Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận các yếu tố ảnh hưởng đến vốn tự có lợi nhuận rủi ro của ngân hàng thương mại và thực trạng an toàn vốn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.38 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Lớp: CHNHK24– GĐ A314 – CHIỀU CHỦ NHẬT

TIỂU LUẬN:

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
VỐN TỰ CÓ, LỢI NHUẬN, RỦI RO
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ
THỰC TRẠNG AN TOÀN VỐN TẠI VIỆT
NAM
GVHS: PGS.TS.TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG
Nhóm 01:
1. Ôn Quỳnh Như
2. Đặng Thị Ngọc Hân
3. Nguyễn Thị Hiếu
4. Nguyễn Ngọc Phương Quỳnh
5. Phạm Thị Kim Thoa

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2016


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam những năm qua đã có bước phát triển
mạnh mẽ về cả quy mô và chất lượng. Song song đó, các NHTM Việt Nam cũng đứng trước những
khó khăn và thách thức trong tiến trình hội nhập, điển hình như vốn tự có của các NHTM Việt Nam
còn nhỏ và cơ cấu chưa hợp lý so với các ngân hàng lớn khác trong khu vực và trên thế giới.
Theo thông lệ quốc tế, vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ
an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra vốn tự có còn giúp NHTM tạo niềm tin


với công chúng, đảm bảo với những chủ nợ và tạo điều kiện để phát triển các sản phẩm dịch vụ mới,
nâng cấp hệ thống, mua sắm trang thiết bị mới. Nhóm thực hiện bài nghiên cứu này nhằm tìm hiểu
về vốn tự có của NHTM, mối liên hệ giữa vốn tự có, rủi ro và lợi nhuận – 3 nhân tố quan trọng trong
hoạt động của NHTM và trình bày một số thực trạng về an toàn vốn tại Việt Nam trong những năm
vừa qua.
Do hiểu biết và thời gian có hạn, nhóm rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp của Cô
và các bạn để bài nghiên cứu được hoàn thiện,
Trân trọng,
Nhóm thực hiện

3


1.

Vốn chủ sở hữu – Vốn tự có của ngân hàng thương mại
1.1.

Khái niệm

Theo Nghị định 146/2005/NĐ-CP ngày 23/11/2005, vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm
Vốn điều lệ; Các khoản chênh lệch do đánh giá lại tài sản, chênh lệch tỷ giá theo quy định của pháp
luật; Thặng dư vốn cổ phần; Các quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ,
quỹ dự phòng tài chính; Lợi nhuận được giữ lại.1
Theo Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam 2010, vốn tự có gồm giá trị thực của vốn điều lệ
của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các quỹ dự trữ, một
số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam2.
Dựa vào hai khái niệm trên, ta thấy vốn chủ sở hữu khác với vốn tự có. Vốn tự có bằng vốn
chủ sở hữu cộng/ trừ giá trị điều chỉnh. Tuy nhiên, xét về mặt bản chất, tuy cách gọi khác nhau
nhưng nội hàm và ngoại điên đều tương tự đi theo tinh thần lý luận của thông lệ quốc tế. Và trong

các văn bản Luật liên quan cũng chỉ đưa ra khái niệm “Vốn tự có”, vì vậy trong khuôn khổ bài
nghiên cứu, nhóm xin sử dụng thuật ngữ Vốn tự có.
Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn
được tạo ra trong quá trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại.
Theo thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010, vốn tự có bao gồm vốn tự có cấp 1 và
vốn tự có cấp 2:
Vốn cấp 1 (Vốn tự có cơ bản): Là phần vốn tự có hình thành ban đầu và được bổ sung trong
quá trình hoạt động của ngân hang, đây là nguồn vốn tương đối ổn định, bao gồm:
− Vốn điều lệ;
− Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ;
− Các quỹ dự phòng khác;
− Quỹ đầu tư và phát triển nghiệp vụ;
− Lợi nhuận không chia;
− Các tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Trong thành phần của vốn tự có cấp 1, vốn điều lệ là nguồn vốn ban đầu ngân hàng có được
khi mới hoạt động và được ghi vào bảng điều lệ hoạt động của ngân hàng.
Vốn cấp hai (Vốn tự có bổ sung): Là nguồn vốn tăng thêm khi ngân hàng đã đi vào hoạt
động và phụ thuộc vào nguồn vốn tự có cơ bản về quy mô và có tính ổn định thấp, bao gồm:
− 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá lại theo qui định của pháp luật;
− 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp)
được định giá lại theo qui định của pháp luật.
− Quỹ dự phòng tài chính;

1 Điều 5, Nghị định 146/2005/NĐ-CP ngày 23/11/2005 về chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng
2 Khoản 10, Điều 4, Luật các Tổ chức Tín dụng Việt Nam 2010 số 47/2010/QH12 ngày 16/06/2010

4


Trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành có kỳ hạn ban đầu, thời hạn trước khi

chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông tối thiểu là 5 năm;
− Các công cụ nợ khác là khoản nợ mà chủ nợ là thứ cấp so với các chủ nợ khác. Có kỳ hạn ban
đầu tối thiểu trên 10 năm;


1.2.

1.3.

Đặc điểm vốn tự có


Trong thời gian đầu hoạt động, vốn tự có là cơ sở để tạo nên nguồn lực tài chính của ngân
hàng thương mại. Vốn tự có được sử dụng cho mục đích đầu tư vào tài sản cố định, đầu tư dài
hạn và ngắn hạn để sinh lời.



Là nguồn vốn ổn định và luôn tăng trưởng trong quá trình hoạt động đồng thời vốn tự có luôn
vận động và tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng. Mọi quyết định tăng thêm vốn
luôn gắn liền với yêu cầu phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới, mở rộng hoạt động của ngân
hàng.



Mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (từ 10 – 15%) nhưng vốn tự có đóng vai
trò vô cùng quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành nên các nguồn vốn khác. Giá trị của vốn
tự có gắn liền với uy tín, năng lực, vị thế của chủ sở hữu vốn và quan hệ cung cầu vốn trên thị
trường.




Vốn tự có quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng như các giới hạn huy động vốn, giới
hạn cho vay và bảo lãnh …vì hoạt động của các ngân hàng thương mại phải chịu sự chi phối
của các quy định pháp luật dựa trên căn cứ là quy mô vốn tự có.



