Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực trạng thương mại việt nam kể từ khi hội nhập WTO đến nay và biện pháp phát triển thương mại trong những năm sắp tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.02 KB, 13 trang )

Bài tập
Câu 1: Khái quát thực trạng thương mại Việt Nam kể từ khi hội nhập
WTO đến nay và biện pháp phát triển thương mại trong những năm
sắp tới.

Trả lời:
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, buộc các nước phải thực hiện các
chiến lược mở cửa kinh tế nhằm tranh thủ thời cơ, phát huy những lợi thế và
vượt qua thách thức thì mới có thể phát triển nhanh nhìn kinh tế của quốc
gia mình đóng góp chung vào tăng trưởng kinh tế khu vực toàn cầu. Đối với
các nước đang và kém phát triển trong đó có Việt Nam thì ra nhập tổ chức
thương mại thế giới là con đường tốt nhất để rút ngắn tụt hậu so với các
nước khác và có thể phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình
trong phân công hợp tác quốc tế.
Kể từ khi ra nhập WTO, Việt Nam đã có những cơ hội lớn: Tiếp cận
thị trường thương mại toàn cầu, tăng khả năng thu hút vốn, công nghệ và
học hỏi được những kỹ năng quản lý của người nước ngoài. Mặt khác, để tận
dụng những cơ hội đó phải phát huy những lợi thế cao nhất của đất nước
phục vụ cho quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nền kinh tế thị trường.
Là thành viên WTO, Việt Nam tham gia đầy đủ các định chế kinh tế
toàn cầu và hẳn nhiên sẽ chịu tác động trực tiếp, tức thì từ mọi biến động của
kinh
tế
thế
giới.
Việc tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, một mặt sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy hoạt động kinh tế, song mặt khác, nền kinh
tế sẽ phải thường xuyên chịu áp lực từ chu chuyển hàng hóa, tín dụng, vốn
đầu tư quốc tế gắn với tình trạng bất ổn về giá cả hàng hóa, dịch vụ, khủng


hoảng kinh tế khu vực và thế giới.
Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tình hình kinh tế quốc tế và
trong nước tương đối ổn định, do vậy, các chỉ số kinh tế của Việt Nam khá
tích cực: GDP tăng 8,46%, CPI tăng 8,3%. Năm 2008, đã diễn ra hai trạng
thái trái ngược khi trong 3 quý đầu năm, tình trạng lạm phát cao, nhưng
những tháng cuối năm lại giảm phát do suy thoái kinh tế thế giới.
Năm đầu tiên Việt Nam gia nhập WTO, tình hình kinh tế quốc tế và
trong nước tương đối ổn định, do vậy, các chỉ số kinh tế của Việt Nam khá
tích cực: GDP tăng 8,46%, CPI tăng 8,3%. Năm 2008, đã diễn ra hai trạng
thái trái ngược khi trong 3 quý đầu năm, tình trạng lạm phát cao, nhưng
những tháng cuối năm lại giảm phát do suy thoái kinh tế thế giới.

1


Năm 2009 và 2010, bất ổn kinh tế toàn cầu tiếp tục làm giảm tốc độ
tăng trưởng kinh tế (năm 2009, GDP tăng 5,32%, CPI tăng 6,88%, trong khi
năm 2010, con số tương ứng là 5,83% và 9,54%. Năm 2011, GDP tăng
5,89%, CPI tăng trên 18%).
Phải chăng vì hội nhập sâu rộng hơn với thế giới, nên kinh tế Việt
Nam chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu? Hay vì
nước ta chưa có được những dự báo tin cậy về sự biến động trên thị trường
hàng hóa và tiền tệ thế giới, không chủ động đề ra cơ chế phòng tránh, đối
phó rủi ro, chưa tận dụng hết cơ hội khi đã là thành viên WTO? Câu trả lời
nằm ở vế thứ hai.
Một khi đã chấp nhận luật chơi toàn cầu thì vấn đề đặt ra là làm thế
nào để mỗi quốc gia vừa phát huy được lợi thế so sánh động, vừa chủ động
đối phó rủi ro để bảo vệ lợi ích dân tộc trong một thế giới vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh.
Yếu tố quyết định trong cuộc chơi toàn cầu là năng lực cạnh tranh ở

ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Những thành quả nổi bật
của thương mại quốc tế trước hết là chất lượng, kiểu dáng, giá cả hàng hóa
Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên các thị trường chính là Mỹ, Liên minh
châu Âu (EU) và Nhật Bản. Việc thu hút hàng năm trên 10 tỷ USD vốn FDI
thực hiện chủ yếu nhờ môi trường đầu tư tại Việt Nam được cải thiện, hấp
dẫn hơn với những nhà đầu tư lớn đầy tiềm năng.
Tuy vậy, tiến bộ là chưa đủ khi thị trường thế giới đang trong giai
đoạn biến động khó lường, khi các quốc gia và doanh nghiệp hàng đầu thế
giới thường xuyên thay đổi theo xu thế tiếp cận mô hình tối ưu, khi một số
nước như Trung Quốc, Ấn Độ tận dụng cơ hội từ suy thoái kinh tế của các
nước công nghiệp phát triển để vươn lên thành những nền kinh tế hàng đầu
thế giới.
Trong khi đó, qua 5 năm là thành viên WTO, việc cải cách thể chế của
Việt Nam theo hướng tự do hóa thương mại và đầu tư vẫn chưa khắc phục
được nhược điểm thiếu tính hệ thống, thiếu minh bạch và thiếu ổn định.
Năng lực cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp và của quốc gia
chưa đáp ứng được yêu cầu của giai đoạn mới. Nguồn nhân lực chất lượng
cao còn hạn chế là trở ngại lớn trong việc tiếp nhận các dự án FDI công nghệ
cao, hiện tượng thiếu chuyên gia giỏi, nhà quản lý có năng lực đã trở thành
phổ biến...
Là nước công nghiệp hóa sau, Việt Nam vừa phải khắc phục nhược
điểm của tập quán kinh doanh, quản lý theo cơ chế cũ, vừa phải tiến cùng
thời đại, nên nhiệm vụ trở nên nặng nề, phức tạp hơn, đòi hỏi phải đổi mới
toàn diện thể chế kinh tế thị trường, cấu trúc bộ máy và cơ chế quản lý nhà

2


nước, quản trị doanh nghiệp, thiết lập mối liên hệ có hiệu quả giữa Nhà nước
với thị trường, khai thác và sử dụng tốt hơn mọi nguồn lực.

Dưới đây là một số dẫn chứng về năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và
cấp tỉnh, thành phố từ hai công trình nghiên cứu.
Về môi trường kinh doanh của Việt Nam, báo cáo tại Diễn đàn Doanh
nghiệp Việt Nam tháng 12/2011 cho thấy, trong số 240 doanh nghiệp tham
gia điều tra (80% doanh nghiệp trong nước, 20% doanh nghiệp FDI) có 35%
doanh nghiệp đánh giá sự chuyển biến tích cực trên nhiều lĩnh vực, trong đó
có 61% về cải thiện thủ tục hành chính; 17,09% về tiếp cận đất đai; 20,94%
về thủ tục thuế.
Tuy vậy, theo thang điểm 4 là tốt nhất, môi trường kinh doanh năm
2011 của Việt nam đạt mức trung bình 2,01 điểm, thấp hơn 2,52 điểm năm
2010. Trong 14 lĩnh vực cụ thể về môi trường kinh doanh, không có lĩnh vực
nào đạt được điểm 3. Tiếp cận thông tin, luật pháp nhà nước đạt 2,7 điểm, hệ
thống thuế và quản lý thuế đạt 2,41 điểm, chi phí kinh doanh đạt 2,42 điểm,
xây dựng đạt 2,23 điểm (giảm so với 2,55 điểm năm 2010 và 2,64 điểm năm
2009). Quản lý kinh tế vĩ mô bao gồm chống lạm phát, điều hành lãi suất, tỷ
giá được xếp vào ba nhóm mà doanh nghiệp lo ngại nhất trong năm 2011.
Doanh nghiệp FDI đánh giá hai lĩnh vực xếp loại kém là quản lý kinh
tế vĩ mô (đạt 1,9 điểm và tiếp cận ngoại tệ đạt 1,93 điểm). Cũng như những
năm trước, doanh nghiệp FDI đánh giá môi trường kinh doanh bi quan hơn
doanh nghiệp trong nước. Điều đó cũng dễ hiểu vì họ thường so sánh với các
nước trong khu vực như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan...
Về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thành phố (PCI), năm 2010, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Dự án Sáng
kiến cạnh tranh Việt Nam của Cơ quan Phát triển quốc gia Hoa Kỳ (USAID)
đã điều tra 7.300 doanh nghiệp đối với 9 chỉ số PCI.
Một kết luận đáng quan tâm là chất lượng điều hành kinh tế của cấp
tỉnh dường như ít được cải thiện khi chỉ có 3 địa phương là Đà Nẵng (69,77
điểm), Lào Cai (67,95 điểm) và Đồng Tháp (67,22 điểm) được xếp hạng rất
tốt, giảm 3 địa phương so với 2009. Có 9 địa phương được xếp hạng tốt
(2009 là 10), 5 tương đối thấp (2009 là 4).

