Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện xoá đói giảm nghèo ở nước ta trong thời kỳ 2001 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.76 KB, 44 trang )

Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Xoá đói
giảm nghèo được coi là một trong những nội dung quan trọng ưu tiên hàng đầu
trong các mục tiêu phát triển xã hội của thế giới hiện đại.
Bước vào thiên niên kỷ mới, đói nghèo vẫn là một trong những thách thức
lớn nhất của nhân loại hướng tới tương lai, tại khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng
Liên hợp quốc về phát triển xã hội, tháng 6-2000 ở Giơ-ne-vơ (Thụy sĩ), cộng đồng
quốc tế tiếp tục cam kết thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, phấn đấu đến 2015
giảm 1/2 số người nghèo trên thế giới. Hội nghị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế
đẩy mạnh chiến dịch ''tấn công vào đói nghèo” và khuyến nghị các quốc gia cần có
chiến lược toàn diện về xoá đói giảm nghèo. Đặc biệt, Hội nghị thiên niên kỷ đầu
tháng 9-2000 của Liên hợp quốc tại Oa-sinh-tơn (Mỹ), một lần nữa khẳng định
chống đói nghèo là một trong những mục tiêu ưu tiên của cộng đồng quốc tế trong
thế kỷ XXI. Tại hội nghị này, chủ tịch nước Trần Đức Lương, trưởng đoàn đại biểu
Việt Nam đã đề nghị lấy thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI làm thập niên giành ưu
tiên cho xoá đói giảm nghèo trên phạm vi toàn thế giới, và đã được hội nghị đồng
tình cao.
Đối với Việt Nam, vấn đề xoá đói giảm nghèo càng trở nên quan trọng, là
nhiệm vụ cách mạng cao quý của toàn Đảng, toàn dân, nhất là trong thời kỳ đổi
mới. Đại hội IX của Đảng đã xác địng đường lối phát triển kinh tế của nước ta là ''
Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…”
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề xoá đói giảm nghèo, mà nước ta đã
thành lâp riêng một chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo. Vấn đề xoá đói
giảm nghèo từ trước tới giờ đã được rất nhiều các chuyên gia, các nhà khoa học
nghiên cứu. Song để góp phần vào thực hiện thành công của chương trình xoá đói
giảm nghèo. Em xin đưa ra ''Một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện xoá đói
giảm nghèo ở nước ta trong thời kỳ 2001-2005 ”. Đề án được hình thành từ việc
tập hợp các tài liệu khác nhau. Đặc biệt là sự hướng dẫn của thầy PHạm NGọc linh.
1



Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nhận thức về vấn đề còn han chế, chắc chắn
đề án sẽ còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
và sự phê bình của các thầy, cô để em có thể hiểu biết về vấn đề này được kỹ hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.

2


phần một

lý luận chung
I. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề đói nghèo

1.Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần thiết để giảm sự nghèo đói
Sau chiến tranh thế giới 2 vào những năm 60 các quốc gia đều nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Lúc này người ta đồng nhất
tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế và họ cho rằng tăng trưởng kinh tế là
mục tiêu kinh tế cơ bản của mọi xã hội, kết quả của nhận thức đó là nhiều nước
đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao, nhưng nó cũng bọc lộ những mặt hạn chế său
đây:
-Sự tăng trưởng kinh tế cao nhưng lại mang lại rất ít lợi ích cho người nghèo: Thể
hiện mức sống của hàng 100 triệu người ở Châu á, Trung đông ... thậm chí không
tăng mà còn giảm đi.
-Tỷ lệ thất nghiệp và bán thất nghiệp gia tăng.
-Xu hướng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập tăng lên, dẫn đến những
người nghèo tuyệt đối tăng lên hay những người nghèo tuyệt đối là phổ biến.
Nguyên nhân lớn nhất đó là sử dụng thu nhập hay nói cách khác là phân phối
thu nhập không hướng vào mục tiêu là cải thiện đời sống cho phần lớn dân cư.
Đến cuối những năm 60 số liệu thống kê về phân phối thu nhập của ấn Độ và
các nước đang phát triển khác được sưu tập đầy đủ. Qua những số liệu này, cho

thấy thực tế là không chỉ có vấn đề về sự bất bình đẳng của các nước nghèo khổ
cao hơn các nước giàu có như đã được dự đoán, mà còn nảy sinh các vấn đề
khác, như sự bất bình đẳng tiếp tục tăng lên rõ rệt ở các nước đang phát triển. Số
đông người dân ở một số nước hầu như không có lợi ích gì do tăng trưởng đem
lại. Như vậy, có thể nói rằng tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần nhưng chưa đủ
để cải thiện đời sống vật chất cho nhân dân. Có thể thấy, nếu không có sự tăng
3


