Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

NHÓM PHỤ TỪ CHỈ SỰ TIẾP DIỄN ĐỒNG NHẤT TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ TRÊN BA BÌNH DIỆN KẾT HỌC, NGHĨA HỌC, DỤNG HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.6 KB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------------------------

NGƠ THỊ LANH

NHĨM PHỤ TỪ CHỈ SỰ TIẾP DIỄN ĐỒNG NHẤT
TRONG TIỂU THUYẾT SỐ ĐỎ TRÊN BA BÌNH DIỆN
KẾT HỌC, NGHĨA HỌC, DỤNG HỌC

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Bùi Minh Toán

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới
GS.TS Bùi Minh Tốn – người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ
em trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Em xin gửi lời tri ân tới các thầy cô giáo trong tổ Ngôn ngữ học, cùng
với các thầy cô giáo khoa Ngữ văn - trường Đại học sư phạm Hà Nội đã quan
tâm, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Cuối cùng, em xin cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thân yêu
đã ở bên cạnh ủng hộ, chia sẻ, cổ vũ và khích lệ em trong suốt q trình thực


hiện luận văn này.
Luận văn khơng tránh khỏi những sai sót, vì vậy em rất mong sự đóng
góp ý kiến của các thầy cơ giáo và các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 06 năm 2014
Tác giả

Ngô Thị Lanh


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Phân định vốn từ của một ngôn ngữ thành hai mảng lớn là thực từ và
hư từ là công việc hết sức phổ biến trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Đối
với tiếng Việt là loại hình ngơn ngữ đơn lập âm tiết tính với nhiều đặc điểm
ngữ pháp phức tạp, vì thế việc phân định chuẩn xác vốn từ tiếng Việt trở
thành mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ngơn ngữ. Có thể nói trong
tiếng Việt, hư từ nói chung và phụ từ nói riêng ln có một ý nghĩa quan
trọng. Phần lớn các phạm trù ngữ pháp đều được thể hiện thông qua ý nghĩa
và chức năng của hư từ.
Hư từ có vai trị quan trọng như vậy, nhưng hiện nay chưa có cơng
trình nào miêu tả một cách đầy đủ, hệ thống. Nhìn chung, các cơng trình bàn
về từ loại tiếng Việt đều đề cập đến nhóm từ này. Tuy nhiên, đó thường chỉ là
những nghiên cứu mang tính chất khái qt cho cả nhóm mà chưa đi sâu tìm
hiểu, miêu tả cụ thể của từng từ, từng nhóm từ. Nằm trong hệ thống hư từ là
nhóm phụ từ có ý nghĩa chỉ sự đồng nhất. Trong các sách về từ loại tiếng
Việt, ngữ pháp tiếng Việt thì nhóm phụ từ chỉ sự tiếp diễn đồng nhất này mới

chỉ được miêu tả với khái niệm chung chung hoặc mô tả về vị trí, cơng dụng
của từng phụ từ. Đặc biệt, nhóm phụ từ đồng nhất này cũng chưa có khái
niệm cụ thể, vị trí, chức năng, …và cũng chưa phải là nghiên cứu trên ba bình
diện (thường mới dừng ở bình diện kết học).
Khi xem xét nhóm phụ từ đồng nhất trên ba bình diện kết học, dụng
học và nghĩa học chúng tôi sẽ đề cập đến các vấn đề vừa thuộc phương diện lí
luận vừa thuộc phương diện thực tiễn vốn phức tạp, ví dụ: Lí thuyết ba bình
diện, nguyên tắc phân định từ loại, phân loại hư từ, phụ từ đồng nhất,… Do
đó, việc khảo sát đầy đủ nhóm phụ từ đồng nhất sẽ làm rõ hơn về ý nghĩa, nội
dung, vị trí,…của nhóm từ này. Đồng thời, đó cũng sẽ là những đóng góp

1


đáng kể trong việc giảng dạy ngữ pháp tiếng Việt nói riêng và biên soạn các
tài liệu ngữ pháp nói chung.
Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) là một trong những tác giả tiêu biểu,
đứng ở vị trí hàng đầu của trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam
trước cách mạng tháng Tám. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi nhưng ông
đã để lại một kho tàng tác phẩm đáng kinh ngạc cho nền văn học nước nhà:
hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản
dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số những bài viết phê bình, tranh luận văn
học và hàng trăm bài báo viết về vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Một số
đoạn trích tác phẩm của ông trong các tác phẩm “Số đỏ” và “Giông tố” đã
được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam. Có thể nói, Vũ
Trọng Phụng đã có những đóng góp to lớn từ về mặt nội dung đến nghệ thuật.
Đặc biệt, ngôn ngữ nghệ thuật của ông luôn thể hiện sự sáng tạo, phong phú
sinh động, góc cạnh và đầy cá tính. Đó là ngơn ngữ vừa gai góc, sắc nhọn,
vừa mỉa mai, chua chát. Tất cả đều thể hiện thái độ căm phẫn của tác giả và
phô bày bản chất xã hội thối nát, lên án những mặt trái của xã hội.

Vì những lí do trên, chúng tơi quyết định chọn vấn đề: “Nhóm phụ từ
tiếp diễn đồng nhất trong tiểu thuyết Số đỏ trên ba bình diện kết học, nghĩa
học và dụng học” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
II. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn cao học, nhiệm vụ của luận văn là:
- Tìm hiểu khái quát lí thuyết về từ loại tiếng Việt và nhóm phụ từ có ý
nghĩa đồng nhất.
- Tìm hiểu lý thuyết ba bình diện trong ngơn ngữ học.
- Khảo sát nhóm phụ từ đồng nhất trong tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ
Trọng Phụng.