Mặc dù tư liệu điều tra chọn mẫu chỉ có giá trị tham khảo, nhưng cũng
phản ánh khá rõ nét năng lực cạnh tranh quốc gia và địa phương của nước ta.
Thực trạng đó đang đòi hỏi phải có một hệ thống giải pháp hữu hiệu để cải
thiện trong những năm sắp tới.
Năng lực cạnh tranh hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam tuy đã được
nâng cao, nhưng về trung và dài hạn đang đòi hỏi hình thành chiến lược sản
phẩm của từng loại hàng hóa thích ứng với thị trường, công nghệ để mỗi
năm tăng thêm số thương hiệu Việt Nam có tín nhiệm trên thế giới. Muốn
3


làm được điều đó, trước hết cần đầu tư nhiều hơn vào nghiên cứu & phát
triển để tạo được những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu chiếm được thị
phần ngày càng tăng hoặc tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
ra, cần coi trọng hơn công tác tiếp thị, quảng bá sản phẩm, thương
hiệu, hình ảnh của doanh nghiệp, đất nước, con người Việt Nam ở nước
ngoài nhất là ở Mỹ, EU và Nhật Bản. Các hiệp hội ngành nghề cần đảm
nhận và được Nhà nước tạo điều kiện về chính sách, cơ chế, quyền hạn trong
việc tổ chức hợp tác, phân công doanh nghiệp từng ngành hàng để tránh và
chấm dứt tình trạng cạnh tranh nội bộ trong mua, bán hàng, đồng thời phối
hợp hành động trên từng thị trường với từng đối tác.
Việc giao nhiệm vụ cho đại diện ngoại giao ở nước ngoài chỉ đạo phối
hợp hoạt động ngoại giao - kinh tế sẽ tăng hợp lực giữa các tổ chức và doanh
nghiệp Việt Nam ở từng quốc gia.
Việc tiếp tục thực hiện lộ trình mở cửa thị trường theo cam kết WTO
cần được đặt trong bối cảnh Việt Nam cùng các nước ASEAN đẩy nhanh
việc hợp tác trong khung khổ Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),
tiến tới thị trường thống nhất của 10 quốc gia theo hướng Cộng đồng Kinh tế
ASEAN, Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc, ASEAN - Nhật
Bản…, cũng như các hiệp định song phương giữa Việt Nam với một số nước

theo hướng tự do hoá thương mại.
Giai đoạn 2011- 2015, các quan hệ đa phương và song phương giữa
Việt Nam với các tổ chức quốc tế và các quốc gia đan xen nhau, đa dạng,
phức tạp hơn, đòi hỏi phải thống nhất nhận thức, hành động trên cơ sở tư
duy phù hợp với xu thế toàn cầu hóa để đưa đất nước tiến cùng thời đại,
nâng cao hơn nữa vị thế của Việt Nam trong ASEAN, ở châu Á cũng như
trên thế giới.
Do đó, trên cơ sở tổng kết việc thực hiện Chương trình Hành động của
Chính phủ ngày 27/2/2007, cần xây dựng Chương trình Hành động của
Chính phủ về Hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2012- 2015 để hướng dẫn
các ngành, các cấp thống nhất hành động, nhằm chủ động trong việc tham
gia các FTA song phương và đa phương, từ đó nâng cao hơn nữa hiệu quả
hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế.
Biện pháp:
Tham gia WTO đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam nhiều lợi ích và
cơ hội thuận lợi có thể khai thác phục vụ phát triển kinh tế. Trong thời gian
qua, Việt Nam đã tận dụng và khai thác khá thành công các lợi ích và cơ hội,
nhờ đó Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển
kinh tế, đặc biệt là đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và đứng trong số ít
nước duy trì được mức tăng trưởng GDP cao nhất thế giới (8,5% năm 2007,
4


6,2 % năm 2008), thậm chí mặc dù bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng
hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu vừa qua và trong khi phần lớn các nền kinh
tế trên thế giới rơi vào suy thoái thì nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được
mức tăng trưởng 5,2 %. Dưới đây, xin nêu những mặt sáng nổi bật của nền
kinh tế Việt Nam thời gian qua.
Xuất nhập khẩu tăng mạnh và đóng vai trò then chốt đối với tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam

Thuận lợi hết sức quan trọng là ngay sau khi gia nhập WTO, Việt
Nam lập tức được hưởng sự đối xử bình đẳng trong thương mại và mở cửa
thị trường của 150 nước thành viên. Các hàng rào thuế quan phi WTO mà
hàng hoá Việt Nam bị áp đặt một cách bất lợi bị bãi bỏ, nhờ đó Việt Nam có
thể tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường các nước
thành viên. Mặt khác, với việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường Việt
Nam và do yêu cầu đầu vào của nhiều ngành sản xuất, nhập khẩu vào Việt
Nam cũng tăng rất mạnh. Trong hai năm 2007 và 2008, mức tăng xuất nhập
khẩu của Việt Nam đạt bình quân khoảng 25 %/ năm. Năm 2009, do khủng
hoảng toàn cầu nên tỷ lệ tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam bị tụt xuống
đáng kể, nhưng vẫn ở mức cao so với nhiều nền kinh tế khác. Điểm tích cực
đáng kể nữa là cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tiếp tục thay đổi
theo hướng giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, nông sản chưa chế biến
và tăng dần số lượng cũng như giá trị các mặt hàng hàng chế biến, hàng
công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Phát triển mạnh của hoạt động xuất
nhập khẩu những năm qua là động lực thúc đẩy phát triển các ngành sản
xuất và dịch vụ ăn theo và, do vậy, góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam
trên tổng GDP là trên 170 %. Điều này cho thấy hai điểm quan trọng sau.
Một là, nền kinh tế Việt Nam gắn kết và phụ thuộc quan trọng vào nền kinh
tế và thị trường thế giới. Hai là, thương mại quốc tế là động lực và yếu tố
then chốt của tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
Đầu tư quốc tế tăng ngoạn mục
Việc nhập WTO mở ra cơ hội thuận lợi để Việt Nam thu hút các luồng
vốn đầu tư cả từ trong lẫn ngoài nước dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhờ
lợi thế về nguồn nhân công, đất đai, tài nguyên còn rẻ và trong bối cảnh một
thị trường Việt Nam đầy tiềm năng khá mở và và môi trường đầu tư kinh
doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện thông qua những chính sách
và biện pháp hấp dẫn, Việt Nam trở thành một điểm sáng đối với các nhà
đầu tư. Trong 3 năm qua, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư

lớn. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), cho đến cuối 2005, Việt Nam đã
5


thu hút được tổng số khoảng trên 70 tỷ USD vốn đăng ký. Riêng mấy năm
gần đây, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, FDI vào Việt Nam
tăng vọt từ 12 tỷ USD năm 2006 lên 21 tỷ USD năm 2007 và 64 tỷ USD
năm 2008. Mặc dù năm 2009 có nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề của
cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu, Việt Nam vẫn tiếp tục là một
điểm đến quan trọng của FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký là 21,3 tỷ USD.
Như vậy tổng số FDI đăng ký trong 3 năm qua đã vượt 1,3 lần tổng số FDI
thu hút được của tất cả các năm trước đó cộng lại. Đóng góp của khu vực
FDI vào GDP đạt mức trung bình trên dưới 40% trong khoảng 1 chục năm
gần đây. Bên cạnh nguồn FDI, ODA vào Việt Nam cũng liên tục tăng mạnh.
Những năm gần đây, chúng ta thu hút bình quân 5-6 tỷ USD từ nguồn này
cho các dự án phát triển hạ tầng và quốc kế dân sinh. Riêng năm 2009, tổng
số ODA cam kết cho Việt Nam đạt trên 8 tỷ USD. Ngoài ra, thông qua kênh
đầu tư gián tiếp của thị trường chứng khoán, nguồn vốn đổ vào Việt Nam
cũng không ngừng tăng lên từ 2,1 tỷ USD năm 2006 lên 8,9 tỷ USD năm
2007 . Cũng phải kể thêm một nguồn đầu tư quan trọng khác từ kiều hối của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài gửi về trong nước thông qua các
kênh khác nhau ở mức 6-7 tỷ USD/năm trong mấy năm gần đây. Các số liệu
nói trên cho thấy sự tin tưởng của giới đầu tư, chính phủ các nước và các tổ
chức quốc tế vào khả năng phát triển ổn định của nền kinh tế Việt Nam cũng
như sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Những nguồn vốn đầu tư quan
trọng như vậy đổ vào Việt Nam đã giúp duy trì tăng trưởng cao khá ổn định
của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua, đồng thời góp phần thúc đẩy
tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tiến bộ
Hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc gia nhập WTO, cũng đồng

thời đưa Việt Nam vào một quá trình phân công lao động quốc tế trên cơ sở
phát huy các lợi thế của từng nước. Quá trình này tất yếu thúc đẩy việc tái cơ
cấu nền kinh tế Việt Nam. Thực tế cho thấy, cơ cấu nền kinh tế Việt Nam
trong những năm gần đây đã có những chuyển dịch đáng kể theo hướng
công nghiệp hoá hiện đại hoá với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng
tăng và tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm dần. Trong những năm đầu của thập
niên 2000, tỷ lệ các khu vực công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp trong
tổng giá trị nền kinh tế quốc dân còn ở mức lần lượt là 38 %, 39 % và 23 %,
thì đến nay (2008-2009) tỷ lệ tương ứng là 40 %, 39,5 % và 20,5 %. Những
chuyển dịch này là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Những ngành, lĩnh vực có khả năng tiêu thụ nhiều sản phẩm được phát triển
mạnh. Một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, dày da, điện tử có xuất

