Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Thực trạng công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội tại cơ quan BHXH huyện phú xuyên thành phố hà nội giai đoạn 2005 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.28 KB, 82 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện cách đây rất lâu.
Ngày nay, BHXH đã trở thành một công cụ hữu hiệu, mang tính nhân văn sâu
sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc
sống và trong quá trình lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, mất khả năng lao động, già cả hoặc bị chết. Vì thế, BHXH ngày
càng trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi
thể chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sụ quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp với đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã xác định quan điểm
phải giải quyết tốt việc “ thực hiện và hoàn thiện chế độ BHXH , đảm bảo đời
sống người nghỉ hưu được ổn định từng bước được cải thiện”. tiếp đó là nghị
quyết đại hội Đảng IX nhấn mạnh ” thực hiện chính sách xã hội đảm bảo an
toàn cuộc sống mọi thành viên trong cộng đồng, bao gồm BHXH đối với
người lao động thuộc các thành phần kinh tế”.
Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước mở rộng và nâng cao việc
đảm bảo vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động cũng như gia
đình họ trong trường hợp rủi ro xảy ra thông qua chính sách BHXH. Và
BHXH là chỗ dựa đáng tin cậy của họ, quỹ BHXH sẽ đứng ra chi trả cho các
tổn thất mà rủi ro đó đưa đến trong phạm vi của mình. Tuy nhiên, việc chi trả
các chế độ BHXH có thực hiện được hay không hoàn toàn phụ thuộc vào khả
năng của quỹ BHXH mà quỹ BHXH có được dồi dào hay không lại phụ thuộc
vào sự đóng góp của các bên tham gia BHXH gồm: người lao động, chủ sử
dụng lao động và hỗ trợ của Nhà nước theo luật định. Do đó, công tác thu
Lê Thị Thu Trang

1



BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định trong việc hình thành quỹ
BHXH.
Nhận thức thấy công tác thu trong BHXH là rất quan trọng và trong thời
gian thực tập tại BHXH Huyện Phú Xuyên, được sự dẫn dắt chỉ bảo nhiệt tình
của các cô chú trong cơ quan , em chọn đề tài: “Thực trạng công tác quản lý
thu Bảo hiểm xã hội tại cơ quan BHXH huyện Phú Xuyên thành phố Hà
Nội giai đoạn 2005 đến nay” làm chuyên đề thực tập của mình.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của chuyên đề thực tập bao gồm
3 chương:
Chương I : Lý thuyết cơ bản về BHXH và quản lý thu BHXH .
Chương II : Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH
huyện Phú xuyên thành phố Hà nội giai đoạn 2005 đến nay.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản
lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Phú xuyên.
Em xin chân thành cảm ơn các bác lãnh đạo cùng tập thể các cán bộ ở
Bảo hiểm xã hội huyện Phú xuyên và cô giáo hướng dẫn Th.s. Tôn Huyền. đã
giúp đỡ em trong quá trình thực tập và làm chuyên đề thực tập. Trong quá
trình làm chuyên đề thực tập mặc dù em đã cố gắng nhưng chắc chắn không
tránh khỏi những khiếm khuyết, rất mong được các các cán bộ ở Bảo hiểm xã
hội huyện Phú xuyên và cô giáo góp ý để em hoàn thiện hơn về kiến thức và
nâng cao vốn hiểu biết của mình.
Hà nội, ngày 26 tháng 04 năm 2010
Sinh viên
Lê Thị Thu Trang.


Lê Thị Thu Trang

2

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ QUẢN LÝ THU BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1.1: Tồng quan về BHXH.
1.1.1: Nguồn gốc ra đời và Sự cần thiết khách quan của BHXH.
Trong xã hội, con người muốn tồn tại, trước hết phải ăn mặc ở… Để
thỏa mãn nhu cầu này, con người cần phải lao động sáng tạo không ngừng tạo
ra của cải vật chất phục vụ những nhu cầu tối thiểu này.Của cải càng nhiều thì
nhu cầu ngày càng tăng, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả
năng lao động của con người.Trong thực tế không phải lúc nào con người
cũng đủ khả năng để lao động sản xuất đảm bảo cuộc sống ổn định, rủi ro
thường mang tính bất ngờ nên có thể xảy ra bất cứ khi nào,chẳng hạn như: tai
nạn lao động, ốm đau, thai sản, già yếu…và người lao động không thể làm
chủ được tình huống này do đó dễ rơi vào tình trạng mất cân bằng trong cuộc
sống. Bên cạnh đó, khi gặp phải rủi ro, những nhu cầu tối thiểu của con người
không những không giảm đi mà còn gia tăng thậm chí còn xuất hiện thêm nhu
cầu mới.Để giảm bớt rủi ro bất hạnh thì ngoài việc bản thân người lao động
khắc phục, cần phải có sự hỗ trợ của cộng đồng và xã hội.
Trải qua nhiều thời kỳ phát triển của xã hội, sự tương trợ cũng phát triển
và mở rộng theo nhiều hình thức khác nhau.
Thời kỳ công xã nguyên thủy, con người sống tập trung thành bầy đàn,

hình thức sinh sống chủ yếu là săn bắn hái lượm, sản phẩm được phân phối
bình quân cho mọi người nên khó khăn bất lợi của mỗi người được cả xã hội
san sẻ.
Đến thời kỳ xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của
nhà vua, còn dân cư thì dựa vào sự đùm bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng
đồng làng xã, ngoài ra họ có thể đi vay đi xin. Tuy nhiên đó mới chỉ là khả
năng, có thể có và cũng có thể không, không hoàn toàn chắc chắn.
Lê Thị Thu Trang

