Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu về tham nhũng, hậu quả và cách khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.3 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Tham nhũng là một căn bệnh phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Vào
những năm 50 cảnh sát Cam-pu-chia đã nói không úp mở rằng: làm ruộng ăn
lúa, làm làng ăn hối lộ. Mới đây chủ tịch Đảng cầm quyền Um nô, Thủ tướng
Malaixia - Mahathir Mohamad đã khóc trước đại hội đảng về nạn tham nhũng...
Còn ở Việt Nam từ thời Hồng Đức và Gia Long đã có các bộ luật để chống tham
nhũng. Thời Minh Mạng có "phép làm liêm", thời Tự Đức có "chính sách báo
liêm" của Nguyễn Trường Tộ. Ngày nay tham nhũng đã trở thành quốc nạn, là 1
trong 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Có thể nói tham nhũng là căn
bệnh hiểm nghèo gắn liền với mọi Nhà nước, bởi lẽ chừng nào còn Nhà nước thì
còn quyền lực. Cuộc đấu tranh để loại bỏ những người sử dụng sai quyền lực ra
khỏi bộ máy nhà nước các cấp là cuộc đấu tranh lâu dài, liên tục bền bỉ và kiên
định của mọi nhà nước, chống mạnh thì thịnh, chống yếu thì suy, ngoài ra không
có con đường nào khác.
Ở nước ta từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN là con đường hoàn toàn mới
mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính
sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên hệ
thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn bản pháp quy vừa mới ban hành
đã sớm lạc hậu với thực tiễn, tạo ra nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng. Mặt khác, bước
vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy
xã hội phát triển, nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha
hóa, đánh mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm
giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của chúng ta
trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh nghiệm để cải
cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên
một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm, tình hình đó cùng với hệ thống thủ
1

1



tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ
quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra
chất lượng và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích
cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Chính vì vậy em đã chọn đề tài:
"Tìm hiểu về tham nhũng, hậu quả và cách khắc phục".

2

2


CHƯƠNG I
NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG VÀ
TÁC HẠI CỦA NÓ
I. KHÁI NIỆM VỀ THAM NHŨNG
1. Quan niệm về tham nhũng của một số quốc gia trên thế giới
+ Nước Đức: Tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót,
thường xảy ra đối với công chức có quyền hành (Từ điển bách khoa của Đức).
+ Nước Áo: Tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột.
+ Thụy Sỹ: Tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của
tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước. Đó là hành vi phạm pháp để
phục vụ lợi ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy Sỹ).
+ Nước Pháp: Tham nhũng bao gồm những hành vi lạm dụng quyền hạn
để thu vén lợi ích vật chất.
2. Khái niệm về tham nhũng của Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: "Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để
nhũng nhiễu dân và lấy của".
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của
viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật

kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham
nhũng ngày 26-2-1998 cũng ghi rõ trong điều 1: "Tham nhũng là hành vi của
những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để
tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho
tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ
quan, tổ chức. Tham nhũng là vật vản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội,
là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nước".
Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau song tham nhũng được
hiểu khá thống nhất trong văn hóa pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi
3

3


dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân hay
nói một cách khác tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp
công quyền hay nguồn lực tập thể.
II. HÀNH VI VÀ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN HÀNH VI
THAM NHŨNG.
1. Khái niệm về hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của
một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật qui định, đó là các hành vi có ý
thức, có chủ định.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi của một số cá nhân hoặc một nhóm người
trong đó có kẻ cầm đầu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ thân
quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có
tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này
đang có xu hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng và có hai
đặc trưng nổi bật: một là xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác

với hoạt động cá nhân, loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với những
hình thức chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm giả có
tổ chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu là xâm chiếm
vốn của Nhà nước, hai là được sự hoàn thiện với sự tham gia của quyền lực của
một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu
ngạch.
Về hình thức tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua các hành vi tham ô, hối
lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu tư lợi, dùng tiền tài làm càn
vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền, chiếm đoạt quyền lực...
Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách:
kết cấu bên trong, móc ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện

4

4


kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên khó bị
phát hiện.
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói chung
tập trung vào nơi có tiền bạc, nguồn lực, quyền hạn, hợp đồng, tài chính, chức
vụ, cơ hội, .... cho nên các lĩnh vực có tỷ lệ thành án cao trên thế giới ngày nay
vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhập khẩu, dự trữ quốc
gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng các đề án nước ngoài, các nơi cấp
phép hoạt động hoặc thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu ...
3. Động cơ tham nhũng
Động cơ tham nhũng được hình thành từ các yếu tố cơ bản như lòng tham,
ham muốn vật chất, lòng ham địa vị và quyền lực cao, muốn làm giàu một cách
nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn người về lợi ích hoặc còn do
nhiều yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp

nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu nhập và địa vị
công việc của mình.
4. Mục đích tham nhũng
Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà người phạm tội đặt ra
trong óc mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi phạm tội và khi có điều kiện
khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện thực.
5. Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam
Các hình thức cơ bản của tham nhũng ở nước ta hiện nay vẫn là tham ô,
hối lộ, dựa vào quyền lực để sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu lợi riêng, dùng
tiền để làm chuyện phi pháp và các thủ đoạn mà kẻ phạm tội triệt để lợi dụng là
những sơ hở của pháp luật, chính sách, trong các biện pháp tổ chức, quản lý và
điều hành. Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng và phức tạp nhưng thường tập trung ở
các dạn sau:
- Có địa phương, đơn vị ra những chỉ thị, nghị quyết không đúng với
chính sách, pháp luật của Nhà nước để thu lợi bất chính, phổ biến là lấy đất công
để chia nhau, lấy đất của nông dân để bóc lột dân như một kiểu phát canh thu tô.
5

5


- Đề ra hàng loạt các khảo bắt nông dân đóng góp, bưng bít thông tin,
thiếu công khai minh bạch để xà xẻo, tư túi.
- Gây khó khăn, sách nhiễu để đòi hối lộ dưới nhiều hình thức kể cả mua
bằng, bán điểm.
- Vừa là bên A, vừa có quyền chỉ định bên B để hưởng hoa hồng, tham
nhũng lớn trong các chương trình, dự án kể cả các chương trình, dự án nghiên
cứu khoa học.
- Khi xây dựng thì định mức kinh tế - kĩ thuật nâng cao lên, khi thực hiện
thì lắt léo để giảm xuống, có lúc có công trình còn trên dưới 50% lấy chênh lệch,

chia chác làm cho hàng loạt công trình mặc dù được hội đồng nghiêm thu đánh
giá tốt những mới sử dụng đã hư hỏng.
- Lợi dụng buôn bán vận chuyển, đi nước ngoài câu kết với bọn "buôn lậu
thế kỷ", có tính quốc tế (nhập tàu, xe cũ, máy móc lạc hậu...) bất chấp hậu quả
cho dân và nền kinh tế miễn là có chênh lệch, có hoa hồng.
- Thông đồng với nhau để vay tiền ngân hàng, tiền nước ngoài (như
ODA...) đến hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng mà không tính đến hiệu quả sử
dụng.
- Sử dụng tiền quỹ công, tiền tín dụng ưu đãi người nghèo, gia đình chính
sách để cho vay lấy lãi, buôn bán quỹ đen, mua tặng phẩm có giá trị lớn tặng
nhau...
- Tạo thành tích giả để tham ô dưới hình thức tiền thưởng, quà cáp, biếu
xén nhau ngày lễ, ngày tết, việc hiếu hỷ đến hàng chục, hàng trăm triệu đồng.
- Tranh nhau hàng xuất khẩu chạy chọt quota để lấy ngoại tệ mua hàng
tiêu dùng xa xỉ về bán lãi chia nhau gây lãng phí và rối loạn thị trường.
- Lập những "dự án lừa" trồng cây trên giấy, thành lập các "công ty ma"
để hoàn thuế giá trị gia tăng để lấy tiền Nhà nước.
- Thậm chí còn có tình trạng ăn cả tiền cứu trợ người đói nghèo, xã khó
khăn, ăn chặn tiền ủng hộ đồng bào lũ lụt....