2


- Chỉ ra đặc điểm của nhóm phụ từ tiếp diễn đồng nhất trong tiểu thuyết
Số đỏ trên ba bình diện kết học, nghĩa học và dụng hoc.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các phụ từ có ý nghĩa đồng nhất
(cũng, còn, lại, vẫn, cứ, đều) trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
2. Phạm vi nghiên cứu
Chỉ nghiên cứu nhóm phụ từ chỉ sự tiếp diễn đồng nhất khơng nghiên
cứu các nhóm từ khác.
Tư liệu khảo sát
Tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng
IV. Lịch sử vấn đề
1. Lịch sử nghiên cứu về nhóm phụ từ tiếp diễn đồng nhất
Cho đến nay, hư từ tiếng Việt nói chung và nhóm phụ từ tiếp diên đồng
nhất nói riêng chưa được miêu tả đầy đủ, hệ thống, nhất là nhóm phụ từ có ý
nghĩa đồng nhất chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên

biệt cả về số lượng, và cả về đặc điểm ngữ pháp, ý nghĩa,…
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu ngơn ngữ đã có đề cập đến nhóm từ có
ý nghĩa đồng nhất này nhưng mới chỉ ở mức độ chung chung, khái quát của
cả nhóm mà chưa đi sâu vào nghiên cứu từng từ với vị trí, ý nghĩa,… cụ thể.
Các từ cũng, còn, lại, vẫn, cứ, đều đã xuất hiện trong nhiều cuốn từ
điển. Chúng tôi đã nghiên cứu trên các cuốn Từ điển tiếng Việt (2008), Hoàng
Phê; Từ điển tiếng Việt (1999), Nguyễn Văn Đạm, Từ điển từ và ngữ Việt Nam
(2000), Nguyễn Lân; Từ điển tiếng Việt thông dụng (1999), Nguyễn Như Ý; Từ
điển công cụ tiếng Việt (1998), Đỗ Thanh. Các tác giả đã đều chỉ ra vai trò từ
loại và ý nghĩa các từ cũng, còn, lại, vẫn, cứ, đều. Về cơ bản, sáu từ này đều

3


được các tác giả thống nhất với vai trò là loại phụ từ, ngồi ra cịn có các từ đồng
âm danh từ (cứ), động từ (cịn, lại), tính từ (đều), quan hệ từ (cịn).
Trong các cơng trình nghiên cứu và nhóm từ này phải kể đến đầu tiên
là cuốn Ngữ pháp tiếng Việt giảng dạy cho sinh viên năm thứ 2 và thứ 3
chuyên ngành ngôn ngữ học NXB – ĐHTH 1967 của tác giả Đinh Văn Đức
đã đề cập đến nhóm từ này với ý nghĩa các từ chỉ khả năng diễn tiến của hoạt
động. Các từ này có ý nghĩa tình thái, và một số trong chúng cịn tham gia
tăng cường vào hoạt động ngôn trung của động từ vị ngữ : cũng, đều, cứ,
vẫn. Tác giả cũng đề cập về khả năng kết hợp với nhau trong nhóm của các
phụ từ có ý nghĩa đồng nhất.
Tiếp theo phải kể đến là cuốn Ngữ pháp tiếng Việt – Tiếng – Từ ghép –
Đoản ngữ (1975) của Nguyễn Tài Cẩn NXB ĐH và THCN - HN. Tác giả đã
đề cập đến vị trí của phần đầu đoản ngữ của nhóm phụ từ có ý nghĩa đồng
nhất và điểm qua khả năng kết hợp với một số từ ngồi nhóm như đã, đang,
sẽ. Tác giả đã chỉ ra “ mối quan hệ giữa cứ, đang, cũng, vẫn có lẽ là một mối
quan hệ phức tạp, vừa có tính cách cú pháp, vừa có tính cách từ pháp, vừa có

tính chất chính phụ vừa có nét tiếp cận với quan hệ bình đẳng…”
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, từ loại (1986), tác giả Đinh Văn Đức
đã đề cập đến nhóm phụ từ này như sau: “Đây là các từ chỉ ra khả năng diễn
tiến của hoạt động. Các phụ từ này có ý nghĩa tình thái, một số trong chúng
cịn tham gia tăng cường vào ngôn trung của động từ vị ngữ: cũng, vẫn, cứ,
đều.” Và tác giả cũng đề cập khả năng kết hợp với nhau trong nhóm các phụ
từ có ý nghĩa chỉ sự đồng nhất này.
Tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại (1993) đã đề cập
đến khả năng kết hợp của những từ trong nội bộ nhóm. Tuy nhiên, đó mới chỉ
dừng lại ở việc nêu ra mà chưa đi sâu vào chi tiết. Đồng thời, tác giả cũng đã
nêu lên vai trò của nhóm từ này với tư cách là thành tố phụ trước động từ.

4


Tiếp đến là cơng trình nghiên cứu Ngữ pháp tiếng Việt (1993) của Diệp
Quang Ban và Hoàng Văn Thung cũng đã đề cập đến nhóm phụ từ có ý nghĩa
đồng nhất này. Các tác giả đã khẳng định: “ Đây là nhóm phụ từ chỉ sự so
sánh và phụ từ chỉ sự tiếp diễn”. Sau đó, tác giả lấy ví dụ cho mỗi phụ từ
trong nhóm. Trong khi lí giải về nhóm phụ từ này, với mục đích phân loại và
miêu tả, tác giả đặt ra cách hiểu về nhóm phụ từ này : “Phụ từ so sánh biểu
thị ý nghĩa về quan hệ, so sánh có tính chất đồng nhất giữa q trình hay đặc
trưng với hồn cảnh khơng gian, thời gian nhất định. Phụ từ chỉ tiếp diễn
tương tự biểu thị quá trình đặc trưng kéo dài, liên tục hoặc lặp lại trên cơ sở
đồng nhất.”
Tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, NXB
GD – HN (1998), cũng đã đề cập đến nhóm phụ từ này với vai trò phụ trước
cho động từ. Bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ ra ý nghĩa cơ bản của một số từ
trong nhóm này, chỉ ra một số kết hợp giữa các từ trong nội bộ nhóm của các
phụ từ có ý nghĩa đồng nhất.

Trong cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB GD (2000), của Nguyễn
Thiện Giáp chủ biên, Nguyễn Minh Thuyết đã chỉ ra các phụ từ cũng, đều,
vẫn, cứ,… là: “Phó thuật từ chỉ sự tiếp diễn tương tự chuyên làm thành tố
phụ cho các cụm động từ và tính từ”.
Tiếp đến là cuốn Đại cương ngôn ngữ học, tập 1 (2001), Đỗ Hữu Châu
và Bùi Minh Tốn cũng đề cập tới nhóm từ này như sau: Đây là các hư từ đi
kèm với động từ hoặc tính từ tiếng Việt để chỉ sự tiếp diễn đồng nhất: cũng,
cịn, lại, vẫn, cứ, đều
Trong cơng trình luận văn thạc sĩ Nhóm phụ từ có ý nghĩa đồng nhất
(2003), Bùi Thị Trúc Quỳnh đã có những bước đầu tiên nghiên cứu khái qt
về nhóm từ, tìm hiểu vai trò, khả năng kết hợp của các từ cũng, còn, lại, vẫn,
cứ, đều.