3

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Sức sáng tạo của con người ngày càng tăng, xã hội cũng ngày càng phát
triển lên trình độ cao hơn, xuất hiện nền kinh tế hàng hóa, mọc lên nhiều cơ
sở sản xuất và nhu cầu nhân công gia tăng.Điều này làm cho xã hội xuất hiện
hai giới cơ bản : giới những người thuê lao động (giới chủ) và giới những
người lao động (giới thợ ).
Giữa hai giới này tồn tại những mâu thuẫn rất gay gắt mà nguyên nhân
chủ yếu là do bất đồng quan điểm trong việc thỏa thuận lợi ích hai bên. Trong
số rất nhiều mâu thuẫn khác nhau thì mâu thuẫn sau càng trở nên gay gắt:
+ Mâu thuẫn về việc kéo dài thời gian lao động.
+ Mâu thuẫn về tiền lương tiền công.
+ Mâu thuẫn về thu nhập khi người lao động nghỉ việc.
+ Mâu thuẫn khi người lao động về già chết.
Cuộc tranh giành diễn ra gay gắt và tác động đến nhiều mặt của đời
sống, xã hội, hậu quả là sản xuất bị đình đốn, thể chế chính trị bị lung lay, các

nguồn lực trong xây dựng sản xuất bị xâm phạm. Chính vì vậy, chính phủ các
nước phải can thiệp bằng cách :
+ Thứ nhất, yêu cầu giới chủ trích một phần từ lợi nhuận của mình để
đóng góp vào nguồn quỹ mang tính xã hội.
+ Thứ hai, vận động người lao động đóng góp một phần từ khoản thu
nhập của mình nộp vào quỹ xã hội chung đó nhằm mục đích giải quyết khó
khăn cho người lao động trong trường hợp không may có biến cố rủi ro xảy
ra.
Thời gian đầu cả giới thợ và giới chủ đều không chấp nhận cách giải
quyết này, cuộc đấu tranh diễn ra càng gay gắt với quy mô rộng khắp hơn.
Chính vì vậy Chính phủ các nước phải can thiệp lần hai, với tư cách là bên
thứ ba đóng góp vào quỹ tài chính chung đó. Khi đó cả người lao động và giới
chủ nhận thấy mình đều có lợi và mục đích ban đầu đã đạt được. Cả ba bên
đưa ra bản cam kết về việc xây dựng và hình thành nguồn quỹ này nhằm bảo
vệ người lao động khi rủi ro biến cố xảy ra.
Lê Thị Thu Trang

4

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Tất cả những vấn đề trên được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội
cho người lao động
Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan, do sự đòi
hỏi của cuộc sống và hoạt động sản xuất kinh doanh,khi mà mọi thành viên
trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH. Vì vậy
BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa

nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan. Vì vậy khái niệm “ Bảo hiểm xã hội
” trở nên gần gũi gắn bó với mọi người đặc biệt là người lao động. Do đó có
thể hiểu BHXH theo các cách như sau:
- “ BHXH là sự tổ chức bảo đảm bù đắp hoặc thay thế một phần thu
nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ nghề nghiệp do
bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc sức lao động không sử dụng được,
thông qua việc hình thành và sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của
các bên tham gia BHXH và và các nguồn thu hợp pháp khác, nhằm góp phần
đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp
phần bảo đảm an toàn xã hội”.
- “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên trong xã hội
thông qua một loạt các biện pháp công cộng ( bằng pháp luật, trách nhiệm của
Chính phủ ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội do bị mất hoặc
giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau , mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và
chết đi. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khỏe và
trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm về BHXH của Tổ
chức Lao động Quốc tế ( ILO ), phản ánh một cách tổng quan về mục tiêu,
bản chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối cùng
của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện
sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân trong cộng đồng và của toàn
xã hội đối với mỗi con người.
Ngoài ra còn có một số khái niệm về BHXH xét trên các khía cạnh khác:
+ Xét trên khía cạnh pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ
Lê Thị Thu Trang

5

BHXH K48



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

người lao động, sử dụng tiền đóng của người lao động, người sử dụng lao
động, và được sự tài trợ bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho
người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu
nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, thai sản, hết
tuổi lao động theo quy định của pháp luật ( hưu ) hoặc chết.
+ Xét trên giác độ tài chính: BHXH là thuật ( kỹ thuật ) chia sẻ rủi ro và
tài chính giữa những người tham gia bảo hiểm theo quy định của Pháp luật.
+ Xét trên giác độ chính sách xã hội : BHXH là một chính sách xã hội
nhằm đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp
phải các rủi ro xã hội , nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
1.1.2: Đối tượng của BHXH:
Ở đây cần phân biệt rõ đối tượng của BHXH và đối tượng tham gia
BHXH. BHXH là một hệ thống đam bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi
do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các
nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy đối tượng của
BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi
do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động
tham gia BHXH.
Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao
động. Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế của mỗi nước mà đối tượng này có
thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH
đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công hưởng lương. Việt
Nam cũng không vượt khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là chưa
công bằng với tất cả những người lao động. Nếu xét trên mối quan hệ ràng
buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và
cơ quan BHXH được sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng
góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động

mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người sử dụng lao
Lê Thị Thu Trang