6

6


Ngoài các thủ đoạn trên, kẻ phạm tội tham nhũng còn lợi dụng triệt để sự
buông lỏng về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát để phạm các tội tham ô, hối lộ, sử
dụng vốn vào hoạt động không đúng mục đích....
III. TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG
1. Tham nhũng là kẻ thù của nhân dân.

Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định: "Tham nhũng là kẻ thù nhuy hiểm của
nhân dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó không mang gươm mang súng mà
nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần trong
sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần
- kiệm - liêm - chính".
Tham nhũng còn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân đối với
bộ máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của
sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo: "Nếu có cái gì đó có thể
triệt tiêu được chủ nghĩa xã hội thì đó chính là tham nhũng, quan liêu". Đây
cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại đại hội lần thứ 6. Đó là bài học
lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là bài học
mà ông cha ta đã truyền lại cho con cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng nói: "Người
dân vốn không hài lòng, sợ hãi thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta, để dân khinh
là mất nước".
2. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội kéo
lùi sự phát triển tùy theo quy mô và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng đã gây
thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô la của Nhà nước. Chi
phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định nhưng một số công trình nghiên
cứu đã đưa ra đó là:
+ Tăng từ 3 - 10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
+ Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ và
tham nhũng.
7

7


Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với nền kinh
tế: chỉ riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số tiền tham nhũng

trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng 70% số nợ nước ngoài của
nước này. Tại Việt Nam với mức thu nhập bình quân đầu người vào khoảng 400
USD/năm nhưng những vụ tham nhũng gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế
vẫn diễn ra hàng năm điển hình như vụ án Minh Phụng - EPCO đã chiếm đoạt
hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4 triệu USD của Nhà nước. Ngoài ra tính đến khi vụ án
bị khởi tố ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại 115 tỷ đồng và 596.303 USD là
phí bảo lãnh và lãi phát sinh của các khoản thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó còn là
những vụ gây thiệt hại nhiều đến tiền của Nhà nước và nhân dân như vụ
Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt Nam Định khoảng 900 tỷ đồng.... Đặc biệt
hiện nay tình trạng tham nhũng ở Việt Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn ra
mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ bản, hoàn thuế giá trị gia tăng, lạm dụng
quyền lực để bản thân và gia đình tham nhũng....
3. Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hóa hệ thống pháp
luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nước
Tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật
chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ
làm tầm thường hóa hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không
thể giữ vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước
trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù phá hoại, xâm lược. Nếu các nhà hành
pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước.
Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống
hành pháp làm cho Nhà nước trở thành đối lập và gánh nặng cho công dân.
Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì
những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hóa cấp trên làm cho bộ máy trở thành
quan liêu, chung sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội
ngũ viên chưa tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên
trong của hệ thống hành pháp quốc gia. Tham nhũng sẽ làm cho quần chúng mất
8

8



đi sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và đây cũng là
nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà nước.
Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh
tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là
giặc nội xâm nguy hiểm. Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng
định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn
của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều biện pháp
khắc phục, song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường
xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả
các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện pháp cấp bách
với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiện
toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm
kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng
đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan
đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống
tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải
gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các
hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và
nhận hối lộ.
Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người, có thể từ thời kỳ
xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước. Do tác hại của tham nhũng là
vô cùng lớn nên việc phòng chống tham nhũng luôn được coi là nhiệm vụ bức
xúc hàng đầu của các quốc gia.
IV. NGUYÊN NHÂN CỦA TỆ THAM NHŨNG
Những năm qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân dân ta
diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến nay có thể nói
nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản. Tình hình vẫn diễn ra
phức tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức tinh vi, có