Ngoài ra, vốn tự có được hình thành từ những nguồn vốn hợp pháp được phép lưu chuyển
trên thị trường tài chính. Trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế, vốn tự có của ngân hàng
sẽ mang tính quốc tế gắn liền với môi trường cạnh tranh cao khi mà các ngân hàng thương
mại đang mở rộng việc thu hút đầu tư thông qua thị trường tài chính bằng các công cụ tài
chính đa dạng

Chức năng Vốn tự có
Chức năng bảo vệ: Với chức năng bảo vệ, vốn tự có là lá chắn chống đỡ, bù đắp những rủi
ro, tổn thất trong hoạt động kinh doanh ngân hàng:





Đảm bảo được khả năng thanh toán
Đảm bảo khoản vốn dự trữ đủ để duy trì được khả năng trả nợ tránh rủi ro do thua lỗ.
Đảm bảo sự an toàn vốn của người gửi tiền.
Trong trường hợp ngân hàng mất khả năng chi trả thì vốn tự có sẽ được sử dụng để hoàn trả
cho khách hàng.
Chức năng hoạt động:





Tham gia vào việc hình thành nên tài sản cố định cho các ngân hàng hoạt động.
Cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới,
cho những chương trình mới.
5




Đầu tư các tài sản ngắn hạn và dài hạn như đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu
chính phủ,…là để đem lại lợi nhuận cho ngân hàng cũng đồngthời nhằm duy trì mức vốn khả
dụng cho ngân hàng

Tuy nhiên, do vốn tự có chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh nên lợi
nhuận mà nó mang lại cũng không cao. Vì vậy chức năng hoạt đông ở đây cũng chỉ là thứ yếu.
Chức năng điều chỉnh: Vốn tự có xác lập các giới hạn cho hoạt động kinhdoanh ngân hàng.
Vốn tự có của ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh
mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác.
− Vốn tự có là đối tượng mà các cơ quan quản lý ngân hàng thường hướng vào đó để ban hành
những quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính
an toàn.
− Vốn tự có là căn cứ để xác định và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm bảo đảm ngân
hàng an toàn trong kinh doanh.


1.4.

Các yếu tố ảnh hưởng đến vốn tự có của ngân hàng thương mại.


1.4.1. Yếu tố vĩ mô

Tình hình kinh tế xã hội
Đây là yếu tố khách quan đối với các ngân hàng thương mại, yếu tố này ảnh hưởng chung
đến việc huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó có nguồn vốn tự có của
ngân hàng thương mại. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền gửi, tiền tiết kiệm gửi vào
các ngân hàng thương mại ngày càng nhiều, mặt khác ở tình trạng tăng trưởng, người dân cần nhiều
vốn để đầu tư mở rộng quy mô, trang thiết bị do đó các ngân hàng phải huy động nhiều vốn và càng
có điều kiện để huy động do tích luỹ được nhiều hơn. Ngoài ra với một nền kinh tế phát triển thì
công nghệ ngân hàng được hiện đại hóa, người dân có thói quen sử dụng những lợi ích do các ngân
hàng thương mại cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán chủ yếu qua ngân hàng, ngân hàng thu được
càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng được vốn trong thanh toán.
Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền
Tập quán tiêu dùng của người dân có tầm ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc huy động
vốn của ngân hàng, rõ ràng ở những vùng, người dân thường có thói quen gửi tiền vào ngân hàng thì
ngân hàng sẽ huy động được dễ dàng hơn nhiều ở những vùng người dân thường hay cất trữ tiền
trong nhà bằng vàng, bất động sản...Đồng thời, ngay ở thói quen thanh toán khi mua hàng hoá cũng
góp phần làm tăng hay giảm nguồn vốn huy động của ngân hàng. Ở nhiều nước phát triển, việc
thanh toán không dùng tiền mặt là phổ biến, hầu như người dân nào cũng có tài khoản trong ngân
hàng và ngân hàng là cái gì đó không thể thiếu trong cuộc sống. Ngược lại, ở một số nước, thói quen
thanh toán bằng tiền mặt vẫn còn ăn sâu thì nguồn vốn huy động của ngân hàng sẽ gặp khó khăn.
Các tập quán tiêu dùng này khó có thể được thay đổi ngay một sớm một chiều, do đó để mở rộng

6


nguồn huy động, các ngân hàng phải nỗ lực hết mình: cải cách quy trình, thủ tục, phát triển chính
sách khách hàng...
Yếu tố chính trị
Sự ổn định chính trị là một điều kiện hết sức quan trọng để các ngân hàng thương mại có thể

mở rộng thị trường và huy động vốn dễ dàng, các ngân hàng thương mại thường muốn mở rộng thị
trường cho các dịch vụ của mình ở những nơi mà tình hình chính trị ổn định. Ngược lại các cuộc bãi
công, biểu tình, sụp đổ chính phủ luôn kéo theo tình trạng huy động vốn của ngân hàng bị trì trệ bởi
người dân không còn tin tưởng.
Áp lực khi hội nhập quốc tế
Từ trước tới nay, người ta chỉ biết chuyện các doanh nghiệp, người dân thiếu vốn phải đi vay
ngân hàng. Nhưng với vai trò cung cấp vốn cho nền kinh tế, đến nay chính các ngân hàng cũng đang
phải đối mặt với việc tăng thêm nguồn vốn tự có để đạt được các tiêu chí quốc tế tối thiểu trước yêu
cầu hội nhập. Theo Hiệp ước Basel Việt Nam đã ký kết với IMF, ngân hàng Việt Nam phải đạt yêu
cầu an toàn vốn tối thiểu 8%. Nhưng trên thực tế, quy mô vốn tự có của các ngân hàng thương mại
cổ phần Việt Nam hiện nay còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi
đó, áp lực cạnh tranh sẽ gia tăng khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế với quy mô ngày càng rộng
và sâu. Khi đó, những biến động kinh tế thường có nguy cơ làm xuất hiện thêm các loại loại rủi ro.
Việc tăng vốn giúp các ngân hàng tăng cường khả năng tự vệ cho mình.
Yếu tố thể chế và pháp luật
Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh mọi quan hệ xã hội. Do vậy tất cả mọi hoạt động của
ngân hàng đều chịu sự điều chỉnh của luật pháp. Cụ thể là Luật các tổ chức tín dụng (1997), Pháp
lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (1990), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(1998), các văn bản pháp luật khác như: chỉ thị, thông tư...Lĩnh vực hoạt động của ngân hàng là vô
cùng quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy các hoạt động của ngân hàng luôn được Nhà nước quản lý
chặt chẽ bằng các văn bản pháp quy. Mỗi văn bản đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của Ngân
hàng, cụ thể là hoạt động huy động vốn. Chính phủ đề ra chính sách tiền tệ quốc gia và hệ thống
ngân hàng là công cụ đắc lực để thực hiện. Chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có
chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó
ngân hàng thương mại huy động vốn dễ dàng hơn.
Căn cứ theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, mức vốn pháp
định của các ngân hàng thương mại cổ phần đến năm 2008 và năm 2010 lần lượt là 1.000 tỷ đồng và
3.000 tỷ đồng. Để tồn tại và phát triển, các ngân hàng thương mại cổ phần buộc phải tăng vốn.
Ngoài ra, nếu ngân hàng thương mại có nhiều nợ xấu và các khoản rủi ro khác như mất quỹ tiền mặt,
rủi ro trong thanh toán không dùng tiền mặt mà quỹ dự phòng rủi ro và các loại quỹ khác của ngân