6

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

động và người lao động có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi
công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này
chính là đặc trưng riêng có của BHXH, nó quyết định sự tồn tại và phát của
BHXH một cách ổn định và bền vững.
1.1.3: Bản chất của BHXH.
Như đã trình bày ở trên, BHXH ra đời là do những mối quan hệ ràng
buộc, những mâu thuẫn mà người lao động và người sử dụng lao động không
thể giải quyết được, đòi hỏi Nhà nước phải đứng ra can thiệp.Bản chất của
BHXH thể hiện ở những vấn đề sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng
hóa.Kinh tế càng phát triển thì hệ thống BHXH càng đa dạng và hoàn thiện.
Vì vậy có thể cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát
triển của nền kinh tế hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi
nước. Một nền kinh tế càng phát triển,. đời sống nhân dân thấp kém không thể
có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống
BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức
BHXH ngày càng phong phú.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH.

Bên tham gia BHX H có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao
động và người sử dụng lao động.
Bên BHXH ( bên nhận nhiệm vụ BHXH ) thông thường là cơ quan
chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ.
Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều
kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động , mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của
con người: ốm đau, tai nạn…hoặc những trường hợp xảy ra không hoàn toàn
Lê Thị Thu Trang

7

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

ngẫu nhiên: thai sản, tuổi già…Đồng thời những biến cố có thể xảy ra cả
trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những rủi ro biến cố
sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung hình thành do sự
đóng góp của các bên tham gia BHXH, gọi là quỹ BHXH Nguồn quỹ này do
các bên tham gia đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn nhận được sự hỗ trợ từ
phía Nhà nước.Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập.
- Mục tiêu của BHXH là đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và
gia đình họ, nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động
trong trường hợp mất hoặc giảm thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được
tổ chức ILO cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo

nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
khác đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Tóm lại, BHXH mang cả bản chất kinh tế và bản chất xã hội.Về mặt
kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động
và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc rủi ro xã hội. Về mặt
xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp
một phần nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có
lượng vật chất đủ lớn để trang trải những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH đã thực
hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít.
1.1.4: Chức năng của BHXH.
BHXH có chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH , nó quyết định nhiệm
vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Lê Thị Thu Trang

8

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người
tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả người
sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ
này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc

mất thu nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH
thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối
lại giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp, giữa những
người khỏe mạnh đang làm việc và những người ốm yếu phải nghỉ việc. Thực
hiện được chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã
hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng say sản xuất nâng cao năng
suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh, tham gia
lao động được người sử dụng lao động trả tiền lương tiền công. Khi ốm đau
bệnh tật, tai nạn lao động, thai sản, hưu trí đã có BHXH trợ cấp thay thế phần
thu nhập đã bị mất. Vì vậy họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định.
Chính vì thế, người lao động an tâm làm việc và gắn bó với công việc hơn,
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.Chức năng này biểu hiện như
một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá
nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn nội tại, khách quan
về tiền lương , tiền công, thời gian lao động… được điều hòa và giải quyết.
Đặc biệt, cả hai giới đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ.
Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi được với nhau. Đối với Nhà
nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả
nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và
gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất kinh tế, chính trị và xã hội được phát
triển an toàn hơn.
1.1.5: Hệ thống các chế độ Bảo hiểm xã hội.
Lê Thị Thu Trang

9


BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy
định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện
BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy
định được pháp luật hóa về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho
từng trường hợp BHXH cụ thể. Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế
độ BHXH cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình
thực hiện chính sách BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải
nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của BHXH, để đảm bảo tính đúng
đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động Quốc tế đã nêu trong Công
ước số 102 tháng 06 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao
gồm:
1.Chăm sóc y tế
2.Trợ cấp ốm đau
3.Trợ cấp thất nghiệp
4.Trợ cấp tuổi già
5.Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6.Trợ cấp gia đình
7.Trợ cấp sinh đẻ
8.Trợ cấp khi tàn phế
9.Trợ cấp cho người còn sống
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tùy
theo điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực
hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3
chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ ( 3 ); ( 4 ); ( 5 ); ( 8 );

(9)
Đặc điểm chủ yếu của hệ thống BHXH:

Lê Thị Thu Trang

10

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
- Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
- Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả
thì mức chi trả sẽ là cao và ổn định.
- Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ và tiền mặt được sử dụng làm
phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi
chế độ BHXH.
- Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội.
Đối với Việt Nam hiện nay, cơ bản chúng ta quy định có 5 chế độ:
1. Chế độ ốm đau
2. Chế độ thai sản
3.Chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ tử tuất
5. Chế độ hưu trí
Năm 2006, BHXH bước sang giai đoạn mới, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội
khóa XI, ngày 26 tháng 6 năm 2006, Quốc hội thông qua một số Luật quan

trọng trong đó có Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11 và chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết ký lệnh số 13/2006/L – CTN ban hành ngày 12/07/2006
về BHXH. Điểm mới của văn bản Luật này là, ngoài hình thức BHXH bắt
buộc, việc mở rộng hình thức BHXH tự nguyện và hình thức bảo hiểm thất
nghiệp, đã được quy định tại chương IV, chương V. Đây là đổi mới quan
trọng trong chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta để tiến tới BHXH
cho mọi người lao động ở bất cứ thành phần kinh tế nào cũng đều có nghĩa
vụ tham gia và thụ hưởng những quyền lợi về chế độ BHXH đáp ứng được
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy các chế độ BHXH bao gồm:
Lê Thị Thu Trang

11

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

+ BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ : ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất.
+ BHXH tự nguyện bao gồm các chế độ: hưu trí, tử tuất.
+ Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ: Trợ cấp thất nghiệp, hỗ
trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm.
Hiệu lực chung của Luật này là thi hành từ ngày 1/1/2007, thì BHXH tự
nguyện có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2008 còn BHXH có hiệu lực thi hành
từ ngày 1/1/2009. Luật này không áp dụng với BHYT, bảo hiểm tiền gửi và
các loại bảo hiểm mang tính kinh doanh.
1.1.6 Quỹ Bảo hiểm xã hội.
1.1.6.1 : Khái niệm và đặc điểm quỹ BHXH.

Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà
nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ là dùng để chi
trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố, rủi ro.
Chủ thể của quỹ chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên
quỹ, do đó có thể bao gồm cả: người lao động và người sử dụng lao động và
Nhà nước.
Cần phân biệt giữa quỹ BHXH với NSNN.Giữa quỹ BHXH và NSNN
giống nhau về:
+ Bản chất, chức năng, có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo
lập và sử dụng.
+ Hoạt động của quỹ BHXH và NSNN đều không nhằm mục tiêu lợi
nhuận.
+ Quá trình hình thành và sử dụng cả hai đều được biểu hiện dưới hính
thức giá trị.
+ Việc thu chi đều được quy định bằng pháp luật và cơ chế quản lý phải
tuân theo nguyên tắc cân đối thu chi…
Lê Thị Thu Trang

12

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Tuy nhiên giữa quỹ BHXH và NSNN tồn tại những điểm khác nhau cơ
bản:
NSNN là tổng thể các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà
nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập quốc
gia nhằm tạo lập quỹ tiền tệ của Nhà nước và phân phối sử dụng Ngân sách

cho việc trang trải các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện chức năng kinh
tế xã hội theo kế hoạch của Nhà nước.
Quỹ BHXH là tổng thể các mối quan hệ kinh tế xã hội phát sinh trong
quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ nhằm mục đích ổn định cuộc sống
cho người lao động và gia đình họ khi không may gặp rủi ro, biến cố làm
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, từ đó làm phát triển kinh tế
xã hội quốc gia.
NSNN ra đời tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát
triển của Nhà nước và thực hiện chức các chức năng kinh tế xã hội của Nhà
nước.Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng và nhiệm vụ càng mở rộng thì
thu chi ngân sách càng lớn. Quan hệ phân phối của NSNN mang tính pháp lý
rất cao và dựa vào quyền lực chính trị kinh tế của Nhà nước.Quan hệ phân
phối này chủ yếu là phân phối lại, không mang tính chất hoàn trả và phản ánh
lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, nó chi phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và
cá nhân nhằm đảm bảo cho nền kinh tế xã hội của đất nước phát triển ổn định.
Trong khi đó, quỹ BHXH ra đời , tồn tại và phát triển gắn với sự phát triển
kinh tế hàng hóa, với các mối quan hệ thuê mướn nhân công. Mặc dù thu chi
BHXH đều được Nhà nước quy định bằng văn bản pháp luật nhưng chủ yếu
dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo nguyên
tắc có tham gia mới được hưởng quyền lợi BHXH. Quan hệ phân phối của
quỹ BHXH có tính pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan hệ này trước hết
phản ánh lợi ích của các bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
Lê Thị Thu Trang