9

9


trường hợp câu kết, móc nối ngang dọc giữa các phần tử thoái hóa biến chất
trong các cơ quan Nhà nước và ngoài xã hội, rất khó phát hiện làm cho cuộc đấu
tranh chống tham nhũng hết sức khó khăn. Vậy do những nguyên nhân chủ yếu
nào?
1. Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng nguyên nhân đầu tiên
có tính chất sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra.
Hồ Chủ Tịch đã nói: "Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã
hội. Nó do lòng tư lợi ích kỷ, hại nhân dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột
người mà ra."
Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vận động
vật chất khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều tính đến lợi ích
hoặc mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu chính là cơ sở tư
tưởng của các hành vi tham nhũng, không có tư tưởng tư lợi ích kỷ sẽ không có
hành vi tham nhũng thiệt người lợi mình.
2. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách ở nước ta còn nhiều kẽ hở
2.1. Hệ thống pháp luật
2.1.1. Trên phương diện xây dựng pháp luật
Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, pháp luật được coi là phương
tiện cứng rắn nhất và không thể thiếu được. Lịch sử đấu tranh chống tham nhũng
trên phạm vi toàn thế giới cho thấy, nếu thiếu phương tiện pháp luật thì cuộc đấu
tranh này chỉ là cuộc chiến nửa vời dọa tham nhũng chứ không diệt được tham
nhũng. Vai trò của pháp luật trong đấu tranh chống tham nhũng được thể hiện ở
nội dung khác nhau, từ việc xác định thế nào là tham nhũng, các loại hành vi
tham nhũng, các biện pháp phòng ngừa, các loại chế tài cho tới hình thức và
biện pháp xử lý tham nhũng. Ở một cách phân chia tương đối, pháp luật liên

quan đến tham nhũng được sử dụng trên hai phương diện: Phòng ngừa tham
nhũng và xử lý tham nhũng.
2.1.1.1. Pháp luật về phòng ngừa tham nhũng được thể hiện ở rất nhiều
ngành luật, nhiêu văn bản khác nhau: từ các văn bản về tổ chức bộ máy Nhà
10

10


nước, văn bản về các lĩnh vực kinh tế xã hội đến pháp luật đấu tranh trực diện
với tham nhũng. Nó có thể là ngành luật hiến pháp, luật đất đai, luật tài chính ngân hàng, luật hành chính, luật dân sự, luật kinh tế.... Một đòi hỏi đối với các
văn bản pháp luật này là phải đồng bộ, thống nhất, phải tạo được khuân mẫu
pháp lý có khả năng loại trừ sự nảy sinh của các hành vi tham nhũng. Tuy nhiên
đánh giá một cách toàn diện hệ thống pháp luật này, chúng ta dễ dàng nhận thấy
sự bất cập và còn nhiều kẽ hở, là mảnh đất sinh sôi, phát triển của tham nhũng,
đặc biệt là các quy định trong lĩnh vực quản lý tài chính, xét duyệt các dự án đầu
tư, đấu thầu, duyệt chi, cấp phát ngân sách, cho vay, pháp luật về xây dựng cơ
bản và quản lý tài chính trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, xuất nhập khẩu, quản
lý đất đai, giải phòng mặt bằng... Những biểu hiện cụ thể của sự bất cập đó là sự
thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, còn nhiều kẽ hở, chưa thực sự phục vụ nhân
dân, thiếu văn bản hướng dẫn kịp thời dẫn đến cách hiểu và giải thích khác
nhau...Những văn bản quy định về các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp
dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, gây phiền hà, sách nhiễu nhân dân để tham
nhũng.
2.2. Cơ chế chính sách
Nhiều chế độ chính sách còn mang tính ban phát, nên chưa loại trừ được
cơ chế xin-cho, tạo ra một tầng lớp độc quyền, đặc lợi và những tiêu cực khó
kiểm soát. Một chế độ đãi ngộ cán bộ, công chức còn mang tính bao cấp như đất
đai, nhà ở, phương tiện...dẫn tới việc vận dụng tùy tiện. Tiền lương chưa đảm
bảo cuộc sống nên việc tìm thêm nguồn thu nhập khác trở thành phổ biến. Chính

hệ thống pháp luật không chuẩn xác, do xử tội tham nhũng quá nhẹ.
Công tác cải cách hành chính đạt hiệu quả chưa cao. Nạn sách nhiễu tham
nhũng đang cải tạo nên rào cản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
3. Do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ quan Đảng
và Nhà nước.
Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính chất tham nhũng phát
triển phổ biến và gây hậu quả hết sức nghiêm trọng như hiện nay chủ yếu và
11