5


Tiếp đến là luận văn thạc sĩ Đồng nghĩa của hư từ tiếng Việt (2004) của
Nguyễn Thị Hồng Vân, tác giả có nhắc tới nhóm từ này: “Đây là nhóm phụ
từ so sánh biểu thị ý nghĩa về quan hệ so sánh có tính chất đồng nhất giữa
q trình hay đặc trưng với hồn cảnh khơng gian và thời gian nhất định. Có
thể nói trong các nhóm phụ từ đồng nghĩa tiếng Việt thì nhóm này có nhiều
nét nghĩa giống nhau hơn cả…”
Gần đây là luận án tiến sĩ của Bùi Thanh Hoa Đồng nghĩa của hư từ
tiếng Việt (2012), tác giả trong quá trình nghiên cứu về hư từ đã nhắc đến
nhóm phụ từ đồng nhất hết sức ngắn gọn, khái quát được vị trí của phụ từ
đồng nhất đứng trước biểu thức ngôn ngữ chứa nội dung đồng nhất.
Mới nhất là bài nghiên cứu của tác giả Bùi Minh Toán, tuy giới hạn ở 3
từ đều, vẫn, cũng nhưng khảo sát chúng trên ba bình diện và chỉ ra sự đồng
nhất và khác biệt của 3 từ trên trong tiếng Việt (Tạp chí Từ điển học và Bách
khoa thư số 5/2015).

Có thể thấy, hầu hết các cơng trình mới chỉ đề cập đến nhóm phụ từ
đồng nhất một cách đơn lẻ từng từ mà chưa tập trung vào đặc trưng của cả
nhóm từ chỉ ý nghĩa tiếp diễn đồng nhất. Hơn nữa, các cơng trình này phần
lớn cũng mới chỉ đi vào bình diện kết học mà chưa đi khai thác nhóm từ này
trên bình diện nghĩa học và dụng học. Mặc dù vậy, chúng tôi luôn coi ý kiến
của các tác giả như trên là những gợi ý quý báu cho luận văn này để xem xét
nhóm phụ từ trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng.
2. Lịch sử nghiên cứu tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu dành bút mực cho việc nghiên cứu về
Vũ Trọng Phụng nói chung và tác phẩm Số đỏ nói riêng. Càng đi sâu tìm
hiểu, chúng ta càng thấy cái hay, cái đặc sắc của Số đỏ cả về mặt nội dung
hay hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ. Tháng 7 năm 1989 nhà nghiên cứu Phan
Cự Đệ đã viết bài Đánh giá lại Số đỏ trên báo Giáo viên nhân dân. Trong tạp

6


chí Văn học số 2 – 1990, Hồng Ngọc Hiến đã viết bài Trào Phúng của Vũ
Trọng Phụng trong Số đỏ. Hay nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên đã đăng
bài Vũ Trọng Phụng và Số đỏ trên báo Văn nghệ số 50 - 1991. Để nói về sự
phá cách trong nghệ thuật sử dụng ngơn ngữ có bài của Võ Thị Quỳnh Số đỏ
và sự phá sản của ngôn ngữ trong tạp chí Sơng Hương, số 6 - 1994… Tuy
nhiên, chưa có nhà nghiên cứu nào đi sâu khảo sát nghiên cứu về nhóm phụ từ
đồng nhất trong tiểu thuyết “Số đỏ”.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện thành công đề tài, luận văn sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, miêu tả ngơn ngữ.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành.
- Thủ pháp thống kê phân loại.
- Phương pháp so sánh.

- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp phân tích vị từ tham thể.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, ngữ cảnh các phát ngơn.
VI. Những đóng góp của luận văn
1. Về mặt lí luận
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn
trình bày khá rõ ràng những vấn đề lí luận như: khái qt về ba bình diện
nghiên cứu ngôn ngữ: kết học, nghĩa học và dụng học; vấn đề từ loại tiếng
Việt: sự phân định từ loại, hư từ tiếng Việt, phụ từ tiếng Việt và phụ từ chỉ sự
tiếp diễn đồng nhất trong tiếng Việt.
2. Về mặt thực tiễn
- Phân tích và chỉ ra đặc điểm của nhóm phụ từ chỉ sự tiếp diễn đồng
nhất trong tiểu thuyết “Số đỏ” trên bình diện: nghĩa học và dụng học.
- Giúp cho việc lĩnh hội cái hay, cái đẹp về nhóm phụ từ chỉ sự tiếp

7


diễn đồng nhất trong tiếng Việt.
- Giúp cho việc giảng dạy và học tập tiếng Việt cũng như công tác giải
thích, biên soạn từ điển, sách cơng cụ,…
VII. Cấu trúc luận văn
Luận văn, ngoài phần Mở đầu và Kết luận, gồm 3 chương:
Chương 1. Những cơ sở lí thuyết
Chương 2: Nhóm từ cũng, cịn, lại, vẫn, cứ, đều trong tiểu thuyết “Số đỏ”
trên bình diện kết học
Chương 3: Nhóm phụ từ cũng, còn, lại, vẫn, cứ, đều trong tiểu thuyết “Số
đỏ” trên bình diện nghĩa học và dụng học