6


khẩu mạnh và tiêu thụ nhiều ở trong nước đã phát triển rất nhanh trong mấy
năm gần đây.
Cải thiện kinh tế vĩ mô
Trong những năm gần đây, các mặt quan trọng của kinh tế vĩ mô (tài
chính, ngân hàng, tiền tệ) ở Việt Nam phát triển tương đối nhanh và cơ bản
được duy trì trong giới hạn ổn định, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế-xã
hội. Mặc dù chịu tác động mạnh của thiếu hụt mạnh trong cán cân thương
mại và thanh toán quốc tế, của giá cả tăng cao và bội chi ngân sách thường
xuyên, song lạm phát đã được kiểm soát và duy trì cơ bản ở mức dưới hai
con số, do vậy nhìn chung không gây nhiều tác động tiêu cực lớn cho các
hoạt động kinh tế và xã hội.
Yếu kém và thách thức
Bên cạnh những phát triển tích cực cơ bản nói trên, nền kinh tế Việt
Nam cũng có những mặt hạn chế/yếu kém và những thách thức cần phải

khắc phục, đặc biệt là những điểm chủ yếu sau:
Chất lượng của sự phát triển kinh tế chưa cao và tiềm ẩn nguy cơ mất
ổn định
Sự phát triển khá nhanh của nền kinh tế Việt Nam thời gian qua thiên
về lượng nhiều hơn là về chất, đặc biệt còn nhiều mất cân đối và không bền
vững. Công nghiệp tuy phát triển nhanh, nhưng chủ yếu dưới dạng gia công,
chế biến trình độ thấp, giá trị gia tăng hạn chế, sử dụng nhiều lao động, đất
đai và tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường nặng, các ngành công nghệ cao
và dựa trên tri thức chưa phát triển đáng kể. Đầu tư của Nhà nước vẫn còn
dàn trải, kém hiệu quả, thất thoát và lãng phí nhiều. Khu vực doanh nghiệp
nhà nước chậm cải cách, tiêu tốn nhiều nguồn lực xã hội và hiệu quả vẫn rất
thấp. Các cơ sở hạ tầng tuy được quan tâm đầu tư nhiều hơn, song chưa
theo kịp được tốc độ phát triển của nhu cầu và cơ bản vẫn còn ở tình trạng
kém cỏi. Kinh tế đối ngoại tuy có sự phát triển mạnh nhưng cũng còn nhiều
vấn đề, đặc biệt là tình trạng nhập siêu cao liên tục trong nhiều năm, cơ cấu
các mặt hàng xuất khẩu và đối tác chưa thật sự bảo đảm việc duy trì tăng
trưởng ổn định, thậm chí tình trạng phụ thuộc cao của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay vào kinh tế thế giới và thị trường bên ngoài, nhất là lại tập trung
vào một số đối tác thường có vấn đề phức tạp với Việt Nam khiến cho nền
kinh tế Việt Nam rất dễ bị tổn thương. Một số mặt của kinh tế vĩ mô tiếp tục
là vấn đề đáng lo ngại. Mất cân đối cán cân thanh toán lớn do hậu quả của
thâm hụt thương mại quốc tế và có chiều hướng gia tăng, bội chi ngân sách
7


ở mức cao, nợ nước ngoài tiếp tục lớn hơn và đè nặng lên tương lai. Áp lực
lạm phát lớn và đồng tiền Việt Nam tiếp tục mất giá hơn. Hệ thống ngân
hàng đang phát triển và hoạt động tín dụng khó kiểm soát của của nó tiềm ẩn
không ít nguy cơ bất ổn cho nền kinh tế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cạn
kiệt nhanh và môi trường bị phá hoại nặng nề do tình trạng khai thác, phát