11


trước hết do những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của nhiều cơ quan
Đảng và Nhà nước và do sự thoái hóa biến chất của một bộ phận cán bộ, Đảng
viên.
Ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên còn yếu. Biểu hiện
cụ thể là chưa có cán bộ, đảng viên nào phạm pháp hoặc có hành vi tham nhũng,
tiêu cực, lãng phí được phát hiện do kết quả của phê bình và tự phê bình trong
nội bộ. Một số vụ việc có liên quan đến tham những, tiêu cực, lãng phí bị quần
chúng, công luận phát hiện, tố giác, song các tổ chức đảng liên quan, tổ chức
đảng cấp trên, các cơ quan thanh tra, kiểm tra hoặc không biết hoặc biết nhưng
không tích cực ngăn chặn để những hành vi đó phát triển thành những vụ án
nghiêm trọng.
5. Do bản chất của nền kinh tế thị trường
Ngày nay sự phát triển của kinh tế thị trường là không thể phủ nhận được,
tuy nhiên do bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự do hóa cạnh tranh
cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tệ tham nhũng. Trong nền kinh tế
thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên rất cao. Có không ít tổ chức, cá
nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong sự cạnh tranh khốc liệt đã dùng
mọi thủ đoạn trong đó thủ đoạn hối lộ được sử dụng rất phổ biến.

6. Trình độ dân trí
Nhìn chung trình độ dân trí còn thấp nên nhân dân chưa có nhiều khả
năng tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
Nhà nước và của cán bộ, công chức. Mặc dù gần đây đã có quy chế dân chủ,
song nhìn chung việc thực hiện còn nhiều hạn chế.
7. Cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng động chạm đến những cán bộ có
chức có quyền, có khi động chạm đến cả một tập thể ngành, cơ quan đơn vị,
động chạm đến lợi ích thiết thực, đến thể diện, uy tín của cán bộ. Hơn nữa, tệ
tham nhũng vẫn còn cơ sở kinh tế, xã hội để tồn tại. Vì thế cuộc đấu tranh chống
tệ tham nhũng là một quá trình lâu dài, rất khó khăn phức tạp.

12

12


CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
I. VAI TRÒ CỦA CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG
Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Kinh tế - xã hội có những bước phát triển
khá, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh - quốc phòng được giữ vững. Tuy
nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức
nghiêm trọng. Một trong những nguy cơ làm cản trở công cuộc đổi mới là tệ
tham nhũng. Tham nhũng cùng với sự lãng phí đang diễn ra trầm trọng, kéo dài,
gây bất bình trong nhân dân, gây ra thiệt hại lớn về tài sản Nhà nước, làm băng
hoại đạo đức cán bộ, đảng viên, xâm hại trực tiếp đến công lý và công bằng xã
hội.
Nhận thức rõ những nguy hại đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương biện pháp đấu tranh với tệ tham nhũng và đã đạt được những kết quả ban

đầu. Tuy nhiên, tham nhũng hiện nay vẫn đang diễn ra hết sức phổ biến, có nguy
cơ lan tràn ở mọi ngành, mọi cấp, trong mọi lĩnh vực. Rõ ràng, cần phải có một
nhận thức đầy đủ hơn về bản chất và nguyên nhân của tệ tham nhũng để từ đó có
những giải pháp hữu hiệu hơn.
Cần phải có một loạt các biện pháp để đấu tranh với tệ tham nhũng, trong
đó các biện pháp phòng ngừa có một ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì:
1. Các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên và có
tác dụng rộng khắp đến nhiều đối tượng. Chính tính chất thường xuyên, liên tục
đó sẽ có tác dụng ngăn chặn ngay từ trong mầm mống những hành vi tham
nhũng.
2. Phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham
nhũng xảy ra. Rõ ràng việc ngăn chặn ngay từ đầu hành vi tham nhũng cũng
đồng nghĩa với việc đã chủ động ngăn chặn và giảm thiểu những thiệt hại có thể
xảy ra từ hành vi tham nhũng. Thiệt hại ở đây không chỉ về kinh tế, có thể đo
được bằng con số cụ thể, mà bao gồm cả sự thiệt hại về con người và nhìn một
13