8



Chương 1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Ba bình diện nghiên cứu ngơn ngữ: kết học, nghĩa học, dụng học
Lí thuyết ba bình diện là cách tiếp cận mới mẻ của ngôn ngữ học đối với
các đơn vị ngôn ngữ trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa học và dụng học. Trước
đây các nhà ngôn ngữ học thiên về nghiên cứu các đơn vị ngơn ngữ trên bình
diện ngữ pháp, tức là mối quan hệ giữa tín hiệu với tín hiệu trong hệ thống.
Nghĩa là ngữ pháp truyền thống chỉ quan tâm đến mặt hình thức của ngơn ngữ
cịn lí thuyết ba bình diện nghiên cứu cả về hình thức, nội dung và ý nghĩa.
1.1.1. Bình diện kết học (bình diện ngữ pháp)
Là bình diện nghiên cứu những khái niệm được xác định bằng những
tiêu chuẩn hình thức thuần tuý. Đó là những cách thức và quy tắc kết hợp các
từ ngữ để tạo nên cụm từ (cú pháp cụm từ) và các thành phần câu, các đặc
điểm và chức năng của thành phần câu, các kiểu cấu trúc câu (cú pháp câu)
với mơ hình cấu trúc của chúng.
Các vấn đề cần nghiên cứu thuộc bình diện này là:
- Từ pháp học: chuyên nghiên cứu từ và các đơn vị tương đương (ngữ
cố định).
- Cú pháp cụm từ: nghiên cứu cấu tạo ngữ pháp của các loại cụm từ,
đặc biệt là cụm từ chính phụ.
- Cú pháp câu: nghiên cứu đặc điểm, chức năng của các thành phần câu
(như chủ ngữ, vị ngữ, các thành phần phụ của câu), cấu tạo của các kiểu câu
theo kết cấu C- V, và các kiểu câu theo mục đích nói.
1.1.2. Bình diện nghĩa học (bình diện ngữ nghĩa)
Đây là một trong ba bình diện quan trọng khi nhìn nhận nghiên cứu về
câu. Bình diện nghĩa học nghiên cứu về các mối quan hệ giữa các hình thái
ngơn ngữ với thực thể trong thế giới đó là làm thế nào các từ gắn kết đúng

9



được các sự vật. Theo tác giả Diệp Quang Ban trong cuốn Ngữ pháp tiếng
Việt thì “nghĩa học là bộ môn nghiên cứu về ý nghĩa và ý nghĩa được hiểu là
cái gì ở giữa các từ, các câu này diễn tả; nghĩa học cũng một phần nghiên
cứu mối quan hệ giữa các câu xét ở mặt âm thanh và các vật, việc, hiện tượng
có liên quan mà các câu biểu hiện” [8,51].
Thuộc về bình diện nghĩa của câu gồm có nghĩa biểu hiện và nghĩa
tình thái.
1.1.2.1 Nghĩa biểu hiện (nghĩa miêu tả, nghĩa mệnh đề, nghĩa quan niệm,…)
của câu.
a. Khái niệm
Nghĩa biểu hiện của câu: “là thành phần nghĩa phản ánh sự tình xảy ra
trong thực tế (sự tình chỉ hoạt động, tính chất, đặc điểm, trạng thái, quan hệ,
…)”
Ví dụ: Nó cũng là một sinh viên.
Ở đây có một quan hệ đồng nhất đó là quan hệ của một sinh viên (thành
phần vị ngữ - Nội dung thông báo) và nó hay nói cách khác ở đây có sự đồng
nhất về đặc trưng là sinh viên giữa nó và một người nào đó.
Nghĩa biểu hiện của câu: “là thành tố nghĩa phản ánh vật, việc, hiện
tượng được nói đến trong câu. Sự phản ánh này không phải theo kiểu hình
chiếu qua gương soi, mà phản ánh qua nhận thức của con người, chịu sự chi
phối của kinh nghiệm ở con người và sự chi phối của lơgic (tính hợp lí được
thừa nhận). Nói cách khác trong nghĩa miêu tả có một phần những yếu tố
thuộc kinh nghiệm và yếu tố thuộc logíc.” [10, 184]
Theo tác giả Nguyễn Thị Lương trong cuốn Câu tiếng Việt: “Nghĩa
miêu tả của câu là nghĩa biểu thị sự vật, việc, hiện tượng (gọi chung là sự
tình) trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong câu, qua lăng kính
chủ quan của người nói (viết)…”
10



b. Cấu trúc vị tố - tham thể
Cấu trúc vị tố - tham thể là một cấu trúc nghĩa được dùng để biểu thị
nghĩa miêu tả của câu. Để hiểu được nghĩa của câu thì việc xem xét cấu trúc
vị tố - tham thể là cần thiết. Đối với cấu trúc vị tố - tham thể chúng ta cần tìm
hiểu ba yếu tố sau: vị tố, tham thể và sự tình.
Vị tố (vị từ) là yếu tố chính của câu, vị tố nêu đặc trưng hoặc quan hệ
của sự thể được nói đến trong câu. Trong tiếng Việt, vị tố thường do động từ,
tính từ hay các từ chỉ quan hệ đảm nhiệm. Về mặt nghĩa, vị tố chi phối các
chức năng chủ ngữ, tân ngữ, tân ngữ gián tiếp, bổ ngữ.
Tham thể
Tham thể là những thực thể tham gia vào sự thể như là một bộ phận cần
thiết của sự thể, bộ phận nằm trong sự thể.
Tham thể được chia làm hai loại là tham thể bắt buộc và tham thể
không bắt buộc. Tham thể bắt buộc là tham thể mà sự hiện diện của nó do nội
dung ý nghĩa của vị tố trong cấu trúc nghĩa đòi hỏi. Tham thể không bắt buộc
là tham thể mà sự xuất hiện của nó nhằm bổ sung thêm một phương diện
nghĩa nào đó cho cấu trúc vị tố - tham thể. Nó khơng do bản chất của vị tố
quy định.
Hiện nay về tên gọi các tham thể vẫn chưa được thống nhất giữa các
nhà ngôn ngữ học, song những tham thể bắt buộc thường được gọi tên theo
chức năng nghĩa (vai nghĩa) mà vị từ ấn định cho nó trong cấu trúc. Tác giả
Diệp Quang Ban gọi là: động thể, đương thể, cảm thể, phát ngơn thể, đích
thể, tiếp thể,… Cao Xuân Hạo gọi bằng các tên: vai tác thể, vai hành thể, vai
đương thể, vai đối thể, vai đích. Nguyễn Thị Lương thì gọi rõ hơn: tham thể
chỉ đích, tham thể chỉ đối thể chịu tác động của hành động, tham thể chỉ chủ
thể cầu khiến, các tham thể chủ thể trao nhận, tiếp thể, vật được trao nhận,
các tham thể chủ thể hủy diệt, đối thể bị hủy diệt. Các tham thể mở rộng do