hàng thương mại không đủ năng lực tài chính xóa hết các món nợ xấu và các rủi ro khác. Khi đó
thanh tra của các tổ chức tín dụng từ ngân hàng Nhà nước có quyền yêu cầu ngân hàng thương mại
7


dùng vốn điều lệ để xóa hết những món nợ xấu và các rủi ro khác. Nhưng nếu ngân hàng thương mại
dùng vốn điều lệ xóa nợ xấu và các rủi ro khác hết 50%, mà trong một thời gian ngắn ngân hàng
thương mại không có khả năng tăng vốn điều lệ, ngân hàng Nhà nước được quyền tuyên bố ngân
hàng thương mại ấy đã phá sản.
Ngoài ra, ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn quy định vốn điều lệ của ngân hàng thương mại
cổ phần sau khi trừ đi 70 tỷ đồng cho bảng hiệu (tên ngân hàng thương mại cổ phần), hiệu số còn lại,
cứ 20 tỷ đồng vốn điều lệ, ngân hàng thương mại ấy mới được thành lập một chi nhánh. Theo Quyết
định 888/2005/QĐ- ngân hàng Nhà nước, ngày 16/6/2006 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước, thì
một trong số các điều kiện để mở chi nhánh của Tổ chức tín dụng là số vốn điều lệ hiện có trừ đi số
vốn pháp đinh tối thiểu, thì mỗi chi nhánh bình quân phải có 20 tỷ đồng. Do đó, Tổ chức tín dụng
muốn phát triển kinh doanh, mở rộng địa bàn và chiếm lĩnh thị phần thì thường xuyên phải thành lập
thêm chi nhánh mới, tất nhiên phải tăng thêm vốn điều lệ.
Các yếu tố khác
Trong xu thế phát triển chung của nền kinh tế, những doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu
quả thường có xu hướng mở rộng lĩnh vực kinh doanh, mở rộng quy mô đầu tư. Do đó, việc tăng
vốn của các ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp. Hơn nữa, dư nợ cho vay và
đầu tư tăng cao nên để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, vốn tự có cũng tăng cao là điều tất yếu.
Trong vốn tự có, vốn điều lệ chiếm tỷ trọng rất lớn, do đó, nếu vốn điều lệ nhỏ, ngân hàng thương
mại không thể cho những tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp lớn vay, như vậy, các ngân hàng thương
mại muốn mở rộng khối lượng giá trị tín dụng và bảo lãnh cho khách hàng, buộc các ngân hàng
thương mại phải tăng vốn tự có.
Lạm phát: Lạm phát làm tăng giá trị tài sản của ngân hàng nhưng đồng thời cũng làm tăng
các khoản nợ, làm giảm giá trị vốn bằng tiền của ngân hàng và kết quả là vốn tự có của ngân hàng
có chiều hướng giảm sút buộc các ngân hàng thương mại phải tăng vốn điều lệ.
Những biến động kinh tế dẫn đến khả năng làm xuất hiện thêm nhiều loại rủi ro buộc ngân

hàng phải tăng vốn tự có để tăng cường khả năng bảo vệ. Trong tình hình kinh tế Việt nam nói riêng
và thế giới nói chung đang phải đối đầu với lạm phát và những khó khăn nhất định thì các ngân hàng
thương mại cổ phần cũng gặp phải những thách thức nhất định cần phải vượt qua mà tăng vốn tự có
là một trong những biện pháp chống đỡ hữu hiệu. Như vậy, do đòi hỏi của thị trường và yêu cầu
nâng cao năng lực tài chính từ phía Ngân hàng Trung ương, việc thường xuyên tăng thêm vốn điều
lệ là yêu cầu khách quan theo quy định của pháp luật về hoạt động của ngân hàng và yêu cầu khách
quan về phát triển kinh doanh của ngân hàng thương mại.
1.4.2. Yếu tố vi mô

Động lực để ngân hàng thương mại cổ phần tự tin hợp tác với đối tác nước ngoài
Các ngân hàng cổ phần đang chạy đua tăng vốn điều lệ. Theo giới quan sát đây vừa là mục
tiêu, song cũng là động lực để các ngân hàng tự tin bắt tay với đối tác nước ngoài. Để có thể hợp tác
8


với các đối tác nước ngoài, các ngân hàng thương mại cổ phần cần phải có một tiềm lực tài chính
vững mạnh mà vốn tự có là một trong những tiêu chí hàng đầu giúp các ngân hàng thương mại cổ
phần tạo được niềm tin ở các đối tác. Với quy mô vốn tự có của các ngân hàng thương mại cổ phần
ở nước ta hiện nay còn quá nhỏ bé so các nước trong khu vực thì vấn đề cấp thiết hiện nay là buộc
phải tăng vốn tự có.
Duy trì và gia tăng niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng
Với nhu cầu duy trì và gia tăng niềm tin của công chúng, khi tăng vốn tự có sẽ giúp ngân
hàng có vị thế mới vững chắc hơn, tạo được niềm tin ở khách hàng, là đối tượng mà các ngân hàng
hướng tới và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Quá trình phát triển kinh tế sẽ làm cho những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả có nhu cầu
mở rộng quy mô kinh doanh ngày càng lớn hơn và do đó nhu cầu được tài trợ từ phía ngân hàng
cũng vì thế mà ngày càng cao. Tuy nhiên, những giới hạn về cho vay, huy động vốn… của ngân
hàng Nhà nước đã tác động đến các ngân hàng thương mại cổ phần, buộc ngân hàng phải tăng vốn
tự có để có thể đáp ứng nhu cầu vay (ngày càng tăng) của các khách hàng lớn nhằm giữ chân những
khách hàng lâu năm thân thiết và làm ăn có hiệu quả. Theo các ngân hàng thương mại cổ phần, áp