trưởng thì một số người vẫn có thể giàu lên do chiếm đoạt thu nhập và tài sản
của người khác. Ngược lại sự tăng trưởng có khi tạo điều kiện cho một số ít
người giàu lên, trong khi đó đa số nhân dân vẫn sống trong nghèo khổ.
2.Vì sao thu nhập bình quân tăng lên mà đời sống nhân dân
không được cải thiện
Tăng trưởng để cải thiện đời sống nhân dân là mục đích mà Chính phủ một số
nước theo đuổi, song không phải tất cả các nước, Chính phủ đều theo đuổi mục
tiêu này. Những mục tiêu ưu tiên khác nhau trong phát triển chính là các nguyên
nhân làm cho tăng trưởng kinh tế không có nghĩa là nâng cao thu nhập của mọi
gia đình, mọi người dân...những nguyên nhân đó là:
Thứ nhất, tăng trưởng cao dựa trên cơ sở đầu tư vào những dự án quân sự,
những dự án xây dựng các thành phố hiện đại.
Thứ hai, thể hiện thông qua giải quyết mối quan hệ tiêu dùnzg và đầu tư, các
quốc gia quá nhấn mạnh vào các dư án đầu tư, hạn chế tiêu dùng dẫn đến không
cải thiện đời sống.
Thứ ba, thể hiện ở bất bình đẳng trong phân phối, thu nhập người giàu tăng lên,
thu nhập người nghèo giảm đi, vì thế chi tiêu của người giàu tăng và sẽ có ảnh
hưởng lớn đến cầu dẫn đến cung chủ yếu phục vụ cho người giàu và những
người giàu sẽ quyết định hàm cung.
Như vậy có thể giải thích vì sao trong khi quá trình công nghiệp hoá đang tiến
triển và tổng thu nhập quốc dân của đất nước liên tục tăng lên thì số đông dân

chúng còn sống trong nghèo khổ.
II. Thước đo đánh giá sự nghèo đói.

1. Nghèo đói tuyệt đối
*Khái niệm: là những người mà có mức thu nhập dưới mức thu nhập mà có thể
đáp ứng nhu cầu tối thiểu.
*Ranh giới nghèo đói:
4


+Theo ngân hành thế giới (WB):
-Trước năm 1975 xét theo thu nhập thì dưới 200$/người/năm, hoặc theo tiêu
dùng calo là 200 calo/người/ngày
-Hiện nay: thu nhập dưới 370$/người/năm hay 1$ người ngày hoặc 2100-2200
calo/người/ngày.
Theo tiêu chuẩn này thế giới hiện nay có khoảng 1,3 tỷ người nghèo đói và mỗi
năm số người nay lại tăng thêm 1,8% bằng với tốc độ tăng dân số của các nước
đang phát triển. Các khu vực có người nghèo nhất thế giới hiện nay là Châu Phi
và Châu á... Trong đó 80% số hộ nghèo sống ở nông thôn, 20% còn lại sống ở
các khu vực ổ chuột của thành phố. Nếu tính theo giới tính có 70% số người
nghèo là phụ nữ, vì họ thường bị trả lương thấp hơn nam giới, là những người
đầu tiên dễ bị sa thải viêc làm và ít có cơ hội học hành hơn đối với nam giới
Theo tiêu chuẩn này của ngân hàng thế giới thì Việt Nam người có thu nhập
dưới 4 triệu đồng/năm thì được coi là nghèo đói. Tuy nhiên theo quy chuẩn về
mức năng lượng cần đảm bảo là 220 calo/người/ngày và theo sức mua của đồng
tiền Việt Nam thì WB cho rằng mức nghèo đói trung bình của Viêt Nam là
1.090.000 đồng/người/năm.Trong đó ở thành thị là 1.293.000 đồng và ở nông
thôn là 1.040.000đồng, theo quy định này Việt Nam có khoảng 50% số dân
nghèo đói, trong đó 1/2 số dân này là nghèo đói về lương thực thực phẩm không
đáp ứng được nhu cầu calo hàng ngày

+Theo Việt Nam:
Theo tiêu chuẩn cũ của Việt Nam do Bộ lao động Thương binh và xã hội cũng
như doTổng cục thống kê đưa ra thì hộ nghèo là hộ không có khả năng tái sản
xuất mở rộng, bình quân ở thành thị là dưới 25Kg gạo/tháng ≈ 90.000
đồng/tháng; ở nông thôn đồng bằng là dưới 20Kg gao/tháng; nông thôn miền
núilà dưới 15Kg gạo/tháng. Hộ đói là những hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ
mặc, con cái không được học hành, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở rách

5


nát, bình quân đầu người dưới 13Kg gạo/tháng. Theo cách xác định này cả nước
có khoảng 20% hộ nghèo và 3,3% hộ rất nghèo.
Trong thời kỳ 1992-2000 do điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam chưa cho phép,
nên chúng ta phải áp dụng chuẩn nghèo thấp, chủ yếu là giải quyết vấn đề ăn
( tương đương chuẩn nghèo về lương thực của quốc tế).Trong 5-10 năm tới phấn
đấu nâng chuẩn nghèo lên khoảng 1,5 đến 3 lần so với chuẩn cũ. Trên cơ sở
nghiên cứu, khảo sát thực tế và sau khi thảo luận thống nhất của các bộ, ngành,
đoàn thể trung ương, các tỉnh thành phố, ngày 1-11-2000, Bộ Lao động-Thương
binh và Xã hộiđã ban hành quyết định số 1143/2000/QĐ-LBTBXH điều chỉnh
chuẩn hộ nghèo từ đầu năm 2001 là: vùng nông thôn miền núi, hải đảo:
80.000đồng/tháng, 960.000đồng/năm; vùng nông thôn đồng bằng: 100.000
đồng/tháng, 1.200.000đồng/năm; vùng thành thị: 150.000 dồng/tháng, 1.800.000
đồng/năm. Những hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định này
được xác định là hộ nghèo.
Chuẩn mới như trên vẫn còn quá thấp so với cuộc sống và chuẩn quốc tế. Song
nếu chúng ta nâng cao nữa thì điều kiên, khả năng nguồn lực không cho phép và
khi đó tỷ lệ đói nghèo lên đến 50-60% ở nước ta thị giúp đỡ san sẻ cũng khó
thực hiện (mọi người đều thuộc diện nghèo đói cả). Tuy nhiên, căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế, xã hội và kết quả thực hiện Chương trình xoá đói giảm