11


không chịu sự chi phối trực tiếp của vị tố nên thường được gọi bằng chính
nghĩa mà nó biểu thị. Cao Xuân Hạo gọi là vai phương thức, vai phương tiện,
vai kết quả, vai lối đi,… Diệp Quang Ban gọi là cảnh huống thời gian, không
gian, nguyên nhân, điều kiện, mục đích, kết quả, đường đi, nghịch đối,…
Sự phân chia tham thể bắt buộc hay không bắt buộc chỉ mang tính chất
tương đối. Một tham thể gọi là bắt buộc trong hồn cảnh này có thể là tham
thể mở rộng trong hoàn cảnh khác nhau.
c. Cấu trúc: đặc trưng / quan hệ/ vai nghĩa
Sự tình phản ánh trong câu có thể là sự việc nêu đặc trưng hoặc sự việc
chỉ quan hệ.
Cấu trúc: Đặc trưng/ Quan hệ - Vai nghĩa là cấu trúc nghĩa của sự việc.
Cấu trúc nghĩa của sự việc bao gồm đặc trưng hoặc quan hệ có tính động, hay
có tính tĩnh, và các thực thể tham gia vào các đặc trưng quan hệ đó, được gọi
chung là vai nghĩa. Những tên gọi đặc trưng hoặc có quan hệ và vai nghĩa là
những tên gọi các yếu tố ở mặt nghĩa của sự việc được phản ánh.
Cần phân biệt mặt nghĩa của sự việc với mặt cú pháp của các yếu tố
ngôn ngữ diễn đạt sự việc. Khi dùng ngôn ngữ để diễn đạt một sự việc thì các
đặc trưng hoặc quan hệ của sự việc được diễn đạt bằng động từ, hoặc bằng
tình từ, hoặc bằng quan hệ từ, hoặc có khi là danh từ; những từ này về mặt cú
pháp được gọi bằng tên gọi là vị tố. Các thực thể tham gia vào sự việc được
diễn đạt trước hết bằng các danh từ và tên gọi cú pháp của chúng là chủ ngữ,
tân ngữ, hoặc bổ ngữ (các loại). Như vậy là các tên gọi vị ngữ, tân ngữ, bổ
ngữ là các tên gọi thuộc cú pháp, không phải thuộc về nghĩa.
Khi xem xét nghĩa miêu tả của câu là xem xét phần nghĩa phản ánh vật,
việc, hiện tượng được nói đến trong câu, hay gọi chung là sự việc. Phân tích
nghĩa của sự việc là chỉ ra phần đặc trưng/ quan hệ của sự việc và các thực thể
tham gia sự việc.


12


- Số lượng các tham tố là khác nhau trong các sự tình khác nhau. Khi
được biểu hiện thành câu thì cấu trúc vị từ tham tố được tuyến tính hóa, diễn
đạt thành chuỗi. Tuyến tính hóa đó là đặc điểm của ngôn ngữ, nghĩa là các
tham tố khi được phản ánh vào câu phải được sắp xếp theo một vị trí nhất
định và một trật tự nhằm phục vụ nhu cầu thơng báo.
Khi chuyển thành câu thì các tham tố sẽ lựa chọn để biểu hiện khác
nhau, có thể được biểu hiện mà cũng có thể khơng được biểu hiện trong câu.
Khi phản ánh vào trong câu không nhất thiết phải có đầy đủ các tham tố, chỉ
cần 1 hoặc 2, thậm chí khơng có.
Tùy vào hồn cảnh giao tiếp mà người nói lựa chọn tham tố vào trong
vai trò các thành phần câu khác nhau (thành phần ngữ pháp). Đây là một
nguyên tắc chung. Tham tố của sự tình là cơ sở của các thành phần ngữ pháp
của câu, nhưng không đồng nhất với thành phần ngữ pháp. Ngược lại, có
những thành phần ngữ pháp của câu khơng tương ứng với một tham tố nào cả.
Thành phần chuyển tiếp “vả lại, tóm lại,…”. Thành phần tình thái là những
thành phần của câu không tương ứng với một tham tố nào. Do đó, chúng ta cần
lưu ý khi xác định tham tố của sự tình và các thành phần ngữ pháp của câu.
1.1.2.2. Nghĩa tình thái
Là thành phần nghĩa quan trọng nhưng rất phức tạp của câu. Có thể nói
tình thái là linh hồn của câu, câu sẽ khơng có giá trị phát ngơn nếu trong đó
khơng phát hiện được một biểu hiện tình thái nào. Phức tạp bởi nghĩa tình thái
rất rộng và rất tinh tế, khơng có phương tiện thể hiện cụ thể như nghĩa biểu
hiện nên rất khó nắm bắt. Nghĩa tình thái là thái độ hay quan hệ giữa người
nói với người nghe; thái độ hay quan hệ giữa người nói với nội dung sự tình
được phản ánh vào trong câu.
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, NXBGD năm 2000, tác giả Diệp

Quang Ban đã phân biệt tình thái của hành động nói và tình thái của phát ngôn.

13


- Tình thái của hành động nói là ý định (ý chí, ý muốn, cịn gọi là cái
đích, mục đích) của người nói trong việc thực hiện một hành động nào đó khi
nói, hay nói cách khác, trong việc thực hiện một hành động nào đó bằng
(phương tiện) ngơn ngữ. Hành động nói rất phong phú nên tình thái của hành
động nói cũng rất phong phú. Tuy nhiên, về cơ bản thì hành động nói có thể
được phân biệt với ba trường hợp sau:
Dùng câu ngôn hành: tức là người nói sử dụng những động từ có nội
dung chỉ hành động nói cần được thực hiện và sử dụng nó ở ngơi thứ nhất,
trong câu nói khơng có dấu hiệu thời gian quá khứ hoặc tương lai đối với
hành động đó.
Dùng câu phân loại theo mục đích nói theo lối trực tiếp: tức là người
nói có thể sử dung kiểu câu phân loại theo mục đích nói đúng theo mục đích
nói vốn có của nó tức là ở dạng ngun cấp của nó.
Dùng câu phân loại theo mục đích nói theo lối gián tiếp: tức là người
nói khơng nói rõ ý ra ý định của việc thực hiện hành động nói của mình,
người nghe phải tự suy ra ý định đó từ lời của người nói.
- Tình thái của phát ngôn là chỉ quan hệ, thái độ, cách đánh giá của
người nói đối với cái được nói đến trong câu (tức là đối với phần nghĩa miêu
tả của câu). Tình thái phát ngơn gồm có:
Tình thái khách quan là thứ tình thái có thể kiểm tra được tính đúng sai.
Và tình thái khách quan được phân biệt thành tình thái khẳng định và tình thái
phủ định.
Tình thái chủ quan chỉ thái độ, cách đánh giá của người nói đói với vật,
việc, hiện tượng được nói đến. Tình thái chủ quan là thứ tình thái khơng thể
kiểm tra được tính đúng hay sai.