triển ồ ạt, bừa bãi, quản lý yếu kém. Phát triển khoa học công nghệ tự thân
chậm và nguồn nhân lực tuy đông nhưng chất lượng chuyên môn và tính kỷ
luật thấp khó đáp ứng được đòi hỏi của phát triển nhanh của nền kinh tế
trong những năm tới.
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung còn thấp
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để cải thiện năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế và hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh,
song kết quả còn nhiều hạn chế. Thực tế 3 năm gần đây, Việt Nam tiếp tục
bị tụt bậc trong bảng xếp hạng cạnh tranh quốc gia của thế giới. Đây là một
thách thức lớn đối với Việt Nam trong những năm tới. Nâng cao năng lực
cạnh tranh là công việc không đơn giản và không thể có được kết quả ngay
trong một thời gian ngắn. Điều này đòi hỏi Nhà nước và các doanh nghiệp
Việt Nam phải có chiến lược lâu dài và nhiều biện pháp tổng thể, đồng bộ,
đầu tư nguồn lực thích đáng.
Cấu trúc thị trường Việt Nam không đồng bộ, bị chia cắt và môi
trường kinh doanh chưa bình đẳng, thiếu sự minh bạch và khả năng dự
đoán trước
Sự phát triển của các thị trường vốn, bảo hiểm, lao động và hàng hoá,
dịch vụ còn lệch pha nhau, đặc biệt là các thị trường vốn, bảo hiểm và lao
động phát triển chậm, chưa theo kịp sự phát triển của các thị trường khác
nên chưa có được sự hỗ trợ đắc lực cần thiết. Đặc biệt, mặc dù đã có sự cải
thiện đáng kể, song môi trường kinh doanh ở Việt Nam vẫn còn những trở
ngại không nhỏ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Tình trạng đối xử không bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp
vấn tồn tại. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn được hưởng những ưu
đãi mà khu vực doanh nghiệp tư nhân không có được, kể cả độc quyền dinh
doanh trong nhiều lĩnh vực. Thực trạng cạnh tranh không bình đẳng này tiếp
tục làm méo mó thị trường, khiến nó không hoạt động một cách bình thường
và gây cản trở, bất lợi cho hoạt động kinh doanh của bộ phận đông đảo các

doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thêm vào đó, tình trạng thiếu minh bạch và
hay thay đổi của các chính sách có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh, các biện pháp kiểm soát hành chính của Nhà nước, thái độ quan liêu,
8


nhũng nhiễu của công chức trong bộ máy công quyền… là những yếu tố làm
giảm tính thuận lợi của môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Đứng trước những cơ hội và thách thức. Chúng ta cần thực hiện
những biện pháp:


Sớm tiến hành tổng kết toàn diện công tác hội nhập những năm qua ở
cả cấp trung ương lẫn địa phương, qua đó rà soát lại toàn bộ các chủ trương,
biện pháp, các lộ trình hội nhập từ các khuôn khổ đơn phương, song
phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực đến toàn cầu (WTO) và các
chương trình hành động, việc thực thi các cam kết, đánh giá đúng những cái
được và chưa được, những mặt mạnh và mặt yếu kém, hạn chế, nguyên
nhân và rút ra các bài học kinh nghiệm, từ đó đưa ra những điều chỉnh, bổ
sung về chủ trương, phương hướng, biện pháp, lộ trình hội nhập và các cam
kết trong tương lai. Điều quan trọng là phải sớm xây dựng được một lộ trình
tổng thể bao quát toàn bộ các tiến trình hội nhập hiện nay và trong tương lai
đến 2020 của Việt Nam.

Khắc phục các hạn chế và khiếm khuyết hiện nay của công tác hội
nhập kinh tế quốc tế, coi đây nhiệm vụ quan trọng cần được quan tâm đúng
mức và sớm giải quyết một cách tốt nhất.

Tăng cường phát huy vai trò chủ thể và tính năng động của doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy

mạnh quá trình đổi mới từ tư duy đến phong cách quản lý và đổi mới thiết
bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí gia nhập
thị trường và chi phí đầu vào. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, phát
triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới. Khuyến khích các
doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài và
mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài. Cải cách và nâng cao năng lực của các
doanh nghiệp là một trong những yếu tố quan trọng để có thể nâng cao khả
năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Thực hiện triệt để và kiên quyết Nghị
quyết của Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 3 khóa IX về sắp xếp,
đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh
việc thay đổi, điều chỉnh nhận thức, tư duy về vai trò của thành phần kinh tế
nhà nước, cần kiên quyết giải thể các doanh nghiệp kém hiệu quả. Sớm hấm
dứt tình trạng bảo hộ bất hợp lý, bù lỗ, khoanh nợ, giãn nợ. Chấm dứt tình
trạng cơ quan quản lý nhà nước can thiệp vào họat động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp. Xóa bỏ đặc quyền và độc quyền kinh doanh của
các doanh nghiệp nhà nước. Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cần
được tiến hành công khai, dân chủ, tránh tình trạng biến cổ phần hóa thành
việc “chia chác” công sản cho một số người.
9




Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trên cơ sở phát huy lợi thế của ta, qua đó nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Nâng cao chất lượng phát triển, đặc
biệt tăng cường nội dung tri thức và tính bền vững của phát triển.

Đổi mới công tác xây dựng pháp luật để sớm có được một hệ thống
pháp luật tương đối đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu

HNKTQT, tạo hành lang pháp lý để thực hiện các cam kết quốc tế. Các
bộ/ngành, địa phương cần rà soát lại, sửa đổi bổ sung và ban hành mới các
văn bản dưới luật theo thẩm quyền phù hợp với những cam kết quốc tế của
Việt Nam trong HNKTQT, đặc biệt là sau khi chúng ta gia nhập WTO và đi
vào thực hiện các cam kết gia nhập.

