nhân có rất ít thành ngữ chỉ sự xấu hổ cả trong tiếng Anh và tiếng
Việt. Sau đây là những kết quả nghiên cứu ban đầu của chúng tôi:

1. Xấu hổ là hướng xuống
Hai ẩn dụ định hướng lên (up) và xuống (down) miêu tả trạng thái tình cảm tích
cực và tiêu cực. Kiểu ẩn dụ này xuất hiện hàng ngày, cả trong giao tiếp hữu ngôn
(trong cả các thể loại văn học) và phi ngôn (trong cả các loại hình nghệ thuật).
Hàng ngày, hình ảnh nhìn lên bao giờ cũng đi kèm với hàm ý tích cực như tự tin,
hãnh diện, đắc thắng, mạnh mẽ, anh hùng vv…. và hình ảnh nhìn xuống bao giờ
cũng ẩn ý ngược lại – tiêu cực, như khiêm tốn, thiếu tự tin, tự ty, thua cuộc, yếu
ớt, có lỗi, nhút nhát, nhục nhã vv…. Ẩn dụ XẤU HỔ LÀ HƯỚNG XUỐNG dựa
trên kinh nghiệm sinh lý phổ quát và trải nghiệm trực tiếp. Khi xấu hổ, người ta
thường cúi đầu xuống. Đây là hình ảnh thường quan sát được về những người lầm
lỗi, vi phạm đạo đức, nội quy, quy chế, luật pháp … khi bị phát hiện. Mặc dù xấu
hổ là trạng thái tình cảm không tồn tại ở các loài động thực vật nhưng trong tiếng
Việt vẫn có tên “cây xấu hổ” để chỉ một loại cây khi có tiếp xúc với tay người thi
lá tự cụp xuống. Rõ ràng đây không còn đơn thuần là vấn đề của ngôn ngữ mà còn
là vấn đề của tư duy, là cách người Việt tri nhận thế giới.

Kết quả khảo sát ban đầu cho thấy: trong tiếng Anh có ba thành ngữ sử dụng ẩn dụ
này.
1.

Burn somebody down: Đốt ai xuống/ Làm cho người ta xấu hổ

2.

Live something down: Đè, nén xuống/ Quên đi sự xấu hổ

3.

Shame weighs somebody down: Sự xấu hổ đè ai xuống/Làm cho xấu hổ


Mặc dù cũng ý niệm hóa sự xấu hổ là hướng xuống nhưng tiếng Việt không mã
hóa trong thành ngữ mà chỉ sử dụng ở dạng cụm từ để hình tượng hóa ý niệm này
như “xấu hổ cúi gằm mặt xuống”.

2. Xấu hổ là không mặc quần áo
Từ xa xưa con người đã biết tìm mọi cách để vừa bảo vệ vừa che dấu bộ phận
nhạy cảm trên cơ thể. Vậy nên, một trong những nguyên nhân khiến người ta xấu
hổ là để lộ những bộ phận nhạy cảm này. Khi xã hội phát triển, xấu hổ không chỉ
giới hạn về thể xác mà còn về tinh thần. Tuy nhiên, để miêu tả phạm trù trừu
tượng bằng những cụm từ trừu tượng thì rất khó hiểu nên người ta dùng hình ảnh
cụ thể, nguyên thủy nhất. Những thành ngữ như vậy thường mang nghĩa bóng,
nghĩa ẩn dụ, không còn nghĩa đen thông thường.
1.

Hack somebody off: Lột quần áo/ Làm cho xấu hổ.


2.

To be caught with one’s pants down: Bị bắt khi quần tụt/ Cảm thấy bị mất

mặt, rơi vào tình huống đáng xấu hổ.
It’s the first time that the CIA has been caught with its pants down (Alaiwa,
28/2/2011)
(Đó là lần đầu tiên Cục tình báo trung ương Mỹ bị mất mặt như vậy).
Ngoài thành ngữ sử dụng trực tiếp hình ảnh để lộ bộ phận nhạy cảm, tiếng Anh
còn có hai thành ngữ suy luận từ ẩn dụ này đi với động từ “save” (giữ cho không
bị lộ ra ngoài).
1.

Save somebody’s skin: Cứu ai khỏi lộ da thịt/ Lấy lại thể diện

2.

Save somebody’s ass/butt: Cứu mông người ta khỏi bị lộ ra/ Giúp người ta

giữ thể diện
But Mr. Bush saved his skin in New Hampshire, in a campaign that stole the ''one
of us'' slogan his rival had used so powerfully in Iowa.
(New York Times, 28/2/1998)


(Nhưng ông Bush đã lấy lại được thể diện ở New Hamshire trong cuộc vận
động bắt chước khẩu hiệu “một trong số chúng ta” mà đối thủ của ông đã sử
dụng rất thành công ở Iowa).
Xét ở cấp độ từ vựng, tiếng Việt có 2 từ miêu tả phạm trù này là xấu hổ, ngượng,

nhưng không xuất hiện trong thành ngữ ẩn dụ lõa thể. Thành ngữ “trần như
nhộng” miêu tả người không có mảnh vải che thân, có thể nói về sự xấu hổ hoặc
chỉ đơn thuần là người không mặc quần áo trong một tình huống nào đó.