lực tăng vốn điều lệ nhằm phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn điều lệ cho vay trung dài hạn, đầu tư
vào những dự án hiệu quả của ngân hàng. Điều này giúp ngân hàng giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn
hạn, nhất là vốn huy động để cho vay trung dài hạn.
Mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
Khi hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng, quy mô càng lớn, ngân hàng cũng cần mở thêm
nhiều trụ sở, chi nhánh mới, đứng trước yêu cầu này, các ngân hàng thương mại cổ phần phải tăng
vốn tự có để đáp ứng được những quy định của ngân hàng Nhà nước và đầu tư vào việc mở rộng trụ
sở, chi nhánh mới trong khi chi phí hoạt động của ngân hàng ngày càng gia tăng như chi phí tiền
lương, đất đai, trang thiết bị… đã làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, mà lợi nhuận lại là nguồn chủ
yếu để tăng vốn tự có hàng năm của ngân hàng.
Triển khai thêm nhiều nghiệp vụ kinh doanh mới, đa dạng hóa dịch vụ
Do hoạt động của ngân hàng ngày càng mở rộng, qui mô của ngân hàng ngày càng lớn, ngân
hàng không chỉ cần mở thêm nhiều trụ sở chi nhánh mới mà còn đòi hỏi thực hiện thêm nhiều
nghiệp vụ kinh doanh mới, đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng. Từ đó đòi hỏi vốn tự có phải tăng lên
tương ứng với hoạt động kinh doanh mới.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhận thấy rằng thách thức lớn nhất đối với các ngân hàng thương
mại Việt Nam nằm ở nội lực của chính các ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế,
trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
thương mại đang diễn ra rất sôi động về số lượng mở chi nhánh hoặc phòng giao dịch, nhưng, dịch
vụ ngân hàng còn nghèo nàn, nhất là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chưa đáp ứng được
yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Theo các chuyên gia ngân hàng, sự cạnh tranh giữa các ngân
9


hàng thương mại trong nước với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các "ngân hàng con" của họ
trong tương lai gần rất quyết liệt, do đó các ngân hàng thương mại cổ phần nên củng cố năng lực
vốn điều lệ của mình.
Trong quá trình phát triển kinh doanh, đa dạng hóa dịch vụ theo thông lệ quốc tế và theo yêu
cầu hội nhập, các ngân hàng thương mại ngày càng mở ra nhiều công ty trực thuộc. Vì vậy, các ngân
hàng thương mại phải tăng thêm vốn điều lệ để có vốn cấp cho thành lập các công ty trực thuộc,

như: công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty kiều hối, công ty thương mại dịch vụ,
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản…
Trình độ công nghệ ngân hàng
Có thể nói công nghệ ngân hàng hiện đại khác xa so với trước đây, việc áp dụng máy tính là
một cuộc cách mạng trong hoạt động của ngân hàng, nhờ có hệ thống tin học hiện đại, ngân hàng có
thể thu thập thông tin về khách hàng, về thị trường tốt. Từ đó, có thể hoạch định ra các hình thức
huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi... Mặt khác, nhờ hệ thống thông tin tốt khiến cho
ngân hàng có thể nâng cao hiệu quả huy động vốn.
Nhìn chung, có rất nhiều những yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn của ngân hàng. Các
yếu tố này tác động đến mọi hoạt động, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Mỗi ngân
hàng khi hoạt động đều cần phải tiến hành nghiên cứu, tìm hiểu. Những yếu tố tác động này có tính
hai mặt: có thể có tác động tích cực đồng thời có thể tác động tiêu cực tới ngân hàng. Ngân hàng nào
xác định đúng, chính xác các yếu tố tác động sẽ huy động được vốn lớn với chi phí rẻ, từ đó nâng
cao hiệu quả hoạt động.
2.

Lợi nhuận của ngân hàng thương mại:

- Xét theo nghĩa hẹp: Lợi nhuận NHTM là chỉ tiêu tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động
kinh doanh của NHTM. Gia tăng lợi nhuận không những giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động
kinh doanh mà còn để gia tăng thu nhập cho các cổ đông, nâng cao phúc lợi và khen thưởng cho
người lao động, ổn định nhân sự, ổn định tổ chức và nâng cao thương hiệu và uy tín của ngân hàng.
(Nguyễn Đăng Dờn, 2012).
- Theo nghĩa rộng, ý nghĩa về lợi nhuận của NHTM rất đặc biệt, lợi nhuận không chỉ phản
ảnh hiệu quả hoạt động của từng NHTM riêng lẻ, mà hiệu quả hoạt động của cả hệ thống NHTM
trong nền kinh tế. Hoạt động của NHTM không chỉ mang lại lợi nhuận cho nhân viên và các cổ đông
của ngân hàng, rộng hơn nữa nó còn mang lại lợi ích cho khách hàng, cho nền kinh tế quốc gia.
(Nguyễn Đăng Dờn, 2012)
2.1.


Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận NHTM

Quy mô ngân hàng
Quy mô ngân hàng là một trong những yếu tố quyết định đến lợi nhuận của
ngân hàng, các ngân hàng có quy mô lớn và mạng lưới chi nhánh rộng luôn có một lợi thế không
nhỏ trong việc huy động nguồn vốn, phát triển sản phẩm dịch vụ từ khách hàng, tiếp cận khách
10


hàng vay vốn dễ dàng hơn. Mặt khác lợi nhuận của các ngân hàng lại có quan hệ nghịch biến với
khả năng đa dạng hóa sản phẩm ngân hàng, các ngân hàng thường đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ
nhằm đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng khách hàng và cũng nhằm giảm thiểu rủi ro tín
dụng nhưng cũng có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.Về lý thuyết nếu lợi thế kinh tế theo quy
mô tồn tại, các tổ chức tài chính lớn hơn có thể cung cấp dịch vụ có hiệu quả hơn với chi phí thấp
hơn trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Để có thể tối đa hóa lợi nhuận, các ngân hàng cần
lựa chọn quy mô hợp lí.
Các khoản cho vay
Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tiếp nhận các khoản tiền nhàn rỗi trong nền
kinh tế với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nhiệm vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia
đình. Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi cho nguồn vốn huy động
và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng.
Cho vay càng nhiều, tỷ lệ lãi biên càng cao và lợi nhuận ngân hàng cũng cao hơn.
Chất lượng hoạt động tín dụng:
Tài sản của ngân hàng bao gồm tài sản có và tài sản nợ. Trong đó, tài sản có của ngân hàng
bao gồm các tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời. Tài sản có sinh lời trong NHTM có hai khoản
mục là tín dụng và đầu tư. Trong đó tín dụng mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn, nhưng lại có mức
độ rủi ro lớn, trong khi đó khoản mục đầu tư có tỷ suất thu nhập thấp hơn, nhưng lại có mức độ rủi
ro thấp hơn (Nguyễn Đăng Dờn, 2012). Theo Peter S.Rose (2004), mặc dù các nguồn thu ngoài lãi
đang có xu hướng tăng lên nhanh hơn so với nguồn thu lãi từ cho vay nhưng tiền lãi và phí tạo ra từ

các khoản cho vay vẫn đang chiếm hầu hết các nguồn thu nhập của NHTM. Do đó, lợi nhuận của
NHTM phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của hoạt động tín dụng. Chất lượng tín dụng cao sẽ giúp
gia tăng lợi nhuận ngân hàng.
Yếu tố ngành ngân hàng:
Theo Nzongang và Atemkeng (2006) mức độ trung thị trường có liên quan chặt chẽ với mức
độ lợi nhuận độc quyền cao. Các NHTM là nhà cung cấp vốn chủ yếu cho công ty kinh doanh, sự
sẵn có của tín dụng ngân hàng ở mức chi phí phải chăng là rất quan trọng đối với mức độ đầu tư của
các doanh nghiêp cũng như đối với sức khỏe nền kinh tế. Khi mức độ tập trung ngành ngân hàng
tăng lên chi phí các khoản tín dụng tăng, điều đó dẫn đến sự suy giảm trong nhu cầu vay vốn ngân
hàng và mức độ đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, mức độ tập trung thị
trường cao sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
2.2.
Các nghiên cứu có liên quan:
2.2.1. Nghiên cứu của Ong Tze San và Teh Boon Heng 2012

Ong Tze San và The Boon Heng nghiên cứu: Những yếu tố tác động đến lợi nhuận các ngân
hàng thương mại Malaysia, kết quả đạt được là: các yếu tố như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu có ảnh
11


hưởng đến quá trình kinh doanh của ngân hàng. Vốn chủ sở hửu của các ngân hàng có ảnh hưởng
đến quá trình hoạt động của ngân hàng, vốn kinh doanh (tổng tài sản) có ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh của ngân hàng trong khi các yếu tố quyết định đến kinh tế vĩ mô như tăng trưởng GDP và lạm
phát không có ảnh hưởng đáng kể tới hiệu suất sinh lời.
2.2.2. Nghiên cứu của Fotios Pasiouras và Kyriaki Kosmidou 2006

Nhóm tác giả nghiên cứu chi phí vốn chủ sở hữu, tỷ suất sinh lời trên tài sản, hệ thống thanh
toán, chỉ tiêu an toàn vốn, quy mô, tỷ lệ lạm phát hàng năm, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc
nội, chỉ tiêu tập trung, tỷ lệ tổng tài sản của khoản tiền gởi ngân hàng trên GDP, tỷ lệ cổ phiếu vốn
hóa thị trường trên tổng tài sản của khoản tiền gởi ngân hàng và tỷ lệ cổ phiếu vốn hóa trên thị

trường GDP có ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng thương mại. Kết quả nghiên cứu cho thấy
chi phí vốn càng lớn sẽ ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận ngân hàng, chỉ tiêu an toàn vốn, tỷ lệ lạm phát
hàng năm, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ cổ phiếu vốn hóa trên thị trường trên
tổng tài sản của khoản tiền gửi ngân hàng và tỷ lệ cổ phiếu vốn hóa trên thị trường GDP có ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, hệ thống thanh toán của một ngân hàng tốt sẽ thu hút
được nhiều người thực hiện dịch vụ và từ đó làm tăng lợi ngoài cận biên.
2.2.3. Nghiên cứu của Ahmad Aref Almaza:

Tác động của các yếu tố nội bộ về lợi nhuận ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy lợi nhuận
ròng trên tài sản ROA của các ngân hàng có mối tương quan tích cực với tổng vốn đầu tư trên tổng
tài sản, tổng vốn chủ sở hữu, rủi ro thanh khoản và tương quan tiêu cực đáng kể với các cơ sở tín
dụng ròng trên tổng tài sản, các cơ sở tín dụng ròng trên tổng tiền gửi, chi phí thu nhập, quy mô.
3.

Một số rủi ro các ngân hàng có thể gặp. Mối quan hệ của vốn tự có và rủi ro.

3.1.

Một số rủi ro ngân hàng có thể gặp:

(i)

(ii)

(iii)

Rủi ro tín dụng: xảy ra khi khách hàng không hoàn trả được nợ đúng thời hạn hoặc không
trả nợ cho ngân hàng. Khả năng này xuất hiện do khách hàng sử dụng vốn không hiệu quả
hoặc không có khả năng trả nợ cho ngân hàng, hoặc do khách hàng không muốn trả nợ.
Rủi ro thanh khoản: xảy ra khi những thay đổi trên thị trường thứ cấp gây khó khăn cho

ngân hàng trong việc chuyển đổi các tài sản thành tiền để đáp ứng các nhu cầu chi trả.
Khả năng này xảy ra khi chi phí giao dịch tăng, hoặc thời gian giao dịch bị kéo dài. Tổn
thất mà ngân hàng phải gánh chịu là chi phí phát sinh do phải tìm kiếm các nguồn chi trả
khác;
Rủi ro lãi suất: xảy ra khi biến động lãi suất thị trường gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro
này xuất hiện trong trường hợp lãi suất của thị trường tăng lên, khi đó, các khoản cho vay
và đầu tư của ngân hàng sẽ sụt giảm giá trị và ngân hàng sẽ gặp tổn thất. Một trường hợp
khác của rủi ro lãi suất là khi lãi suất thị trường giảm, làm cho ngân hàng phải chấp nhận
đầu tư và cho vay các khoản tiền huy động với lãi suất cao vào các tài sản với mức sinh
lời thấp.
12