nghèo, các tỉnh, thành phố có thể nâng chuẩn hộ nghèo lên cao hơn so với quy
định trên với ba điều kiệ: thu nhập bình quân đầu người của tỉnh, thành phố cao
hơn thu nhập bình quân đầu người của cả nước; tỷ lệ hộ đói nghèo của tỉnh thành
phố thấp hơn tỷ lệ nghèo chung cả nước; có đủ nguồn lực hỗ trợ cho người
nghèo, hộ nghèo.Theo chuẩn mới này, tỷ lệ hộ đói nghèo của nước ta năm 2001
vào khoảng 17,2%
2. Nghèo đói tương đối.
Bên cạnh nghèo đói tuyệt đối ở nhiều nước còn xét đến sự nghèo đói tương
đối. Nghèo đói tương đối được xét trong tương quan xã hội, phụ thuộc vào địa
6


điểm dân cư sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó.
+Khái niệm: Sự nghèo đói tương đốiđược hiểu là những người sống dưới mức
tiêu chuẩn mà có thể chấp nhận được trong những địa điểm nhất định và thời
gian xác định. Đây là những người cảm thấy bị tước đoạt những cái mà đại bộ
phận những người khác trong xã hội được hưởng. Do đó, chuẩn mực để xem xét
nghèo đói tương đối thường khác nhau từ nơi này sang nơi khác hoặc từ vùng
này sang vùng khác. Nghèo đói tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập.
+Ranh giới:
-ở các nước đang phát triển là 1$/người
-ởcác nước phát triển là 14,2$/người
Phần hai

Thực trạng nghèo đói ở việt nam
I. Thực trạng

1. Nghèo đói của việt Nam theo đánh giá của WB
Ngân hàng thế giới tiến hành điều tra xác định mức độ nghèo đói của Việt

Nam dựa theo các tiêu chuẩn đã được xác định ở trên và bằng các phương pháp
đã được sử dụng rộng rãi tại các nước đang phát triển khác. Các nước tính này
dựa trên mức nhu cầu calo theo đầu người là 2100 calo/người/ngày. Đồng thời
cũng tính đến việc thay đổi giá cả theo từng vùng của một số nhóm hàng lương
thực, thực phẩm thiết yếu.Theo tiêu chuẩn này thì Việt Nam có khoảng 50% dân
số bị coi là nghèo đói, trong đó 1/2 số nghèo đói này tức là 25% dân số thuộc
diện nghèo đói về lương thực, thực phẩm với nghĩa là họ không thể đáp ứng
được các nhu cầu calo cơ bản hàng ngày, thậm chí ngay cả khi họ dùng toàn bộ
thu nhập của mình phục vụ cho nhu cầu lương thực và thực phẩm cơ bản.
Về mặt cơ cấu, mức độ nghèo đói ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị.

7


Cũng theo tiêu chuẩn đánh giá trên của WB, số dân nghèo khổ ở nông thôn
chiếm 57% cao gấp đôi so với các vùng đô thị. Như vậy, khoảng 90% tổng số
người nghèo đói tập trung ở các vùng nông thôn.
Về mức độ nghèo đói cũng không đồng đều giữa các khu vực. Đối với các vùng
xa xôi hẻo lánh tại Bắc trung bộ, số người nghèo đói chiếm 71%dân số.Tại các
vùng Trung du phía bắc, tỷ lệ này là 59%. Đây là hai vùng có mức độ nghèo đói
cao hơn mức trung bình của cả nước, hai vùng này chiếm khoảng 40% tổng số
người ngheò của Việt Nam, mặc dù dân số ở hai vùng này chỉ chiếm 29% tổng
dân số cả nước .Tại vùng Đông Nam Bộ, nơi có trung tâm kinh tế của cả nước là
thành phố Hồ Chí Minh thì tỷ lệ người nghèo so vơí tổng số dân của vùng là
thấp nhất cả nước, chỉ có 33%. Bốn vùng khác là cao nguyên Trung bộ, Đồng
bằng sông Hồng, duyên hải miền trung, và Đồng bằng sông Cửu Long là các
vùng có tỷ lệ nghèo đói thấp hơn mức trung bình cả nước một chút ít, chiếm
khoảng 48-50%

8



2. Nghèo đói của Việt Nam theo đánh giá của Bộ lao động thương binh và xã
hội thời kỳ 1997-1998.
Để đánh giá tình trạng nghèo đói ở Việt Nam phù hợp với điều kiện mới, qua
các số liệu nghiên cứu thực tế, Bộ lap động thương binh và xã hội đã đưa ra tiêu
chuẩn đánh giá nghèo đói thời kỳ 1997-1998:
+Hộ đói:
-Hộ thiếu ăn từ 3-6 tháng
-Dụng cụ sinh hoạt gia đình không đáng kể.
- Con cái thất học
- Nhà ở dột nát
- Bình quân đầu người trong hộ 13Kg gạo/tháng tương đương với
45000đồng/tháng
+Hộ nghèo: - ở miền núi, hải đảo: bình quân đầu người 15Kg gạo/tháng tương
đương với 55000đồng/tháng
- ở nông thôn (vùng đồng bằng trung du): bình quân 20Kg
gạo/người/tháng tương đương với 70000đồng/tháng
-ở thành thị : bình quân 25Kg gao/người/tháng tương đương với
90000đồng/tháng
Theo tiêu chuẩn này, tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam biến động như sau
Tỷ lệ nghèo đói của Việt Nam thời kỳ 1997-1998(%)
1993
20,3