3. Xấu hổ là muốn lẩn trốn
Theo Darwin (dẫn theo Wierzbicka [1992]), ý niệm xấu hổ thường gắn liền với
mong muốn không bị người khác nhìn thấy. Theo nghiên cứu của Izard [1982], khi
chủ thể được hỏi họ cảm thấy như thế nào khi trải nghiệm sự xấu hổ thì đa số câu
trả lời là họ muốn biến mất để không bị nhìn thấy. Trong bộ phim khoa học về tình
cảm căn bản của con người được kích thích bằng thôi miên cho thấy phản ứng của
con người trong trạng thái xấu hổ là cúi đầu thấp, thu chân và tay sát vào người.
Khi hỏi người tham gia thí nghiệm về hình ảnh trên thì người ta trả lời trong trạng
thái xấu hổ đó họ cố gắng thu mình càng nhỏ càng tốt để người ta không nhìn
thấy. Tình cảm này có phản ứng sinh lý phổ quát và đây là cơ sở hình thành ẩn dụ
XẤU HỔ LÀ MUỐN LẨN TRỐN. Điều thú vị ở ẩn dụ này là nó có tính logic với
các tình cảm tiêu cực. Khi xấu hổ, người ta muốn biến mất khỏi tầm nhìn của
người khác, nhưng không biến mất bằng cách hướng lên mà là hướng xuống. Cơ
chế tri nhận này được xem là phổ quát ở mọi ngôn ngữ.
1.

Want to bury one’s head in the sand: Muốn vùi đầu trong cát/Muốn chui

xuống đất
2.

Wish the ground would swallow up somebody: Muốn đất nuốt chửng/Muốn

độn thổ vì xấu hổ
Everyone in the room was staring at me and I stood there wishing the ground
would swallow me up (The Free Dictionary by Farlex).



(Mọi người trong phòng cứ nhìn chằm chặp vào tôi và tôi đứng như trời trồng, ước
gì mình có thể độn thổ).
Mặc dù tiếng Việt không có thành ngữ này nhưng người Việt vẫn cảm nhận sự xấu
hổ tương tự như người Anh. Khi xấu hổ họ cũng không muốn người khác nhìn
thấy nên cũng muốn “độn thổ”.
Trên khuôn mặt của chị không chỉ có sự lo lắng mà còn là sự xấu hổ. Khuôn mặt
trắng trẻo sau ít phút lại đỏ lựng lên, hai tai cũng luôn trong tình trạng nóng
bừng. Càng nhiều người nhìn, chị càng cúi gập người xuống như thể muốn “độn
thổ” (Dân trí, 6/12/2010).

KẾT LUẬN
Tóm lại, trên con đường đến mục đích lý tưởng là giúp người học dùng được tiếng
Anh như người bản ngữ, bài viết trên đây đã tìm hiểu khái niệm ẩn dụ theo đường
hướng ngôn ngữ học tri nhận và áp dụng cơ sở lý luận ấy vào việc bước đầu tìm
hiểu ẩn dụ “xấu hổ’ trong tiếng Anh trong sự so sánh với tiếng Việt. Xấu hổ đã
được tri nhận và ý niệm hóa thành 3 lối ẩn dụ như đã trình bầy trên.
Đi theo đường hướng ngữ nghĩa học tri nhận giúp giải quyết nhiều vấn đề trong
đào tạo ngoại ngữ. Nói một cách đơn giản, đường hướng này giúp giải quyết vấn
đề như đã nêu trên – đạt được việc dùng tiếng Anh như người bản ngữ. Trong dịch
thuật, có thể thấy được ngay một ứng dụng của nó là: chuyển dịch ngôn ngữ luôn
đi kèm với chuyển dịch văn hóa. Nói cách khác, dịch luôn phải quan tâm đến mô
hình tri nhận và mô hình văn hóa. Việc dịch “xe ôm” sang tiếng Anh, là một ví dụ,
phải nhận thức được: trong văn hóa Anh-Mỹ không hề có ý niệm này mà chỉ có ý
niệm “taxi”. Điển dạng của “taxi” là dịch vụ chở khách lẻ. Những thành phần
không điển dạng, ngoại vi của “taxi” có thể là dùng ô tô, có thể dùng xe máy. Kết
quả cho thấy “xe ôm” = “motorbike taxi” (taxi bằng xe máy). Chúng tôi đã thí
nghiệm và kết quả đúng như mong đợi – người bản ngữ hiểu ngay! Có thể tìm
thấy hàng loạt những ví dụ tương tự.