(iv)
(v)

Rủi ro hối đoái: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối
đoái thay đổi vượt quá dự tính;
Rủi ro vỡ nợ: là rủi ro mà một ngân hàng không đủ vốn chủ sở hữu để bù đắp cho sự sụt
giảm đột ngột trong giá trị tài sản so với giá trị nợ. Rủi ro này xảy ra do hậu quả của các
loại rủi ro khác, thiếu kinh nghiệm quản lý vĩ mô, do sự suy thoái của nền kinh tế, tỷ trọng
huy động tiền gửi nhỏ, chủ yếu dựa vào các khoản vay, sự gia tăng các vụ vỡ nợ trong
danh mục cho vay của các khách hàng (chủ yếu để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn).

Các rủi ro về mặt hệ thống do tác động của thị trường ngân hàng như: (i) Rủi ro lạm phát là rủi ro
ảnh hưởng đến các hoạt động của NHTM do lạm phát tăng cao như khả năng thanh khoản bị suy
giảm, khó huy động vốn, hoạt động tín dụng bị kiềm chế và tiểm ẩn nhiều rủi ro, lợi nhuận giảm
sút… Lạm phát tăng cao sẽ làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của các NHTM; (ii) Rủi ro công nghệ xảy ra khi NHTM đầu tư công nghệ nhưng không tạo
được sự tiết kiệm chi phí từ lợi thế quy mô lớn và lợi thế danh mục đa dạng như dự liệu, ví dụ công

suất vượt quá, công nghệ lạc hậu, tình trạng thiếu hiệu quả do quan liệu hoặc về phương diện tổ
chức làm cho việc tăng trưởng quy mô không có hiệu quả; (iii) Rủi ro thay đổi môi trường pháp lý là
các rủi ro liên quan đến tác động tài chính của việc thay đổi các quy định quản lý của Nhà nước và
luật pháp. Không phải bao giờ hệ thống vận hành của NHTM cũng có thể đáp ứng kịp thời những
thay đổi trong các yêu cầu, quy định pháp lý và quản lý, nhất là sự thay đổi trên quy mô toàn cầu;
(iv) Rủi ro về chu kỳ kinh tế, sự biến động của các yếu tố thị trường: Các rủi ro này liên quan đến sự
biến động của nền kinh tế toàn cầu và quốc gia. Trong giai đoạn ngưng trệ, ngành dịch vụ ngân hàng
sẽ bị giảm sút doanh thu, phí ngân hàng; (v) Rủi ro từ sự thay đổi môi trường tự nhiên làm tăng đáng
kể tần suất và mức độ nghiêm trọng của thiên tai, thảm họa tự nhiên và điều kiện sinh sống của loài
người dẫn đến những thiệt hại cho các khách hàng của ngân hàng làm họ không có khả năng trả nợ
cho ngân hàng;…
3.2.

Mối quan hệ giữa vốn và rủi ro.

Chức năng của vốn tự có:
Đo lường lợi nhuận và rủi ro của NH nên được so sánh với các NH tương tự cũng như các DN phi
tài chính. Nói một cách tổng quát lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Quản trị NH cố gắng tối đa
hóa giá trị vốn chủ sở hữu đầu tư vào NH bằng cách cân bằng sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
Họat động ngân hàng là họat động rủi ro. Một ngân hàng họat động hiệu quả, an toàn có thể sụp đổ
do tác động dây chuyền trong khủng hoảng tài chính. Do đó, vốn tự có của ngân hàng có khả năng
chống đỡ các loại rủi ro khác nhau trong quá trình kinh doanh của mình. Một ngân hàng có vốn tự
có lớn có khả năng chống đỡ rủi ro tốt hơn các ngân hàng có vốn tự có nhỏ bé, đặc biệt với rủi ro hệ
thống.
Một số nghiên cứu cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa vốn và rủi ro, gợi ý rằng nhà quản lý
khuyến khích các ngân hàng tăng vốn sẽ có thể giảm mức độ rủi ro (Pettway, 1976; Demirguc- Kunt
và Huizinga, 2000; Iannotta et al, 2007;...). Phương pháp tiếp cận truyền thống để điều tiết ngân
13



hàng nhấn mạnh những tác động tích cực của việc yêu cầu an toàn vốn tối thiểu. Vốn được xem như
một bộ đệm hạn chế thiệt hại cho ngân hàng. Hơn nữa, do sử dụng vốn của chủ sở hữu, nên ngân
hàng có thể giảm bớt các khuynh hướng tham gia vào các hoạt động có nguy cơ cao (Ben Bouheni,
2014). Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho kết quả ngược lại. Vốn và rủi ro ngân hàng có thể
diễn ra mối quan hệ nghịch biến do những rủi ro về đạo đức, theo đó các ngân hàng có thể trục lợi từ
hệ thống bảo hiểm tiền gửi (Demirguc-Kunt và Kane, 2002).
4.
4.1.

Basel quy định về tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động ngân hàng như thế nào?
Basel 1 (1988):

Năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng ban hành hệ thống đo lường vốn và rủi ro tín
dụng với tên thường gọi là Hiệp ước Basel 1.
Basel 1 chia vốn tự có ngân hàng ra thành hai loại: vốn tự có cơ bản (Core Capital/ Tier I
Capital) và vốn tự có bổ sung (Supplementary capital/Tier II Capital). Basel I nhấn mạnh tầm quan
trọng của tỷ lệ vốn an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các cơ quan quản lý phải đưa ra
các quy định về an toàn vốn tối thiếu phù hợp với các ngân hàng để phản ánh những rủi ro mà Ngân
hàng có thể gặp phải. Cơ quan quản lý cũng phải quy định rõ ràng các thành phần của vốn, bảo đảm
rằng vốn có khả năng chịu đựng được lỗ.
Các yêu cầu về tỷ lệ vốn an toàn theo Basel I:
 Tỷ lệ vốn cơ bản (Tier 1) trên tổng tài sản quy đổi rủi ro phải ít nhất là 4%
 Tỷ lệ vốn tự có (Tier 1+ Tier 2) trên tổng tài sản quy đổi rủi ro phải ít nhất là 8%.
 Tổng số vốn bổ sung được giới hạn trong tỷ lệ 100% so với vốn cơ bản.