1997
17,7

1998
15,8


Biểu trên cho thấy, Việt Nam đã đạt được kết quả đáng kể trong nỗ lực xoá đói
giảm nghèo. Đó chính là kết quả của việc thực hiện đồng bộ các chính sách đối
với người nghèo: chính sách đất đai, vốn, đào tạo nghề, chính sách miến gỉảm
9


thuế và đóng góp xã hội. Đồng thời là kết quả của chính sách đầu tư cơ sở hạ
tầng cho các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa; và các giải pháp về nâng cao
trình độ văn hoá, giáo dục... Tuy vậy, cũng cần nhận thấy một vấn đề đang đặt ra
là tuy mức sống của người nghèo đã được cải thiện một phần nhưng khoảng
cách giàu nghèo vẫn đang gia tăng đáng kể. Theo công bố chính thức của ban chỉ
đạo điều tra mức sống dân cư Trung ương về mức sống hộ gia đình Việt Nam
thời kỳ 1997-1998 khoảng cách chênh lệch giàu nghèo thời kỳ này đã lên tới
11,3 lần
khoảng cách giàu nghèo nàyngày càng tăng do các hộ thuộc nhóm nghèo tuy thu
nhập có tăng nhưng tốc độ tăng chậm hơn so với các hộ thuộc nhóm giàu. Do
vậy, đây là vấn đề đặt ra khi giải quyết xoá đói giảm nghèo của nước ta.
3. Đánh giá chung
Dựa theo các tiêu chuẩn của Việt Nam, theo tính toán đến cuối năm 1997 cả
nước có khoảng 2,7 triệu hộ đói nghèo chiếm 17,4% tổng số hộ của cả nước.
Điều đặc biệt, trong số đó có 0,9 triệu hộ đói kinh niên, chiếm 30%. tỷ lệ xã
nghèo chiếm 12% tổng số xã, còn khoảng 1200 xã thiếu cả 6 công trình cơ sở hạ
tầng thiết yếu (đường ô tô đến trung tâm xã, điện thắp sáng đến trung tâm xã,
trường tiểu học, trạm xá, nước xạch sinh hoạt, chợ của xã hoặc liên xã ). Hiện
nay vẫn còn hơn một triệu người đang sống du canh du cư, còn 20 dân tộc thiểu
số (có số dân dưới 10 ngàn người ) đang sống cuộc sống đặc biệt khó khăn.
Trong hơn một thập niên vừa qua, thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đạt
được những thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế xã hội. Để giảm bớt tình
trạng nghèo đói, chúng ta đã có chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.

Đến nay, công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được những kết quả đáng kể như:
tỷ lệ số hộ diện nghèo giảm tình trạng đòi cũng bớt gay gắt. Trong báo cáo: ''Việt
Nam tấn công đói nghèo” của ngân hàng thế giới (WB), được công bố tại hội
nghị nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam tổ chức trong ngày 14 và 15-12-1999 tại

10


Hà Nội, đã khẳng định: Viêt Nam đã đạt được những tiến bộ to lớn trong giảm
đói nghèo. Tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% của năm 1993, xuống
còn 37% vào năm 1998.
Nhờ trú trọng thực hiện xoá đói giảm nghèo mà nước ta đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ.Tỷ lệ hộ đói nghèo trên tổng số hộ trong cả nước đã từ 30%
năm 1992 giảm xuống còn 20% năm 1995 và 11% năm 2000 (theo tiêu chuẩn
của Việt Nam). Đạt được mục tiêu đề ra và nước ta được cộng đồng quốc tế
đánh giá là một trong những nước giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất.
Công cuộc xoá đói giảm nghèo, ngày càng được nhân rộng và đi vào chiều sâu
từ khi chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo.
với sự có gắng của Đảng và Nhà nước, của nhân dân và sự hợp tác, giúp đỡ của
quốc tế trong 10 năm qua đã giảm hơn hai triệu hộ đói nghèo tỷ lệ đói nghèo
giảm nhanh mỗi năm bình quân giảm được 250.000 hộ, riêng giai đoạn 19962000, mỗi năm giảm được 300.000 hộ(2%), đạt được mục tiêu do nghị quyết của
đại hội VIII của Đảng đề ra.
Tuy nhiên, tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội, sự chênh lệch về phát triển
kinh tế là một thực tế đối với miền núi, miền xuôi. hàng năm Trung Ương phải
cấp cho các tỉnh miền núi tới 50% ngân sách tỉnh, nhiều tỉnh phải cấp đến 80%
như Lai châu, Sơn la. Trong lúc đó mức tăng trưởng GDP của các tỉnh miền núi
phía Bắc chỉ đạt khoảng 5-6%, cũng có một số tỉnh là vùng núi có chỉ số GDP
tăng trưởng cao hơn mức trung bình của cả nước song giá trị tuyệt đối tăng rất ít.
Tình trạng du canh du cư vẫn còn tồn tại hoặc tái hồi ở một số vùng dân tộc ít
người ở các tỉnh phía Bắc, Tây nguyên... Có nơi việc làm lương rãy vẫn tồn tại ở

mức thô sơ: phương thức chọc lỗ, tra hạt, việc săn bắn hái lượm, trông chờ chủ
yếu vào nguồn của cải tự nhiên, vẫn còn tồn tại như một phương thức ở các dân
tộc vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa nơi mà các điều kiện xản xuất nông nghiệp,
xản suất lương thực còn khó khăn.
IΙ. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói.

11


Đói nghèo là một hiện tượng lịch sử-xã hội, một hiện tượng kinh tế xã hội
thường có trong quá trình phát triển và do đó dẫn đến tình trạng bất bình đẳng
giữa các nhóm người trong xã hội. Đói nghèo ở nước ta hình thành và diến biến
với những nét riêng biệt, tạo bởi tổng hợp rất nhiều nguyên nhân. Song có thể
chia thành các nhóm nguyên nhân sau đây.