Tăng cường phổ biến tuyên truyền, thông tin về HNKTQT bao gồm
cả kiến thức về các quy tắc, luật lệ quốc tế, các cam kết, lộ trình mở cửa của
Việt Nam và các thông tin về thị trường tới địa phương và doanh nghiệp.

Đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của
thời kỳ hội nhập ngày càng sâu rộng hơn, trong đó đặc biệt quan tâm tới
việc nâng cao năng lực của cán bộ, công chức, nhà quản lý doanh nghiệp và
thẩm phán, luật sư.
Câu 2: Khái quát thực trạng hệ thống kinh doanh thương mại trong nền
kinh tế quốc dân và phương pháp đẩy mạnh kinh doanh của các doanh
nghiệp thương mại trong các năm sắp tới.

Trả lời:
1. Khái quát về dịch vụ và đặc điểm của sản phẩm dịch vụ:
Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế khụng chỉ đơn thuần với các SP
vật chất cụ thể, mà cũn tồn tại các SP dịch vụ.
Tổng thu nhập của một quốc gia cũng nh doanh thu của một
DN cỳ sự đúng gúp của lĩnh vực DV(đặc biệt là những ngành DV có
giá trị cao).
Theo nghĩa rộng, DV được coi là lĩnh vực kinh tế thứ ba trong nền
KTQD. Theo cách hiểu này, các hoạt động kinh tế nằm ngoài 2 ngành công
nghiệp và nông nghiệp đều thuộc ngành DV. Các nước phát triển, DV chiếm
trên 60% GDP.
Theo nghĩa hẹp, DV là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình KD, bao

gồm các hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, là phần mềm của sản phẩm được
cung ứng cho khách hàng.
2. Đặc điểm của dịch vụ

10


Là SP vô hình, chất lượng DV rất khó đánh giá, vì nó chịu nhiều yếu
tố tác động như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán DV đó.
o Là SP vô hình, DV có sự khác biệt về chi phí so với các SP vật chất
o SX và TD dịch vụ diễn ra đồng thời, nên cung cầu DV không thể tách
rời nhau mà phải tiến hành cùng lúc.
o Dịch vụ không thể cất giữ trong kho, làm phần đệm điều chỉnh sự
thay đổi nhu cầu TT như các sản phẩm vật chất khác...
Những đặc điểm này tạo ra những nét đặc thù cho các doanh nghiệp
dịch vụ, nếu các DNSX cần 4P (Product, Price, Place, Promotion) cho hoạt
động marketing của mình; thì các nhà KD DV cần 5P, với 4P trên và People
(con người).
Các loại dịch vụ thương mại
Vai trò của dịch vụ thương mại.
DV nói chung và DVTM nói riêng có vai trò to lớn:

Nó giúp cho DN bán được nhiều hàng, thu được nhiều lợi nhuận, rút
ngắn thời gian ra quyết định mua hàng của người tiêu dùng, đẩy nhanh tốc
độ lưu chuyển HH, tiền tệ.

Dịch vụ lập nên hàng rào chắn, ngăn chặn sự xâm nhập của đối thủ
cạnh tranh. DV giúp cho việc phát triển TT và giữ TT ổn định.

DV còn làm thay đổi căn bản cơ cấu thu nhập quốc dân và cơ cấu tiêu

dùng của mỗi cá nhân .

DV đóng vai trò tiên phong trong việc hình thành sản xuất hàng hóa
lớn.
Tình hình kinh tế xã hội trong của nước ta (1991 – 2000) có nhiều
chuyển biến tích cực đạt nhiều thành tựu to lớn rất quan trọng. GDP tăng
bình quân 7% một năm (so với chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000 đề ra là 6,9 đến 7,5%) tổng mức GDP năm 2000 ước tính tăng gấp đôi
năm 1990 tuy nhiên GDP bình quân đầu người chỉ tăng 1,7 lần ( nghị quyết
đại hội VII đề ra mục tiêu tăng GDP năm 2000 gấp 2 lấn so với năm 1990,
nghị quyết đại hội VIII điều chỉnh lại là: mục tiêu tăng GDP bình quân đầu
người gấp đôi so với năm 1990). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tỉ
trọng nông nghiệp 38,7% năm 1990 xuống còn 24,5% tỉ trọng công nghiệp
từ 22,7% lên 33,3% tỉ trọng dịch vụ từ 38,6 lên 40,5%.
Trong 5 năm sau ( 1996 – 2000) nhất là những năm 1997 đến nay kinh
tế nước ta đã đối mặt với những khó khăn và thách thức gay gắt do cuộc
khủng hoảng kinh tế gây ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã chậm lại, GDP chỉ
còn tăng 6,7% / năm so với 8,2%/ năm trong 5 năm đầu.
Đồng thời trạng thái kinh tế nước ta cũng phải trải qua sự chuyển hóa
cơ bản hình thành nền kinh tế nhiều thành phần cùng tham gia sản xuất một
11