Các quy định về đo lường rủi ro của Basel 1 nhìn chung là mang tính cào bằng vì mức độ rủi ro
của các tài sản chỉ căn cứ vào tài sản bảo đảm và nhóm khách hàng mà không căn cứ vào quy mô
món vay, thời hạn vay và hệ số tín nhiệm của từng khách hàng vay. Ngoài ra, Basel 1 mới chỉ tập
trung đến rủi ro tín dụng mà chưa đề cập đến rủi ro hoạt động cũng như rủi ro thị trường.
4.2.


Basel 2 (06/2004):

Basel 2 ra đời nhằm hướng đến việc khắc phục những khiếm khuyết tự thân của Basel 1 bằng
cách khuyết khích các ngân hàng thực hiện các phương pháp quản lý rủi ro tiên tiến hơn, cũng như
cho phép quyền tự quyết rất lớn trong giám sát hoạt động ngân hàng.
Ba trụ cột của Basel 2:
 Yêu cầu vốn tối thiểu của mỗi ngân hàng dựa trên việc tự dự tính của ngân hàng đó về các rủi

ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro về nghiệp vụ.
 Các quy định về cơ chế giám sát các thủ tục đáng giá rủi ro và vốn tự có thích ứng của mỗi

ngân hàng.
 Yêu cầu công bố rộng rãi thông tin tài chính của mỗi ngân hàng để bảo đảm tính kỷ luật của
thị trường.
4.3.
Basel 3 (12/2010).
14


Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ lụy lâu dài của chúng
đối với hệ thống tài chính – Ngân hàng toàn thế giới, Ủy ban Basel một lần nữa dự thảo và thông
qua phiên bản thứ 3 về tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu:





Hệ số CAR theo Basel 3 vẫn được giữ nguyên ở mức 8%.
Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.

Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.
Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2.5%.

Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ
kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0-2.5% và phải được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ
thông. Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy
cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.
Các tiêu chuẩn của Basel 3 bắt đầu có hiệu lực từ năm 2013, áp dụng cho các cá ngân hàng có hoạt
động quốc tế, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày
01/01/2019.
5.

Thực trạng an toàn vốn theo Basel tại Việt Nam?

Theo công bố của Ngân hàng thanh toán quốc tế (Bank for International Settlements – BIS),
đến ngày 30/06/2014 các quy định cuối cùng của Basel III đã hoàn toàn có hiệu lực. Tất cả các ngân
hàng lớn trên thế giới đều đã đáp ứng yêu cầu vốn tối thiểu dựa trên rủi ro theo quy định Basel III.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia của Basel thì mỗi quốc gia sẽ tùy vào điều kiện của mình để áp dụng
Basel theo từng lộ trình riêng.
Tại Việt Nam, các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (Capital Adequacy Ratio – CAR)
lần lượt được ban hành như sau:
Quyết định 297/1999/QÐ-NHNN5 (8% nhưng phương pháp tính chưa phản ánh đúng tinh
thần Basel I). Thời kì này các NHTM NN (Vietcombank, VietinBank, BIDV, Agribank)
không đảm bảo được mức an toàn vốn tối thiểu, buộc Chính phủ, vào năm 2000 phải cấp
12,000 tỷ đồng dưới dạng trái phiếu đặc biệt với thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho các
ngân hàng trên.
− Quyết định 457/2005/QÐ-NHNN (8% và phương pháp tính đã tiếp cận toàn diện Basel I).
Nhờ môi trường kinh doanh thuận lợi và sự bùng nổ của thị trường chứng khoán, nhiều
NHTM đã đáp ứng được yêu cầu về hệ số an toàn vốn. Tuy nhiên cũng trong giai đoạn này,
nếu xét Nghị định 141/2006/NÐ-CP (ngày 22/11/2006) quy định đến cuối năm 2010, các

NHTMCP phải đạt mức vốn pháp định tối thiểu là 3,000 tỷ đồng, thì vẫn còn một số ngân
hàng chưa đáp ứng được, chủ yếu nằm ở mức 2,000 tỷ đồng.
− Thông tư số 13/2010/TT-NHNN (9% và phương pháp tính đã tiếp cận Basel II). Giai đoạn
này hệ thống NHTM VN đảm bảo được hệ số an toàn vốn tối thiểu, tuy nhiên tính riêng từng
năm thì năm 2010, trong nhóm các NHTM NN, VietinBank và Agribank vẫn chưa đạt được
chỉ tiêu này. Còn tính đến tháng 11/2011 vẫn còn 5 NHTMCP chưa đáp ứng được con số 9%.


15


Đến ngày 31/12/2015, theo số liệu của NHNN VN, toàn hệ thống đạt chỉ tiêu CAR ở mức
13%, tuy nhiên khối NHTM NN có hệ số CAR thấp nhất, chỉ ở mức 9.42%
Bảng: Thống kê một số chỉ tiêu cơ bản ngày 31/12/2015
Đơn vị tính: tỷ đồng, %
Tổng tài sản có
Loại hình TCTD

Số
đối

(1)

Tỷ lệ vốn
Tỷ lệ an
ngắn hạn
Tốc độ
Tốc độ
Tốc
độtoàn

cho
vay
tuyệt
Số tuyệt
Số tuyệt
vốn tối
tăng
tăng
tăng
trung, dài
đối
đối
trưởng
trưởng
trưởng thiểu
hạn

(2)

NHTM Nhà nước

3,303,995 16.57

Ngân
hàngChính 144,204
sách xã hội
NHTM Cổ phần

(3)


Vốn tự có

(4)

Vốn điều lệ

(5)

203,328 19.82

7.03

(7)

137,093 2.14
10,696

(8)

(9)