12


1. Nhóm nguyên nhân do điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện tự nhiên và
điều kiện lịch sử của đất nước
1.1 Điều kiện kinh tế xã hội.
1.1.1.Nuớc ta vẫn là một nước nông nghiệp nghèo mà nông thôn chỉ xản xuất
thuần nông,độc canh cây lúa, tự cung, tự cấp và dân số tăng nhanh.
Thu nhập bình quân đầu người ở nước ta rất thấp (dưới 350$/người/năm)
Theo ngân hàng thế giới chuẩn mực của đói nghèo là thu nhập dưới
370$/người/năm. ở Việt Nam, các hộ nghèo chủ yếu là hộ thuần nông.Theo
chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèocho biết thì có tới 61,49%hộ nghèo
thuần nông, không có nghề phụ khác, trong đó Đồng Nai có 80%,
Tiền Giang có 69%, Bình Định 67%, Hoà Bình 67%... Hầu hết những người
nghèo không có nghề mà chủ yếu là lao động thủ công, họ khó tiếp cận được với

thị trường vì học vấn thấp, không có nghề và chất lượng sản phẩm của họ không
đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Mặc dù nước ta là một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, nhưng
hiện tượng đói nghèo trong nông thôn vẫn khá phổ biến và vẫn là vấn đề xã hội
gay gắt hiện nay và trong nhiều năm tới. Trên tổng thể do nước ta có tốc độ tăng
trưởng dân số tự nhiên vẫn ở mức cao, dân số thuộc loại trẻ, số người phải nuôi
dưỡng trên một lao động còn lớn, nên mặc dù sản lượng lương thực tăng (sau 10
năm tăng gấp 2 lần), song bình quân lương thực đầu người vẫn ở mức trên
300Kg là mức rất thấp (chưa vượt được ngưỡng nghèo khổ theo tiêu chuẩn của
thế giới).
Đồng bào các dân tộc ít người, các dân tộc ở vùng sâu, vùng xa còn quá nghèo,
chưa biết tổ chức sắp xếp sản xuất, phương thức sản xuất lạc hậu, thô sơ, chưa
có điều kiện tiếp cận với các phương thức sản xuất mới, đặc biệt là các dân tộc ít
người thuộc các tỉnh miền núi cao phía Bắc và Tây nguyên.Tình trạng di dân tự
do, sống du canh du cư còn nhiều, diện vận động định canh, định cư trong cả
13


nước khoảng 3,1 triệu người ở rải rác 1913 xã, 206 huyện ,36 tỉnh trung du miền
núi . Từ năm 1968 đến nay đã tuyên truyền vận động được 2 triệu người định
canh định cư vững chắc (0,6 triệu người ở 3378 thôn, Bản; 1,4 triệu người đang
được đầu tư theo dự án). Như vậy, còn trên một triệu người chưa được đầu tư
theo dự án định canh định cư và đang gặp không ít khó khăn.
Cả nước hiện nay có khoảng 1300 xã (chiếm 15% trong tổng số 8730 xã của
khu vực nông thôn), rất yếu kém về các công trình kết cấu hạ tầng, không có
hoặc có nhưng đã xuống cấp nghiêm trọng về đường ô tô tới trung tâm xã, nước
sạch, điện, trường học, trạm xá, chợ và các công trình văn hoá khác.
các yếu tố này chính là những nguyên nhân làm cho sự nghèo đói vẫn đang tồn
tại ở cộng đồng dân cư miền núi phía bắc, Tây nguyên và các vùng nông thôn
khác.

1.1.2. Chính sách của nhà nước còn những điểm chưa phù hợp.
Thể chế chính sách còn những mặt bất cập như: chinh sách đầu tư cơ sở hạ
tầng (đường sá, điện, nước), chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tự tạo
việc làm, xoá đói giảm nghèo (chính sách thuế, tín dụng ưu đãi), chính sách trợ
giúp đối với gia đình thuộc diện chính sách xã hội còn thiếu, chưa hoàn thiện
chính sách hạn chế tệ nạn xã hội. Một số chính sách lại bị áp dụng cứng nhắc,
không phù hợp.
Nhiều vùng ở nước ta hiện nay còn quá khó khăn nhưng trên thực tế chưa có
nhiều chính sách hỗ trợ ngân sách kịp thời cho các vùng này. Mặt khác, việc
hướng dẫn cách làm ăn cho thích ứng với cơ chế mới chưa được triển khai rộng
khắp, việc chuyển giao công nghệ cho người nghèo còn gặp nhiều trở ngại lớn.
cả nước có 1445 xã có tỷ lệ nghèo đói > 40%, trên 2,6 triệu nghèo trong đó 90%
số hộ thiếu kiến thức làm ăn, thiếu kỹ thuật cơ bản, chưa biết cách tổ chức buôn
bán, hoạt động dịch vụ. Đặc biệt nhiều hộ còn không biết chi tiêu, tổ chức lao
động trong gia đìng mình. Do vậy, nhiều hộ dược vay tín dụng song cũng không

14


biết sử dụng số vốn vay đó như thế nào. Điều quan trọng ở đây là người nghèo
chưa được thường xuyên hỗ trợ trong suốt quá trình sản xuất. Chưa biết gắn sản
xuất với thị trường tiêu thụ sản phẩm, không có điều kiện học hỏi king nghiệm
phát triển vốn, chính sách giải quyết ruộng đất và hỗ trợ công cụ sản xuất cho
người nghèo còn chưa được trú trọng đúng mức. Hiện nay nước ta có khoảng
370.000 hộ nghèo đói không có hoặc thiếu ruộng đất và công cụ sản xuất chiếm
2% tổng số hộ trong cả nước và chiếm 10% số hộ nghèo đói tập trung nhiều ở
vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống tín dụng cho người nghèo chưa phát
triẻn và hoàn thiện. Hiện nay có khoảng 2,6 triệu hộ nghèo muốn vay vốn để sản
xuất king doanh. Tỷ lệ số hộ nghèo được vay vốn rất thấp, mức vay cũng ít, cơ
chế thế chấp và lãi suất còn lớn, nên vẫn gây khó khăn đối với người nghèo.

Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo cũng còn những mặt hạn chế,
nhiều xã nghèo tuy được miến giảm học phí nhưng học sinh vẫn không có tiền
mua vở, sách giáo khoa. Như vậy, chính sách đầu tư trong thời gian qua chưa đủ
mạnh để làm bật lên một vùng tiềm năng. Đồng thời các chính sách khác như:
dân số việc làm, giáo dục, y tế cũng chưa đồng bộ, chưa tác động cùng chiều
hoặc còn chồng chất với chính sách xoá đói giảm nghèo.
1.1.3.Trình độ dân trí nhìn chung thấp
Trình độ dân trí còn hạn chế: phong tục tập quán nhiều nơi khá lạc hậu, tình
trạng dân cư mù chữ khá nhiều (nhất là vùng dân tộc và mù cả chữ dân tộc chứ
không riêng gì chữ phổ thông…)
Trình độ hoc vấn không những là chỉ số quan trọng về chất lượng cuộc sống mà
còn là nhân tố quyết định đối với khả năng đạt tới cơ hội có thể tạo nên thu nhập
khá lớn của những người nghèo. Thực tế cho thấy những hộ gia đình mà chủ hộ
thất học có tỷ lệ nghèo đói cao hơn so với các hộ khác. Nếu tính theo tiêu chuẩn
của ngân hành thế giới đối với Việt Nam nghĩa là chấp nhận tỷ lệ nghèo đói là
50% thì (WB) cũng đưa ra tỷ lệ nghèo khổ của hộ gia đình phân theo trình độ
học vấn chủ hộ như sau:
15


+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ tiểu học (cấp I) thì tỷ lệ nghèo khổ là
54%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ phổ thông cơ sở (cấp II) thì tỷ lệ nghèo
khổ là 52%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ phổ thông trung học thì tỷ lệ nghèo khổ
là 41%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ qua đào tạo dạy nghề thì tỷ lệ nghèo khổ
là 33%
+Những gia đình mà chủ hộ có trình độ đại hoc thì tỷ lệ nghèo khổ là 11%
1.2. Điều kiện tự nhiên

Nước ta có địa hình phức tạp, diện tích đất tự nhiên đã ít lại không màu mỡ,
khô cằn, núi đá nhiều, dẫn đến diện tích canh tác nhỏ hẹp, năng suất cây trồng
thấp. Các vùng hẻo lánh, chưa được đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng như đường
giao thông, trường học, trạm y tế… Do đó, những vùng này thường có tỷ lệ đói
nghèo cao hơn nhiều nơi khác. Bên cạnh đó, điều kiện thời tiết, khí hậu lại
thường xuyên không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp: năng, mưa, nóng, lạnh
thất thường; hạn hán, bão, lụt và đó là nguyên nhân cơ bản làm cho khoảng 2
triệu người thiếu đói hàng năm. Có thể kết luận rằng nguyên nhân chính gây nên
đói nghèo cấp tính là do hậu quả thiên tai.
1.3.Điều kiện lịch sử
Đói nghèo nước ta đã có trong xã hội phong kiến, xã hội thực dân phong kiến.
Tình trạng đói nghèo ở nông thôn là một đặc trưng của đói nghèo ở Việt Nam
trước đây. Hiện nay nét đặc trưng này vẫn còn tiếp tục hiện hữu, nó phản ánh
trình độ phát triển kinh tế thực tế ở nước ta – một nước vẫn chủ yếu dựa vào nền
nông nghiệp và nông dân là bộ phận chủ yếu trong cơ cấu dân cư
2. Nghèo đói có xu hướng tăng do sự chuyển đổi cơ chế kinh tế.

16


Việc xoá bỏ cơ chế kế hạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ
chế thị trường ở nươc ta là đúng đắn và cần thiết, nhưng cơ chế, chính sách mới
chưa được ban hành đầy đủ và kịp thời trong hoàn cảnh mới nên nhiều nơi đầu
tư phúc lợi xã hội bị giảm, các vướng mắc về y tế, giáo dục… Đến nay tuy đã
giải quyết nhưng chưa cơ bản. Đặc biệt đốivới người nghèo, mọi biện pháp cứu
trợ đều chỉ có giá trị nhất thời không thể làm thay đổi hoàn cảnh nghèo đói kinh
niên của họ. Điều quan trọng là phải tạo điều kiện cho họ để họ tự giải quyết đói
nghèo thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra và
tăng thêm thu nhập cho gia đình. Tuy nhiên, điều này nhiều khi không thực hiện
được vì:

Một là, thiếu thị trường cung cấp vật tư nông nghiêp, nguyên liệu, vật liệu cho
các hoạt động ngành nghề và đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm của người
nông dân theo giá thoả thuận.
Hai là, thị trường có mức ổn định thấp, hiện nay nó được coi là nguyên nhân
quan trọng làm cho người nghèo đói khó có thể tự xoá đói giảm nghèo.
Việc đầu tư dàn trải, chưa chú ý đến các vùng chưa phát triển hoặc chậm phát
triển. Cơ cấu kinh tế cũng chậm được chuyển đổi, nhất là trong nông thôn, nên
các ngành nghề mới trong nông nghiệp và nông thôn chưa phát triển; ruộng đất
bình quân đầu người thấp, do đó quỹ thời gian lao động dôI ra rất lớn (khoảng
35%). Người nghèo đã ít ruộng đất lại không có nghề phụ nên không có cơ hội
để thoát khỏi đói nghèo.
Giá cánh kéo giữa hàng nông sản và các mặt hàng công nghiệp thiết yếu, dịch
vụ những năm gần đây chênh lệch khá xa. Mặt khác nông dân tiêu thụ các sản
phẩm nông nghiệp qua các trung gian nên thường bị ép giá dẫn dến thiệt thòi khá
lớn về vật chất, có khi sản phẩm làm ra không tiêu thụ được
3. Đói nghèo sinh ra do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ
3.1. gia đình đông con ít lao động
Dân số và nghèo đói có mối quan hệ hai chiều với nhau. Dân số đông sẽ dẫn
17


đến nghèo đói và trong phạm vi gia đình thì đông con sẽ dẫn đến nghèo đói. số
liệu điêu tra về giàu nghèo trong nông nghiệp cho thấy: trên 40%số hộ nghèo vì
có nhiều con, nhiều lao động dư thừa không làm việc mà hàng ngày vẫn phải ăn
tiêu. Kết quả điêu tra của chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo cho thấy
trong các hộ giàu, mỗi lao động một năm làm việc tới
270-300 ngày, ngoài ra còn phải thuê thêm lao động bên ngoài, trong khi đó, các
hộ đói, nghèo chỉ làm việc chưa đến 90 ngày trong năm, trong đó gần 60 ngày
làm cho gia đình mình và 30 ngày đi làm thuê. Điều này cho thấy không có việc
làm là nguyên nhân trực tiếp của đói nghèo.

Nhiều hộ không thiếu lao động nhưng thực tế họ mới sử dụng được khoảng 1/3
số thời gian có khả năng lao động trong năm vì một phần do trình độ của chủ hộ
và các thành viên trong hộ rất hạn chế bình quân 24,3%còn mù chữ, 53,6%có
trình độ văn hoá cấp I, 20,3%có trình độ cấp II và chỉ có 1,7% có trình độ văn
hoá cấp III. Nhiều hộ nghèo là do đông nhân khẩu,ít người làm. Hiện tại, một lao
động trong độ tuổi lao động của hộ nông dân nghèo phảI nuôI khoảng 2 người.
Trong số hộ nghèo có 11% số hộ thuộc diện chính sách, phần lớn là người già
sức yếu, hộ mà người làm thì ít người ăn thì nhiều.
3.2. Thiếu vốn hoặc không có vốn để kinh doanh
+ Về năng lực cạnh tranh: Qua điêu tra của Bộ lao động thương binh và xã hội.
Nguyên nhân đói nghèo vì thiếu vốn chiếm 70 -90% tổng số hộ được điều tra.
Nhiều hộ nghèo thiếu vốn muốn vay ngân hàng để sản xuất kinh doanh nhưng
lạI không có tài sản thée chấp, nên lại phải vay tư nhân với lãi suất cao. Qua
nghiên cứu có thể thấy rằng, thiếu vốn cũng như không có kinh nghiệm làm ăn là
những nguyên nhân ổn định, có trọng số cao dẫn đến đói nghèo.
+ về năng lực trí tuệ: Kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất kinh doanh của các hộ
nghèo rất hạn chế có tới 45,7% số hộ nghèo không biết cách làm ăn. Tỷ lệ này ở
Hà Nam và Bình Định chiếm 52-58%; ỏ Hoà Bình, Đắc Lắc lên tới 80%(theo
kết quả điều tra của chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo).

18


Trên 90%hộ nghèo chưa được tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới về chăn
nuôi và trồng trọt và hoạt động tiểu thủ công nghiệp, vì vậy hộ nghèo không tự
nghĩ ra được cách làm ăn hiệu quả, chưa biết cách bắt chước hộ giàu làm ăn. Mặt
khác, họ thiếu cả kiến thức sơ đẳng về phòng chống thiên tai, phòng trừ sâu
bệnh, quản lý và sử dụngnguồn vốn, quản lý và sử dụng trong gia đình.
Bên cạnh số hộ nghèo không biết cách làm ăn, thì số người lao động, hay rượu
chè, ăn tiêu lãng phí cũng không ít, chiếm tới 5-6%(theo điều của Bộ lao động