13


cách rộng hơn là sự xâm hại đến trật tự kỷ cương phép nước, công lý và công
bằng xã hội, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, vào sự
nghiệp đổi mới đất nước.
3. Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng
nhiều khi đồng nghĩa với những biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực
hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản thân bộ máy quản lý và
phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung.
1. Đối với các cơ quan đảng.
1.1. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng phẩm chất người Đảng viên.
1.2. Tăng cường quản lý đội ngũ cán bộ Đảng viên

1.3. Đưa tự phê bình và phê bình vào nề nếp sinh hoạt đảng thường xuyên
theo điều lệ Đảng và tinh thần nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khoá VIII.
1.4. Đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên,
nhất là những người giữ chức vụ trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước
có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng ở các ngành,
cơ quan đơn vị mình phụ trách .
2. Đối với các cơ quan Nhà nước.
2.1. Bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước nhất là cơ
chế quản lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công.
2.2. Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước bảo đảm tinh gọn, nhiệm vụ cụ thể
rõ ràng, đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ những thủ tục gây phiền hà, sách
nhiễu doanh nghiệp và công dân, thủ tục công khai hoá thủ tục hành chính.
2.3. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng
lương, đồng thời xử lý nghiêm khắc những người có hành vi tham nhũng, nâng
cao chất lượng, phẩm chất chính trị, tính kỷ luật và chuyên môn của cán bộ,
công chức.
2.4. Thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nước về những điều
cán bộ, công chức không được làm cũng là biện pháp phòng ngừa tham nhũng
có hiệu quả.
14

14


2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát kịp thời phát hiện
và ngăn chặn hành vi tham nhũng, tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động
công cụ của cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, nhất là những quản lý
nhiều tài sản, con người hoặc có quan hệ quản lý trực tiếp đối với các doanh
nghiệp và công dân nhằm ngăn chặn hành vi sách nhiễu, vòi vĩnh khi thi hành
công vụ, nhiệm vụ, kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung những sơ hở, khiếm

khuyết của cơ chế chính sách để dẫn đến tham nhũng.
3. Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân.
3.1. Phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và có cơ chế để nhân dân
thực hiện quyền giám sát của mình và các cơ quan nhà nước và cán bộ, công
chức nhà nước, tích cực phát hiện và tố cáo những hành vi và biểu hiện tham
nhũng. Cần tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
3.2. Cơ quan thông tin đại chúng tích cực tham gia phát hiện các hành vi
tham nhũng đồng thời cũng đấu tranh với những biểu hiện lợi dụng chống tham
nhũng để đấu đá, gây xấu nội bộ và làm ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị,
xã hội.

15

15


KẾT LUẬN
Bằng các giải pháp đấu tranh cơ bản được thực hiện để chống tham nhũng
nêu trên. Chính phủ đang thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 4
theo tinh thần Nghị quyết đại hội IX của Đảng là ".....Tiếp tục đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính
trị ở các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, gắn chống tham nhũng với
chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức
quyền để làm giàu bất chính".
Tham nhũng đã được Đảng chỉ mặt, đặt tên là "Một bộ phận cán bộ, đảng
viên có chức, có quyền trong cơ quan của Đảng và Nhà nước". và chống tham
nhũng thực sự là một cuộc chiến, do vậy, trong tổ chức thực hiện, thiết nghĩ Bộ
chính trị, Nhà nước cần thay đổi cơ chế "vừa đá bóng, vừa thổi còi", đồng thời
có chính sách cụ thể để khuyến khích, bảo vệ quần chúng nhân dân mạnh dạn tố
cáo, vạch mặt tham nhũng thì cuộc chiến chống tham nhũng chắc chắn thắng lợi,

lấy được lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước.
Với đề tài: "Tìm hiểu về tham nhũng, hậu quả và cách khắc phục" đã
giúp em nâng cao được nhận thức về vấn đề này đồng thời góp tiếng nói chung
trong cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà
nước ta đang tiến hành.

16

16



×