1.1.3. Bình diện dụng học
Theo tác giả Nguyễn Thị Lương thì cho rằng : “Bình diện này nghiên
cứu mối quan hệ giữa câu với người sử dụng, giữa câu với việc sử sụng câu

14


trong một tình huống giao tiếp cụ thể nhằm phát hiện những ý nghĩa của câu
– phát ngơn trong tình huống cụ thể đó” [29, 24]. Hay chúng ta có thể hiểu
bình diện này nghiên cứu mối quan hệ giữa câu với người sử dụng, giữa câu
với việc sử dụng câu trong một tình huống giao tiếp cụ thể nhằm phát hiện
những ý nghĩa của câu – phát ngôn trong tình huống cụ thể đó (gọi là nghĩa
ngữ dụng của câu). Như vậy, nghĩa ngữ dụng là cái đích cuối cùng của tồn
bộ ngơn ngữ. Trong khi nghĩa học tập trung vào nghĩa có được thuần túy từ
kiến thức ngơn ngữ thì dụng học tập trung vào những lĩnh vực nghĩa mà kiến
thức ngôn ngữ không đưa ra được, những lĩnh vực nghĩa này bao gồm cả
những kiến thức về thế giới vật chất cũng như tinh thần. Trọng tâm phân tích
của ngữ dụng học là nghĩa của các phát ngơn của người nói hơn là nghĩa của
các từ và câu.
1.1.3.1. Lập luận
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu “lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn
dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà
người nói muốn đạt tới” [6, 155]
Đỗ Việt Hùng có quan điểm tương đồng với Đỗ Hữu Châu. Theo tác
giả này “Lập luận là đưa ra những lí lẽ (được gọi là luận cứ trong lập luận)
nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận nào đó mà người nói muốn đạt
tới” [28,532]
Như vậy, dù các cách diễn đạt khác nhau nhưng các khái niệm của các
nhà nghiên cứu ngôn ngữ nêu lên đều đã chỉ ra bản chất của lập luận là đưa ra
những luận cứ (dẫn chứng và lí lẽ) để hướng người đọc, người nghe tới một

kết luận nào đó. Dẫn chứng giúp chúng ta tin, lí lẽ để cho chúng ta hiểu, khi
đã tin và đã hiểu thì sẽ bị thuyết phục, lúc đó lập luận thành cơng.
Trong lập luận thường sẽ có hai yếu tố cơ bản là lí lẽ (luận cứ) và kết
luận, hai yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta có thể biểu
diễn theo cấu trúc sau:

15


p, q ---→ r
p, q là các luận cứ, r là kết luận. Ví dụ:
(1) Con mèo này màu đen (p) nên rất dễ sợ (r).
Cấu tạo của lập luận
Một lập luận đầy đủ có hai phần: luận cứ và kết luận
Luận cứ là những căn cứ để từ đó kết luận được rút ra. Luận cứ có hai loại:
- Luận cứ là bằng chứng (vật chứng, nhân chứng).
- Luận cứ là lí lẽ (là điều suy luận hay một luận điểm, một nguyên tắc
đã được chứng minh).
Luận cứ có thể là những chân lí khoa học (định lí, định luật, chân lí,…)
tức là những luận cứ đã được chứng minh và được đánh giá theo tiêu chuẩn
đúng – sai của loogic học. Các tiền đề này phải tuân theo những thao tác suy
diễn loogic chặt chẽ để rút ra kết luận. Nếu tiền đề đúng và các thao tác suy ý
đúng thì kết luận sẽ đúng. Ngược lại, nếu tiền đề sai thì sẽ rút ra các kết luận sai.
Luận cứ cũng có thể là những lẽ thường. Lẽ thường là những quan
điểm, tập tục riêng của một dân tộc, một cộng đồng, thậm chí một nhóm
người nào đó trong xã hội. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng có những lẽ thường
riêng, có thể phi lí với dân tộc này, cộng đồng này nhưng lại hợp lí với dân
tộc khác, cộng đồng khác. Tính đúng sai của lẽ thường luôn thay đổi theo
không gian và theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Kết luận là mệnh đề hay lí thuyết được chứng minh bằng các luận cứ.

Kết luận được rút ra trên cơ sở những luận cứ nhất định. Kết luận mà khơng
có luận cứ khơng mang tính chất thuyết phục với người tiếp nhận.
Chỉ dẫn lập luận
Chỉ dẫn lập luận là những phương tiện ngôn ngữ được dùng để làm rõ
hướng lập luận của luận cứ và để nối kết các thành phần trong lập luận. Có
hai loại chỉ dẫn lập luận là tác tử lập luận và kết tử lập luận.
- Tác tử lập luận là yếu tố khi được đưa vào một nội dung miêu tả nào

16


đấy sẽ làm thay đổi tiềm năng lập luận của nó, độc lập với thơng tin miêu tả
vốn có của nó.
- Kết tử lập luận là những yếu tố (như các liên từ đẳng lập, liên từ phụ
thuộc, các trạng từ và các trạng ngữ,…) phối hợp hai hoặc một số phát ngôn
thành một lập luận duy nhất. Nhờ kết tử mà các phát ngôn trở thành luận cứ
hay kết luận của một lập luận.
Căn cứ vào vị trí của các kết tử trong lập luận mà có kết tử đánh dấu
luận cứ (chuyên đứng trước các luận cứ) và các kết tử đánh dấu kết luận
(chuyên đứng trước kết luận).
Căn cứ vào số lượng tối thiểu các luận cứ phải có trong lập luận khi sử
dụng kết tử lập luận mà kết tử được chia thành kết tử hai vị trí (địi hỏi tối
thiểu phải có một luận cứ và kết luận) và kết tử ba vị trí (địi hỏi tối thiểu phải
có hai luận cứ và kết luận).
1.1.3.2. Cấu trúc tin
Cấu trúc tin trong câu chúng ta lưu ý đến tin “cũ”, tin “mới và tiêu
điểm. Tin “cũ” là phần tin đã biết trong câu hoặc chúng ta cũng dễ dàng nhận
thấy trong câu, tin “mới” là phần tin chưa biết. Ví dụ:
- Ai vẽ bức tranh này? (Trong câu hỏi này không chứa tin mới, trừ từ ai
là từ chỉ điểm hỏi, các từ còn lại đều chỉ cái đã biết.)