13

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


* Những đặc điểm chủ yếu của BHXH:
+ Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời
kỳ nhất định. Kinh tế xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện
đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thỏa mãn về BHXH đối với người lao
động càng được nâng cao.
+ Mục đích của quỹ BHXH là đảm bảo ổn định cuộc sống cho
người lao động và gia đình họ khi không may người lao động gặp phải các
biến cố rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. Hoạt động của quỹ
không nhằm mục tiêu lợi nhuận, không kinh doanh kiếm lời.
+ Phân phối quỹ vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất
không hoàn trả. Tính chất hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là đối
tượng tham gia và đóng góp BHXH đồng thời cũng là đối tượng nhận trợ cấp
BHXH . Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ, cùng tham gia đóng góp BHXH
nhưng có người được hưởng nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau nhưng cũng
có người được hưởng ít lần hơn thậm chí là không được hưởng.
+ Là hạt nhân , là nội dung vật chất của tài chính BHXH. Nó là
khâu tài chính trung gian, cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp hình
thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy các khâu luôn độc lập với nhau
trong quản lý và sử dụng do mỗi khâu được tạo lập, sử dụng với mục đích
riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Nhưng tài chính BHXH, NSNN, và
tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi
phối của pháp luật nhà nước.
+ Quá trình tích lũy, đảm bảo an toàn quỹ BHXH là một vấn đề
mang tính nguyên tắc, đặc điểm này xuất phát từ vấn đề đảm bảo ổn định
cuộc sống cho người lao động. Vì vậy đến lượt mình , BHXH phải tự bảo vệ
mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Thực tế , nếu xét tại một thời
Lê Thị Thu Trang


14

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền nhàn rỗi để chi trả
trong tương lai.Lượng tiền này có thể biến động tăng hoặc giảm giá trị do yếu
tố lạm phát.Do đó vấn đề bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ trở thành yêu cầu
mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
1.1.6.2 : Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành từ chủ yếu từ các nguồn sau:
 Người sử dụng lao động đóng góp.
 Người lao động đóng góp.
 Nhà nước đóng góp, hỗ trợ thêm.
 Các nguồn khác: lãi từ đầu tư từ phần quỹ nhàn rỗi, sự ủng hộ
của những cá nhân, tổ chức từ thiện và các khoản thu hợp pháp khác.
Sự phân chia về trách nhiệm đóng góp BHXH giữa người lao động và
người sử dụng lao động không phải là phân chia rủi ro mà là lợi ích giữa các
bên.
Về phía người sử dụng lao động việc bỏ một khoản tiền nhỏ để đóng
BHXH giúp họ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn
khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động. Đồng thời nó còn góp phần tạo ra
mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ sử dụng lao động và người lao động.
Về phía người lao động, sự đóng góp vào quỹ BHXH một phần là để tự
bảo vệ mình , vừa thể hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình,
đông thời vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Về phía Nhà nước, sự tham gia đóng góp của Nhà nước nhằm thể hiện
sự quản lý của Nhà nước đối với BHXH, đảm bảo cho chính sách được thực

hiện nghiêm chỉnh, đúng quy định của pháp luật.
Ở Việt Nam, quy định tại Mục 1 chương VI Luật BHXH từ điều 88
đến điều 97, quỹ BHXH bao gồm các quỹ thành phần sau:


Quỹ ốm đau thai sản : do người sử dụng lao động đóng góp 3%

Lê Thị Thu Trang

15

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

trên quỹ tiền công tiền lương đóng BHXH của người lao động.


Quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp : do người sử dụng lao

động đóng góp bằng 1% quỹ tiền lương tiền công đóng BHXH của người
lao động.


Quỹ hưu trí và tử tuất được hình thành từ các nguồn: sự đóng

góp của người lao động, người sử dụng lao động và hỗ trợ từ ngân sách nhà
nước. Cụ thể như sau:
+ Hàng tháng, người lao động đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử

tuất với mức đóng bằng tỷ lệ phần trăm (%) so với mức tiền lương tiền công
tháng đóng BHXH như sau: từ tháng 01/ 2007 đến tháng 12/2009 là 5%, sau
đó cứ mỗi năm lại tăng mức đóng lên 1% cho tới khi đạt mức 8%.
Đối với người lao động làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng cá nhân
hoặc hợp đồng với tổ chức hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động đã tham gia
BHXH bắt buộc mà chưa nhận trợ cấp BHXH một lần thì mức đóng từ tháng
01/2007 đến tháng 12/2009 là 16%, sau đó cứ 2 năm lại tăng lên 2% cho tới
khi đạt đến 22%.
+ Người sử dụng lao động có mức đóng như sau: Từ tháng
01/2007 đến tháng 12/2007 mức đóng bằng 11% so với tiền lương tháng đóng
BHXH, sau đó cứ 2 năm lại tăng lên 1% cho tới khi đủ 14 %.
1.1.6.3: Sử dụng quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau:


Chi trợ cấp cho các chế độ BHXH



Chi phí cho sự nghiệp quản lý;



Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trong các nội dung trên thì chi trả trợ cấp BHXH theo các chế độ là

lớn nhất và quan trọng nhất. Khoản chi này thực hiện theo luật định và phụ
thuộc vào phạm vi luật định của từng hệ thống BHXH. Về nguyên tắc có thu
Lê Thị Thu Trang