hệ thống cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã chuyển sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
từ chỗ bị bao vây cấm vận cô lập nước ta đã có quan hệ quốc tế rộng rãi cả
song phương lẫn đa phương xóa bỏ tình trạng ngăn sông cấm chợ, hàng hóa
lưu thông thuận lợi, dịch vụ đa dạng từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển cải
thiện đời sống nhân dân, gia tăng xuất khẩu góp phần phát triển kinh tế tạo
việc làm.

 Tình hình thị trường trong nước:
+ Mặt được:

Thị trường và hoạt động thương mại phát triển sôi động, một
lượng hàng hóa lưu thông tăng liên tục hàng năm, với tốc độ cao mặt
hàng ngày càng phong phú đáp ứng nhu cầu cơ bản của sản xuất góp
phần vào sự phát triển quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Đã hình thành thị trường thống nhất thông thoáng tham gia của
nhiều thành phần kinh tế vốn kĩ thuật kinh nghiệm buôn bán khác với
trước đây, nay không chỉ các doanh nghiệp thương nghiệp mới hoạt
động thương mại mà cả ngành sản xuất cũng hoạt động thương mại.
Thực hiện vai trò cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu đóng góp
đáng kể vào ngân sách nhà nước, nhiều doanh nghiệp đã thực hiện chủ
trương cổ phần hóa. Vai trò của thương nghiệp ngoài quốc doanh ngày
càng được khẳng định, lưu thông hàng hóa được chuyển từ kế hoạch
hóa tập chung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.

Quản lý về thương mại đổi mới về chức năng và nhiệm vụ tổ
chức từng bước hình thành hệ thống pháp luật phù hợp.

Phương pháp kinh doanh đa dạng, mạng lưới kinh doanh được
mở rộng trên tất cả các địa bàn.

Trật tự kỉ cương được khôi phục, tình hình buôn lậu và gian lận
thương mại đã được kiềm chế, khả năng cạnh tranh của hàng hóa cao.
+ Mặt chưa được

Về cơ bản thương mại: Thương mại quốc doanh còn bị động,
lúng túng khi chuyển sang cơ chế thị trường.


Công tác quản lý nhà nước về thương mại với chức năng chủ
yếu là xây dựng pháp luật, hướng dẫn quản lý hoạt động của các doanh
nghiệp còn yếu và hiệu quả thấp. Hệ thống pháp luật chưa đông bộ,
trong nhiều trường hợp vai trò các cơ quan quản lý còn mờ nhạt.

Thương mại hàng hóa tăng trưởng khá và liên tục nhưng
thương mại dịch vụ chưa phát triển với tiềm năng.

Việc mở rộng thị trường lưu thông hàng hóa, nhất là nông thôn
và miền núi còn nhiều lúng túng, bất cập.

12


+ Hoạt đông xuất nhập khẩu tăng tỉ trọng:

Về cơ bản kim ngạch và cơ cấu hàng nhập khẩu đã đáp ứng
được nhu cầu cấp thiết về máy móc và thiết bị, nguyên liệu và hàng
hóa cho sản xuất và tiêu dùng cải thiện dần cán cân thương mại, góp
phần làm phong phú thêm một lương lưu thông hàng hóa trên thị
trường xã hội.

Kim ngạch xuất khẩu tăng, tăng xuất khẩu sang Mỹ, Trung
Quốc và một số nước Châu Âu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
tăng khá nhanh về cả quy mô và tốc độ.

Cơ chế xuất nhập khẩu đã có nhiều bước chuyển biến khá hơn
Phương pháp đẩy mạnh kinh doanh của các doanh nghiệp
thương mại trong những năm sắp tới.


Nhà nước đẩy lùi các chính sách bao vây cô lập, cấm vận mở
rộng thị trường.

Nhà nước tiến hành đào tạo đội ngũ nhân lực quản lý tốt chuyên
môn cao.

Doanh nghiệp tiến hành đầu từ về sản phẩm chất lượng mới có
thể cạnh tranh sang thị trường nước ngoài.

Xây dựng và điều chỉnh pháp luật, cơ chế, chính sách, biểu thuế
cho phù hợp hơn trong quá trình hội nhập.

Xúc tiến công tác tuyên truyền giới thiệu giúp đỡ các doanh
nghiệp xác định yêu cầu cần phải phấn đấu để tồn tại và phát triển
giảm dần sự bảo hộ của nhà nước


13



×