Tuy nhiên, trong khuôn khổ của công trình nhỏ này, bài viết mới chỉ dừng lại ở
việc điểm lại khái quát những nét cơ bản của ngôn ngữ học tri nhận, trường hợp
khảo sát cụ thể trên mới chỉ là một thử nghiệm nhỏ về một sắc thái tình cảm trong
một vài thành ngữ tiếng Anh, theo đường hướng ngữ nghĩa học tri nhận. Cơ hội
nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn hiện vẫn đang bỏ ngỏ: tìm hiểu hết những cam kết
của ngôn ngữ học tri nhận, 2 hướng tiếp cận khác (nêu trên), ẩn dụ cấu trúc, bản
thể, định hướng, và với những ý niệm tình cảm khác, hoặc những phạm trù khác,
đang đợi chờ những công trình sắp tới.
Tác giả xin trân trọng mọi ý kiến đóng góp, thảo luận!
_______________

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt

1.

Diệp Quang Ban (2008), “Cognition: Tri nhận và nhận thức; Concept: Ý

niệm hay khái niệm?” Ngôn ngữ, số 2, 1-11.
2.

Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo

dục, Hà Nội.
3.

Trần Văn Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận, Nhà xuất bản Khoa học Xã


hội.
4.

Trần Văn Cơ (2010), “Việt ngữ học tri nhận: Phác thảo một hướng nghiên

cứu tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 11, 33-45.
5.

Nguyễn Công Đức (1995), Bình diện cấu trúc hình thái-ngữ nghĩa của

thành ngữ tiếng Việt, Luận án phó tiến sỹ khoa học, Viện Ngôn ngữ học.
6.

Nguyễn Thiện Giáp (2008), Từ vựng học tiếng Việt, Nhà xuất bản Giáo

dục.
7.

Hoàng Văn Hành (2004), Thành ngữ học tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa

học Xã hội.


8.

Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, Nhà xuất bản khoa học Xã hội.
9.


Lý Toàn Thắng (2009), Ngôn ngữ học tri nhận: Từ lý thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, Nhà xuất bản Phương Đông.
10.

Nguyễn Như Ý (1992), Bình diện văn hóa – ngôn ngữ của nghiên cứu

thành ngữ tiếng Việt, Văn hóa Dân gian, (3).
11.

Nguyễn Như Ý (2002), Thành ngữ tiếng Việt phổ thông, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia Hà Nội.
Tiếng Anh

12.

Boers, F. (2000), Metaphor awareness and vocabulary retention, Applied

linguistics, 21, 553-571.
13.

Boers, F., Demecheleer, M., & Eyckmans, J. (2004), Cross-cultural

variation as a variable in comprehending and remembering figurative idioms,
European Journal of English Studies, 8, 375-366.
14.

Ekman, P. (2003), Emotions revealed, Henry Holt and Company, New


York.
15.

Evans, V. (2007), A glossary of cognitive linguistics, Edinburgh University

Press.
16.

Fernando, C. (1996), Idioms and idiomaticity, Oxford University Press,

Oxford.
17.

Grant, L. E. & Bauer, L. (2004), Criteria for re-defining idioms: Are we

barking up the wrong tree? Applied Linguistics, 25, 38-61.
18.

Izard, C. E. (1982), The psychology of emotion comes of age on the

coattails of Darwin, Contemporary psychology, 27, 426-429.
19.

Katz, J. J. & Postal, P. (1963), The semantic interpretation of idioms and

sentences containing them, MIT research laboratory of Electronic quarterly
progress report, 70, 275-282.


20.


Lakoff, G. & Johnson, M. (1980), Metaphors we live by, The University of

Chicago Press, Chicago.
21.

Lakoff, G. (1987), Women, fire, and dangerous things: What categories

reveal about the mind, The University of Chicago Press, Chicago.
22.

Lakoff, G. & Turner, M. (1989). More than cool reason: A field guide to

poetic metaphor, The University of Chicago Press, Chicago.
23.

Makkai, A. (1972), Idiom structures in English, The Hague, the

Netherlands.
24.

Makkai, A. (2003), A dictionary of American idioms, The Barron’s, USA.

25.

Rosch, E. (1977), Human categorization, in Warren, Neil, ed., Advances in

Cross-Cultural Psychology, 1, 1-72. Academic Press.
26.


Talmy, L. (2001), Toward a cognitive semantics, volume 1: Concept

structuring systems, the MIT Press, Cambridge.
27.

Weinreich, U. (1969), Problems in the analysis of idioms, in J. Pulvel (Ed.),

Substance and structure of language, Berkeley, CA: University of California
Press..
28.

Wierzbicka, A. (1992), Semantics, Culture, and cognition, Oxford

University Press, Oxford.
29.

Wierzbicka, A. (1992), Defining emotion concepts, Cognitive Science, Vol.

16, 539-581.
30.

Wood, M. M. (1981), A definition of idiom, Bloomington, Indiana

University Linguistics Club.
!



×