16

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

mới có chi, thu trước chi sau.Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm
vi có nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH : Ngoài việc trợ cấp cho các đối
tượng hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi trả cho các khoản
chi phí quản lý như : tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH,
khấu hao tài sản cố định , văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.
Chi phí đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: khoản chi này để đảm bảo các
hoạt động đầu tư phần nhàn rỗi của quỹ BHXH được diễn ra bình thường và
đạt hiệu quả cao. Về mặt kế toán, khoản chi này được trích ra trong tổng thu
được từ lợi nhuận đầu tư.
Ở Việt Nam , việc sử dụng quỹ BHXH được quy định cụ thể như sau:
+ Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động theo quy định.
+ Đóng BHYT từ các quỹ thành phần: quỹ tai nạn lao động bệnh
nghề nghiệp đóng BHYT cho người nghỉ việc hưởng trợ cấp TNLĐ – BNN
hàng tháng; quỹ hưu trí và tử tuất đóng BHYT cho người đang hưởng lương
hưu.
+ Quỹ TNLĐ – BNN chi khen thưởng người sử dụng lao động thực
hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phòng ngừa TNLĐ – BNN.
+ Chi phí quản lý BHXH: được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu
tư quỹ, bao gồm các khoản chi thường xuyên và các khoản chi không thường
xuyên.
+ Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Hoạt động đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH phải đảm bảo an toàn , hiệu quả và thu hồi được khi cần thiết,

thường đầu tư vào các hình thức: mua trái phiếu, tín phiếu, công trái của Nhà
nước, của Ngân hàng Thương mại, cho NHTM của Nhà nước vay, đầu tư vào
các dự án công trình kinh tế trọng điểm quốc gia và đầu tư vào một số dự án
có nhu cầu lớn về vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Lê Thị Thu Trang

17

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Các hoạt động tài chính quỹ BHXH trên chịu sự kiểm tra, thanh tra
của cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính và chịu sự kiểm toán của cơ quan
kiểm toán nhà nước.
1.2: Những quan điểm cơ bản về Bảo hiểm xã hội
Khi tiến hành tổ chức và thực hiện chính sách BHXH, các quốc gia
đều lựa chọn hình thức, cơ chế, mức độ thỏa mãn các nhu cầu BHXH phù
hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế xã hội
của quốc gia mình, đồng thời cũng nhận thức thống nhất các quan điểm cơ
bản về BHXH sau:
1.2.1: Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và quan trọng
nhất trong chính sách BHXH.
Mục đích chủ yếu của BHXH là nhằm đảm bảo cuộc sống cho người
lao động và gia đình họ trước những rủi ro xã hội làm giảm hoặc mất thu
nhập của người lao động. Thực chất, BHXH là một chính sách đối với con
người, nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con
người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội…
Từ quan điểm này cho thấy các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận

tính xã hội cao của BHXH, do đó BHXH được coi là một hoạt động phi lợi
nhuận mang tính nhân văn sâu sắc. Tại Việt Nam, đây được coi là một trong
những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước trong hệ thống An sinh
xã hội.
1.2.2: Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tham
gia BHXH cho người lao động.
Người sử dụng lao động chính là các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân
có thuê mướn lao động. Họ có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách
nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà họ
đang sử dụng theo đúng pháp luật quy định. Làm như vậy, chủ sử dụng lao
Lê Thị Thu Trang

18

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn
khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mình đang thuê mướn, bên cạnh
đó cũng làm giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ
và thợ, tạo ra sự yên tâm, tích cực sản xuất cho người lao động.
1.2.3: Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối
với BHXH.
Mọi người lao động đều được bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và
quyền lợi được trợ cấp BHXH. Khi những rủi ro không may xảy ra với người
lao động thì họ là những người trực tiếp chịu tác động của rủi ro. Điều đó có
nghĩa là người lao động phải có trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH để tự
bảo hiểm cho mình.

1.2.4: Mức trợ cấp BHXH.
Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
+ Mức tiền lương trong giai đoạn đi làm của người lao động.
+ Mức độ suy giảm khả năng lao động ( tỷ lệ thương tật )
+ Ngành nghề công tác
+ Thời gian công tác và đóng BHXH
+ Tuổi thọ bình quân của người lao động
+ Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
Tuy nhiên, về nguyên tắc, mức trợ cấp phải thấp hơn mức lương lúc
đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho
người được hưởng. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa
phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho người lao động tham gia
BHXH.
1.2.5: Nhà nước quản lý thống nhất chính sách Bảo hiểm xã hội, tổ
chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH.
BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là
Lê Thị Thu Trang

19

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

nhân tố ổn định, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội, nên vai trò của Nhà
nước là rất quan trọng. sự can thiệp của Nhà nước đã đảm bảo cho mối quan
hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động được duy trì bền vững
đồng thời đảm bảo mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ không bị phá vỡ.
1.3: Công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội.