Câu hỏi này có thể được trả lời bằng các câu sau đây chẳng hạn, trong
đó có phần tin mới (được in đậm).
- Ông Giáp vẽ bức tranh ấy đấy.
- Bức tranh ấy do ông Giáp vẽ.
- Ông Giáp là người vẽ bức tranh ấy đấy.
- Ông Giáp.
Như vậy có thể thấy trong các câu trả lời, tin mới có thể nằm ở phần
thuyết mà cũng có thể nằm ở phần đề.
Trong cấu trúc tin chúng ta cần chú ý đến tiêu điểm, hay còn gọi là

17


điểm nhấn, là nơi tập trung chú ý của người tạo lời (người nói, người viết)
nhằm làm cho người nghe hiểu đúng. Tiêu điểm có khi được đánh dấu bằng
cách nào đó, cũng có khi được nhận ra trong tình huống giao tiếp cụ thể.
Ví dụ trong câu Ai vẽ bức tranh này? Không chứa tin mới nhưng tiêu
điểu chúng ta thấy rất rõ đó là đại từ nghi vấn ai?
Theo đó chúng ta thấy các câu trả lời có tiêu điểm chung là ông Giáp,
và trong các câu trả lời đều có tin mới – đó là ơng Giáp, tức là tin mới và tiêu
điểm trong trường hợp này cùng được diễn đạt dưới một yếu tố ngôn ngữ.
Để xác định được tin mới, tiêu điểm chúng ta cần căn cứ vào nhiều yếu
tố, giọng điệu, ngữ điệu, cách sử dụng từ ngữ, cảnh huống,…
1.1.3.3. Nghĩa hàm ẩn
a. Tiền giả định
Tiền giả định là khái niệm được dùng nhiều trong nghiên cứu về ngữ
nghĩa và về cú pháp. Nó được các nhà ngôn ngữ học thế giới và Việt Nam
quan tâm rất nhiều.
Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt NXBGD, 2000, theo tác giả Diệp
Quang Ban tiền giả định “là cái mà người nói cho là đúng trước khi nói ra

một phát ngôn”. Tác giả Đỗ Hữu Châu cũng đã nêu “tiền giả định là những
hiểu biết được xem là bất tất phải bàn cãi, bất tất phải đặt lại thành vấn đề,
đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào chúng mà
người nói tạo nên ý nghĩa tường mình trong phát ngơn của mình [19; 366].
Hoặc theo Đỗ Việt Hùng “ tiền giả định là những căn cứ cần thiết để người
nói tạo lập ra ý nghĩa tường minh trong phát ngơn của mình” [ 28.253]
Ví dụ
Anh Hưng bỏ thuốc lá rồi.
Phát ngơn trên có tiền giả định:
Có anh tên là Hưng

18


Anh Hưng trước đây hút thuốc lá (nghiện thuốc lá).
Theo tác giả Nguyễn Đức Dân, có hai loại tiền giả định: tiền giả định
ngữ nghĩa và tiền giả định ngữ dụng.
- Tiền giả định ngữ nghĩa
Tiền giả định ngữ nghĩa được định nghĩa như sau: “ câu A có tiền giả
định B, nếu có giá trị đúng của B là điều kiện cần cho A có giá trị đúng hoặc
sai” [40, 195]
A có tiền giả định là B được ký hiệu như sau: A…--> B được biểu thị
như bảng sau:
A… B
đ

đ

s


đ

Khái quát: Quan hệ giá trị chân lý giữa câu A và tiền giả định B của nó là:
dù A có giá trị đúng hay sai thì tiền giả định B của nó ln ln có giá trị đúng.
- Tiền giả định ngữ dụng
Tiền giả định ngữ dụng được định nghĩa như sau: A có một tiền giả
định ngữ dụng là B nếu: a; Khi phát ngơn A thì người nói đã giả định là B và
tin rằng người nghe cũng nghĩ là B. b; B đã được chấp nhận [40, 197]
Như vậy, tiền giả định ngữ dụng là cái nền cho cuộc hội thoại được tiến
hành một cách bình thường và câu nói được chấp nhận. Tiền giả định nghĩa là
điều kiện của phát ngôn, đảm bảo cho phát ngơn đó ln đúng và chuẩn trong
văn bản. Sự phù hợp ngữ nghĩa giữa các phát ngơn quyết định tính liên kết,
đồng nhất giữa chúng. Sự phù hợp này lại do tiền giả định của các phát ngôn
quy định. Hai phát ngôn phù hợp với nhau về mặt ngữ nghĩa khi và chỉ khi
tiền giả định của chúng không đối lập nhau mà có điểm chung.
b. Nghĩa hàm ngơn
Là loại nghĩa không thể nhận diện trực tiếp từ câu chữ mà phải suy ra
từ nghĩa tường minh, tiền giả định và ngữ cảnh.