9.42

33.36

6.96

236,342 16.34

193,977 7.11


12.74

36.90

7.63

117,164 10.53

93,948

8.45

33.80

-

Công ty tài chính, 87,841
cho thuê

27.91

17,715

16.48

18,463

-2.17


23.24

73.14

Ngân hàng Hợp tác 21,906


7.45

3,472

38.36

3,000

39.31

31.47

77.93

Quỹ tín dụng nhân 77,645
dân

16.41

3,102

15.85
13.00


31.00

NH Liên
nước ngoài

Toàn hệ thống

2,928,146 8.93

(6)

doanh, 755,581

7,319,317 12.35

578,020 16.40

460,279 5.65

Nguồn: NHNN VN
Ghi chú: Tốc độ tăng trưởng so với thời điểm cuối năm trước liền kề
Để áp dụng Basel II, NHNN đã ban hành nhiều quy định tiệm cận với chuẩn quốc tế và phê
duyệt chủ trương triển khai áp dụng Basel II theo 2 giai đoạn (2013 – 2015 và 2016 – 2018). NHNN
đã chọn 10 NHTM đầu tiên triển khai thí điểm Basel II giai đoạn từ cuối năm 2015 đến 2018 bao
gồm: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và
Maritime Bank. Trong 10 ngân hàng được chọn, một số ngân hàng đã có những động thái rất mạnh
mẽ trong việc triển khai áp dụng Basel II. Cụ thể: Tháng 6/2014, Vietcombank khởi động dự án
“Phân tích hiện trạng và xây dựng lộ trình triển khai nâng cao năng lực quản trị rủi ro ngân hàng
theo yêu cầu của Hiệp ước vốn Basel II”. Ngày 15/07/2015, Vietcombank tổ chức “Lễ khởi động

triển khai Hiệp ước Vốn Basel II”. Techcombank thành lập Văn phòng Quản lý dự án Basel;
16


Sacombank thành lập Ban chỉ đạo và Đội dự án thực hiện Basel II, tích cực đẩy mạnh hoàn thiện
Basel II vào năm 2018.
Theo Nguyễn Đức Trung (2014), để các NHTM VN quản lý an toàn vốn theo thông lệ quốc
tế, cần phải tăng trưởng vốn bền vững thông qua một số giải pháp chủ chốt như sau:
Xây dựng chiến lược tăng vốn đi kèm với sử dụng vốn hợp lý;
Cần cân nhắc và chọn lựa cổ đông chiến lược trong và ngoài nước; đối với các NHTM đang
áp dụng Basel II và Basel III cần lựa chọn cổ đông chiến lược là các NHTM cũng đã áp dụng
Basel tương ứng;
− NHTM cần có chiến lược đảm bảo phát triển đủ vốn tự có thực theo quy chuẩn Basel III;
từng bước hình thành tấm đệm vốn chống rủi ro chu kỳ kinh tế và tấm đệm vốn chống rủi ro
hệ thống từ sự liên thông của các thị trường;
− Chú ý quản lý đòn bẩy tài chính trong điều kiện kinh tế vĩ mô bất ổn;…



17


KẾT LUẬN
Hoạt động kinh doanh của NHTM chứa đựng nhiều rủi ro và những rủi ro này gây ra tác
động đến nền kinh tế lớn hơn so với rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thông
thường. Có nhiều biện pháp để ngăn chặn rủi ro, trong đó vốn tự có được xem như biện pháp cuối
cùng. Vốn tự có bù đắp cho những tổn thất từ hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, quản lý yếu kém,
giúp ngân hàng có thể trụ vững các hoạt động của mình cho đến khi khôi phục lại. Trừ những trường
hợp các tổn thất vượt quá khả năng bù đắp của vốn tự có thì các NHTM buộc phải dừng hoạt động
(riêng tại Việt Nam thì các NHTM yếu kém sẽ bị NHNN mua lại với giá 0 đồng). Như vậy vốn tự có

là tấm đệm cuối cùng để chống rủi ro cho các NHTM.
Trong tiến trình hội nhập, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các NHTM buộc phải đáp ứng
được các tiêu chuẩn theo thông lệ quốc tế, cụ thể là áp dụng được Hiệp ước vốn Basel. Dù còn tồn
tại nhiều khó khăn thách thức trong lộ trình thực hiện Basel như tiềm lực kinh tế, nguồn nhân lực,
thể chế, cơ chế chính sách,…cần nhiều thời gian để học hỏi kinh nghiệp và thích ứng phù hợp với
điều kiện kinh tế nước nhà, nhưng chúng ta cũng không được để quá chậm trễ trong việc áp dụng
Basel nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh cho hệ thống NHTM Việt Nam.

18


6.

Tài liệu tham khảo
Nguyễn Đăng Dờn, 2012, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại
Ong, Tze San and Teh, Boon Heng, 2012, Factors affecting the profitability of Malaysian
commercial banks
Fotios Pasiouras & Kyriaki Kosmidou, 2006, Determinants of profitability of domestic UK
commercial banks: panel evidence from the period 1995-2002.
Lê Thanh Ngọc, Đặng Trí Dũng & Lê Nguyễn Minh Phương (2015). Mối quan hệ giữa tỷ lệ
vốn tự có và rủi ro của ngân hàng thương mại: Bằng chứng từ Việt Nam, Tạp chí Phát triển &
Hội nhập, số 25 (35) - tháng 11-12/2015.
Phạm Tiến Đạt , Đánh giá rủi ro trong ngân hàng thương mại nhằm phục vụ cho hoạt động
kiểm toán báo cáo tài chính– Học viện ngân hàng.
Trương Quang Thông, 2012, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Kinh tế TP.HCM
Trần Huy Hoàng, 2011, Giáo trình quản trị ngân hàng thương mại, NXB Lao động xã hội
Nguyễn Đức Trung, 2014, An toàn vốn của các NHTM – thực trạng Việt Nam và giải pháp
cho việc áp dụng Hiệp ước tiêu chuẩn vốn Basel II & III
Thảo Minh, 2015, Thời báo Ngân hàng, Áp dụng Basel II: Giải pháp tái cơ cấu đột phá,
[ truy

cập ngày 03/04/2016
Thảo Minh, 2015, Thời báo Ngân hàng, Basel II tại Việt Nam: Từng bước tiệm cận với chuẩn
quốc tế, [ truy cập ngày 03/04/2016
Lê Tuấn, 2015, Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam, nỗ lực thúc đẩy triển khai
theo đúng lộ trình thực hiện Basel II, Tạp chí Ngân hàng số 8 tháng 4/2015, trang 38, 39.

19



×