1.3.1: Đặc điểm công tác thu và quản lý thu BHXH.
Bảo hiểm xã hội là một hoạt động mang tính nhân văn nhân đạo sâu sắc,
cũng giống như hoạt động của các quỹ tiền tệ , quỹ tín dụng khác đều thông
qua cơ chế đóng góp trước hưởng sau tuy nhiên nó mang tính phi lợi nhuận,
hoạt động không vì mục tiêu kiếm lời. Do đó, nó mang những đặc thù riêng .
Sự tham gia và đóng góp vào quỹ BHXH hình thành nên mối quan hệ giữa 3
bên:bên tham gia BHXH, bên được BHXH, bên BHXH, giữa các bên có mối
quan hệ rang buộc với nhau về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm trên cơ sở
pháp luật BHXH . Do đó trong quá trình thực hiện thu BHXH đòi hỏi cơ quan
BHXH phải theo dõi chặt chẽ kết quả đóng BHXH của từng đơn vị, cơ quan,
doanh nghiệp theo từng tháng. Từ đó ghi nhận kết quả đóng cho từng người
lao động. Công việc này đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục
trong nhiều năm. Bên cạnh đó nghiệp vụ thu BHXH gắn với hoạt động cả đời
người lao động, có tính kế thừa, do đó việc quản lý và lưu giữ sổ, bảng biểu là
hoạt động không có giới hạn về mặt thời gian. Từ một số tính đặc thù của
nghiệp vụ thu BHXH có thể rút ra một số đặc điểm đối với công tác thu và
quản lý thu BHXH như sau:
- Thu BHXH là khâu đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ
hoạt động của hệ thống BHXH, nó có tính chu kỳ và thường lặp đi lặp lại theo
thời gian.
- Việc tổ chức và thực hiện công tác quản lý thu rất đa dạng, phức tạp
do số lượng lao động, các đơn vị , tổ chức sử dụng lao động ngày càng tăng.
- Mức phí BHXH thường được tính trên mức thu nhập hoặc mức tiền
Lê Thị Thu Trang

20

BHXH K48



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

công, tiền lương của người lao động và phải được xác định là thu đúng, đủ,
kịp thời để đáp ứng tốt nhất cho toàn bộ hoạt động của cả hệ thống.
- Thu phí BHXH có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp , có thể thu
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản.
1.2.2: Vai trò thu và quản lý thu BHXH.
Công tác thu chi và quản lý thu chi BHXH ngày càng trở nên quan
trọng, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính sách
BHXH. Trong phần viết này đề cập đến nghiệp vụ thu và quản lý thu BHXH.
- Công tác thu BHXH là một hoạt động thường xuyên và đa dạng của
ngành BHXH nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung
thống nhất.
- Thu BHXH có vai trò như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo
lập cùng thực hiện chính sách BHXH, để chính sách được diễn ra thuận lợi.
Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập
quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là khâu bắt buộc đối với người tham gia
BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình, do vậy thu BHXH đòi hỏi độ chính xác
cao, thực hiện thường xuyên liên tục, kéo dài trong nhiều năm, và có sự biến
động về mức đóng cũng như số người tham gia.
- Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về
một mối vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người
tham gia BHXH biến đổi ở từng khối lao động cơ quan , ở từng đơn vị địa
phương hoặc trên toàn quốc. Bởi công tác thu đòi hỏi được tổ chức tập trung
thống nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới. Hơn nữa, hoạt động
thu BHXH liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cả một đời người,có tính kế
thừa cho nên công tác thu BHXH có vai trò hết sức quan trọng và rất cần
thiết trong việc thực hiện chính sách BHXH.
1.2.3: Nguyên tắc.
Căn cứ vào pháp luật và các văn bản dưới luật thì nguyên tắc thu BHXH

Lê Thị Thu Trang

21

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

phải đảm bảo đúng đối tượng, đúng mức thu , đồng thời phải đảm bảo công
bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Muốn vậy cần phải quán triệt những
vấn đề sau đây:
- Mức đóng BHXH của các cơ quan doanh nghiệp cần dựa trên quỹ
lương của đơn vị, quỹ lương này bao gồm toàn bộ lương cứng và các khoản
phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ này phải chi trả cho tất cả các đối tượng
tham gia đóng góp BHXH.
- Quyết toán thu BHXH thường vào cuối năm nhưng trong năm đó số
người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy khi
quyết toán phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào mức
bình quân.
- Thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chế tối đa hiện tượng khoán
thu để hưởng hoa hồng.
- Về nguyên tắc, cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng
quý, từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu phải khớp
với nhau và phải thực sự cân đối giữa NLĐ, NSDLĐ, loại hình doanh nghiệp,
loại hình thu.
Ngoài việc thu đúng của NLĐ và NSDLĐ, BHXH cần phải lập kế
hoạch và lập dự toán trước phần ngân sách Nhà nước cấp bù vào đầu tháng,
đầu quý, đầu năm, sau đó mới được quyết toán.
Phần lãi trong hoạt động đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi, về nguyên tắc

phải được bù đắp vào quỹ BHXH để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ,
phần trích ra chi cho các mục đích khác như chi cho khen thưởng, chi quản lý
và những khoản chi khác theo quy định của pháp luật. Các khoản tài trợ của
các tổ chức, quỹ từ thiện, đặc biệt là các khoản nợ của người tham gia phải
được hạch toán riêng, các khoản nợ đòi được phải tính tới lãi suất.
1.2.4: Quy trình tổ chức thu và phương thức thu BHXH.