19


Để nhận diện được nghĩa hàm ngôn chúng ta cần phải căn cứ vào nhiều
yếu tố. Trước hết là hoàn cảnh giao tiếp, chúng ta có thể hiểu đó là bối cảnh
chung mà ở đó câu nói được phát ra. Hồn cảnh giao tiếp có thể là các yếu tố
ngồi ngôn ngữ như: cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, ngữ điệu, giọng nói,….
Thứ hai là các thao tác suy ý, tức là hành động của trí não nhằm vận
dụng sự hiểu biết để xem xét, đánh giá tính đúng – sai, hợp lí – khơng hợp lí,
khách quan- khơng khách quan của một vấn đề nào đó.
Thứ ba là dựa vào ước định xã hội (lẽ thường), tức là những ước định,

những điều được coi là lẽ thường, là hiển nhiên được cộng đồng chấp nhận
nên khơng cần bình luận hoặc bàn cãi gì về tính đúng – sai.
Thứ tư là dựa vào sự vi phạm các quy tắc điều khiển hành động ngơn
ngữ. Hành động nói tường minh là hành động mà hiệu lực ở lời của nó phải
phù hợp với hình thức và nội dung câu chữ biểu hiện nó. Nếu hiệu lực ở lời
khơng phù hợp với hình thức câu chữ mà nó biểu hiện tức người nói đã vi
phạm quy tắc điều khiển hành động ngơn ngữ, lúc này sẽ xuất hiện hàm ngôn
của phát ngôn.
Cuối cùng là vi phạm các quy tắc hội thoại. Người nói khi giao tiếp có tình
vi phạm các quy tắc hội thoại nhằm gián tiếp tạo nghĩa hàm ngôn cho câu.
Như vậy, ba bình diện của câu có mối quan hệ khăng khít với nhau:
hình thức câu được dùng để biểu thị nội dung nghĩa của câu; muốn hiểu đúng
nghĩa của câu, cần đặt câu trong ngữ cảnh. Ba bình diện ấy luôn tồn tại dựa
vào nhau, nên khi xét câu chúng ta khơng thể tách ba bình diện rời nhau. Nếu
khơng xét ba bình diện trong mối quan hệ khăng khít chúng ta sẽ khó có thể
hiểu hết ý nghĩa của câu.
1.2. Từ loại tiếng Việt
1.2.1. Khái niệm về từ loại tiếng Việt
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: Từ loại là “một phạm

20


trù ngữ pháp bao gồm các từ có chung đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa khái
quát, như danh từ, động từ, tính từ, v.v.”
Theo Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại: “Từ loại – đó là sự
phân loại vốn từ của một ngôn ngữ cụ thể thành những loại, những hạng dựa
vào những đặc trưng ngữ pháp. Sự quy loại một lớp từ nào đó vào một loại từ
nhất định được xác định bởi những đặc trưng về ngữ nghĩa, về hoạt động ngữ
pháp của nó (về hình thái học hoặc về cú pháp học, hoặc cả về hình thái học

và cú pháp học) trong việc thực hiện một chức vụ cú pháp nhất định.”
Như vậy, trong bất kì hệ thống ngơn ngữ của dân tộc nào, của cộng
đồng người nào (dù cho hệ thống ngôn ngữ đó đã phát triển hay vẫn cịn đơn
sơ, đã có chữ viết hay chưa có chữ viết) đã có vốn từ vựng, có ngữ pháp riêng
thì đều có từ loại.
1.2.2. Sự phân định từ loại
1.2.2.1. Mục đích
Theo tác giả Lê Biên việc phân định từ loại nhằm phát hiện được bản
chất ngữ pháp, tính quy tắc trong hoạt động ngữ pháp và sự hành chức của
các lớp từ loại trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của ngôn ngữ,
làm công cụ để giao tiếp, để tư duy trừu tượng. Từ đó có thể sử dụng các lớp
từ cho đúng quy tắc, hợp với phong cách và chuẩn của tiếng Việt hiện đại.
Theo tác giả Nguyễn Kim Thản: “ phân định từ loại chính là nhằm mục
đích nắm được những từ cùng có những đặc trưng ngữ pháp như nhau, và khi
đặt câu có thể theo hệ thống đó mà suy phỏng ra và khơng bị nhầm lẫn. “Nếu
khơng quy những từ cùng có những đặc tính ngữ pháp vào với nhau mà lại cứ
giải thích lẻ tẻ từng từ cụ thể một thì khơng ai nắm được hết, và cũng khơng
thành hệ thống gì cả. Đó là mục đích mà cũng là sự tiện lợi của việc phân
định từ loại.” [42, 131]

21


1.2.2.2. Tiêu chí phân định từ loại
Trong bất cứ lĩnh vực nào của tự nhiên hay xã hội, muốn phân loại các
sự vật hiện tượng đều phải có những nguyên tắc, tiêu chí, phương pháp, và các
thao tác phù hợp. Nếu khơng có ngun tắc, tiêu chí, phương pháp đúng đắn thì
kết quả phân loại sẽ khơng đáng tin cậy, vì nó khơng phản ánh đúng về bản
chất sự vật hiện tượng. Và ngôn ngữ cũng vậy, không phải đơn vị nào của ngơn
ngữ chúng ta đều có thể phân loại được, mà chỉ những đơn vị nào của từ vựng

học thì chúng ta mới tiến hành phân loại. Hay nói cách khác, chỉ các đơn vị
được xác định là từ của tiếng Việt hiện đại mới là đối tượng, thuộc phạm vi
khảo sát của từ loại (bao gồm toàn bộ thực từ và hư từ). Và việc nghiên cứu,
phân loại cũng phải có cơ sở, có nguyên tắc, tiêu chí đúng đắn, rõ ràng.
Hiện nay, chúng ta thấy có rất nhiều quan niệm khác nhau về tiêu chí
phân loại từ loại tiếng Việt. Tác giả Đái Xuân Ninh trong cuốn Hoạt động
của từ tiếng Việt, NXBKHXH HN, (1987) đưa ra ba tiêu chuẩn phân loại:
1. Vị trí của từ trong câu tối thiểu
2. Khả năng kết hợp của từ
3. Ý nghĩa của từ
Theo tác giả Nguyễn Anh Quế trong cuốn Hư từ trong tiếng Việt hiện
đại, NXB KHXH, (1998) thì có đề cập đến bốn tiêu chí phân loại từ:
1. Ý nghĩa ngữ pháp
2. Ý nghĩa từ vựng
3. Khả năng đảm nhiệm các chức vụ cú pháp
4. Ngữ âm
Tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, NXB ĐHQG,
(1999) thì lại lấy đoản ngữ để phân định từ loại.
Tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại, NXBGD, 1999
đưa ra hai tiêu chí phân loại:

22


×