Lê Thị Thu Trang

22

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

* Quy trình tổ chức thu BHXH :
- Tổ chức thu được tiến hành qua các bước:
+ Người lao động và người sử dụng lao dộng đăng ký tham gia BHXH
lần đầu với cơ quan BHXH được phân công quản lý.
+ Cơ quan BHXH trực tiếp nhận hồ sơ và danh sách lao động đăng ký
tham gia. Cán bộ thu tiến hành thẩm định hồ sơ , rồi thông báo kết quả và
mức đóng góp cho bên sử dụng lao động có tham gia BHXH.
+ Bên sử dụng lao động tiến hành đóng BHXH cho người lao động
theo thỏa thuận với các bên tham gia BHXH.
+ Hàng tháng bên sử dụng lao động có trách nhiệm theo dõi và thông
báo với cơ quan BHXH về những thay đổi so với đăng ký ban đầu.
+ Tiến hành công tác đối chiếu, kiểm tra các thông số liên quan giữa
bên BHXH và bên tham gia BHXH.
+ Thực hiện chế độ báo cáo thu và báo cáo tổng hợp thu định kỳ theo quy

định.
- Tổ chức giải quyết các chế độ: thông qua các bước:
+ Khi có nhu cầu thanh toán BHXH, người thụ hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp đề nghị được giải quyết thanh toán theo các thủ tục hiện hành tới các
cơ quan BHXH.
+ Cơ quan BHXH các cấp tiến hành giám định, xét duyệt các hồ sơ
từng trường hợp theo đúng các thủ tục hiện hành.
+ Thông báo cho người thụ hưởng hoặc người đại diện cho họ biết về
việc đề nghị của họ có được giải quyết hay không. Nếu được giải quyết, tiến
hành chi trả trợ cấp cho người thụ hưởng theo quy định của từng chế độ
BHXH.
+ Người thụ hưởng hoặc người đại diện hoàn thiện thủ tục nhận trợ cấp
BHXH cho các cấp theo quy định.
Lê Thị Thu Trang

23

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

+ Định kỳ thực hiện tổng hợp báo cáo kết quả chi trả trợ cấp BHXH
cho các cấp theo quy định.
* Phương thức thu BHXH: một số hình thức thu BHXH hiện nay
thường áp dụng ở các quốc gia:
- Phương thức thu BHXH trực tiếp từ người lao động: thường được áp
dụng ở các nước mà chế độ BHXH được phổ biến rộng rãi; việc sử dụng hệ
thống tài khoản ở các ngân hàng để thanh toán cũng là phổ biến. Theo phương
thức này, NLĐ và NSDLĐ đóng góp BHXH thông qua hệ thống chuyển

khoản tại các Ngân hàng.
- Phương thức thu BHXH gián tiếp qua hệ thống thuế, chủ yếu là thuế
thu nhập. Phương thức này áp dụng ở các nước có hệ thống BHXH phát triển
và hệ thống thuế thu nhập hoàn thiện, phổ biến. Như vậy, việc đóng BHXH
được coi như là một khoản thuế phải nộp cho Nhà nước.
- Phương thức thu BHXH gián tiếp thông qua các đơn vị sử dụng lao
động. Đây là phương thức được sử dụng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Theo cách này, hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng góp
BHXH cho người lao động của đơn vị mình cho cơ quan BHXH.
Ngoài ra có thể thu BHXH thông qua hệ thống các đại lý cấp dưới.

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU BHXH TẠI
CƠ QUAN BHXH HUYỆN PHÚ XUYÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI
ĐOẠN 2005 ĐẾN NAY
2.1: GIỚI THIỆU VỀ CƠ QUAN BẢO HIỂM HUYỆN PHÚ
Lê Thị Thu Trang

24

BHXH K48


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

XUYÊN THÀNH PHỐ HÀ NỘI.
2.1.1: Quá trình hình thành hệ thống cơ quan BHXH Việt Nam.
Việc bảo vệ người lao động trước những rủi ro ngẫu nhiên ở nước ta
được Đảng và Chính phủ quan tâm, có quy định pháp luật từ những ngày đầu
mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thừa kế và phát huy đúng

đắn truyền thống nhân ái vốn có của dân tộc ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm phong phú của các nước. Trong các cơ chế bảo vệ người lao
động, nước ta đã sớm thực hiện các chế độ BHXH, vào loại sớm nhất so với
nhiều nước trong khu vực. Hệ thống BHXH ở nước ta đã sớm bao gồm gần
hết các chế độ cần thiết và gần đủ các chế độ như đang áp dụng ở các nước
phát triển và đang phát triển.
Chính phủ ta cũng ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH. Sắc
lệnh 54/ SL ngày 01/11/1945 quy định những điều kiện cho công chức về
hưu; Sắc lệnh 105/SL ngày 14/06/1946 quy định về việc cấp học bổng cho
công chức; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/05/1950 quy định cụ thể hơn các chế độ
trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn và tiền tuất đối với công
chức….
Sau cách mạng tháng Tám thành công , trên cơ sở Hiến pháp năm 1946
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chính phủ đã ban hành một loạt các sắc
lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn , hưu trí cho công nhân
viên chức nhà nước ( có sắc lệnh 19/ SL ngày 12/03/1947 ; Sắc lệnh ngày
20/05/1950 và sắc lệnh 77 / SL ngày 22/05/1950 ). Cơ sở pháp lý tiếp theo
của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp 1959, thừa nhận công nhân viên
chức có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hóa trong điều lệ
tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước, ban hành kèm theo
Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Suốt trong những năm
tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách BHXH nước ta đã góp phần
Lê Thị Thu Trang

25

BHXH K48



×