thương binh và xã hội). Ngay cả khoản vốn được vay để xoá đói giảm nghèo
cũng không dùng để sản xuất mà lại trông chờ vào sự may rủi cờ bạc, nên không
những không xoá được đói giảm nghèo mà còn không thanh toán được khoản
vốn vay.
3.3. Thiếu tư liệu sản xuất (ruộng đất, công cụ lao động) thiếu việc làm không
có nghề phụ kèm theo.
ở nước ta, đất nông nghiệp bìng quân đầu người thấp, chỉ đạt 477 m2, chủ yếu
độc canh cây lúa (chiếm 88,5% diện tích), hệ số sử dụng đất thấp ruộng đất thấp
chỉ đạt 1,2 lần/năm. Bình quân ruộng đất đối với các hộ nghèỏ nhiều nơi còn
thấp hơn mức bình quân của cả nước rất nhiều do các hộ nghèo vừa không có
khả năng sản xuất hết ruộng, vừa nợ sản phẩm, nên nhiều hộ nghèo bị hợp tác xã
thu lại đất để giao cho hộ khác. số liệu điều tra cho thấy 60% số hộ nghèo là do
thiếu đất. các tư liệu sản xuất khác cũng vậy, bình quân 10 hộ nghèo có một con
trâu, bò cày kéo, 3 chiếc cày bừa, và mỗi hộ có 4 công cụ cầm tay các loại,
không có các loại máy móc, công trình hay tài sản khác phục vụ sản xuất, ít gia
đình chăn nuôi gia súc sinh sản. Nói chung, hộ nghèo đều thiếu công cụ lao
động.Hơn thế nữa, những người nghèo hầu hết là không có nghề phụ. Đây là tình
trạng phổ biến ở tất cả các tỉnh, ngoài sản xuất trồng trọt nông dân nghèo không
có vốn để phát triển chăn nuôi, làm ngành nghề. Trong cơ cấu thu nhập của hộ
nghèo chỉ có 62% thu từ chăn nuôi; 5,4% thu từ ngành nghề (có nơi chỉ đạt 12%) Lao động dư thừa nghiêm trọng mặc dù có 43% số hộ chấp nhận đi làm

19


thuê nhưng cũng không được nhiều.
Những nguyên nhân trực tiếp trên đây đã dẫn tới kết quả sản xuất và đời sống
của các hộ nghèo rất thấp, và từ kết quả sản xuất và đời sống thấp kém lại dẫn
đến tình trạng đẻ nhiều con, thiếu vốn, không có vốn để kinh doanh... Đó thực sự
là cái vòng luẩn quẩn mà hiện nay chưa tìm được lối thoát hữu hiệu.
III. kinh nghiệm của một số nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với vấn đề

xoá đói giảm nghèo

Mô hình tăng trưởng kinh tế của các nước đông á được mô tả lúc đầu dựa
vào phát triển nông nghiệp, sau đó là dựa vào xuất khẩu các mặt hàng công
nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động, và đến nay tăng trưởng nhanh chủ yếu
dựa vào các sản phẩm xuất khẩu, dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng
nhiều lao động lành nghề. Như vậy, cùng với tăng trưởng kinh tế, các nước này
giảm dần tỷ lệ đói nghèo.
Ví dụ Inđônêxia đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 60% năm 1970 xuống còn 11% năm
1996, và cùng với giảm nghèo đói, chất lượng cuộc sốngcủa người dân
Inđônêxia được cải thiện đáng kể: tuổi thọ trung bình tăng lên, giáo dục được
phổ thông hoá ngày càng được nâng cao.
ở Hàn Quốc cũng có tình hình tương tự. Cùng với các biện pháp để thúc đảy
tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao, Hàn Quốc đã có những biện pháp để giảm bớt
nghèo khổ và thoả mãn nhu cầu cơ bản của nhân dân. Cũng như Inđônêxia, Hàn
Quốc là một mô hình tăng trưởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội. Sở dĩ
các quốc gia và lãnh thổ Đông á giải quyết khá thành công mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội vì các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã
giải quyết tốt hai vấn đề sau:
1. Phát triển sản xuất nông nghiệp và cung cấp dịch vụ cho nông thôn.
Kinh nghiệm của các nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn
Quốc, Inđônêxia, malaixia đã khẳng định rằng khu vực nông thôn có khả năng
biến đổi, từ chỗ sản xuất độc canh với năng suất thấp đến chỗ đa dạng hoá ngành
20


nghề với năng suất cao hơn, do đó có cơ hội đẻ tăng thu nhập, có điều kiên để
cải thiện về giáo dục, y tế, nước sạch, môi trường… và trên cơ sở đó đạt được
công bằng xã hội hơn trước. Để thực hiện được điều này, Nhà nước có vai trò
tiên quyết trong việc cung cấp dịch vụ cho nông thôn thể hiện ở các điểm sau:

-Nhà nước tài trợ nhiều cho việc phát triển các dịch vụ kinh tế ở nông thôn, trong
đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng. Điều này có vai trò quan trọng trong việc biến đổi
nông thôn, vì giao lưu kinh tế sẽ được mở rộng, năng suất lao động tăng lên, có
cơ hội mở mang các ngành nghề nông nghiệp, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng và
giảm bớt đói nghèo.
-Nhà nước cung cấp các dịch vụ xã hội ở nông thôn, đặc biệt là giáo dục và y tế
-Ngân sách nhà nước có vai trò chủ yếu đối với việc cung cấp hai loại dịch vụ
nói trên. Nhờ vậy, khu vực nông thôn từng bước biến đổi và phát triển, góp phần
xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn vấn đề công bằng xã hội.
2. Đầu tư sứng đáng cho vấn đề giáo dục.
Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
khu vực Đông á và Đông Nam á. mặt khác, giáo dục phát triển tác đông rất lớn
đến công bằng xã hội. Vì trình dộ của người lao động được nâng cao, năng suất
lao động tăng nhanh, do đó thu nhập của hộ tăng lên nhanh, điều đó góp phần
giảm bớt sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và giảm bớt tình trạng đói
nghèo.

21


22


phần ba

những giải pháp cơ bản thực hiện
xoá đói giảm nghèo
I. Quan điểm và mục tiêu xoá đói giảm nghèo

1. Quan điểm

Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Để giảm
bớt đói nghèo, mỗi quốc gia khác nhau có cách tiếp cận giải quyết khác nhau.ở
ta để giảm bớt đói nghèo chúng ta cần phải xây dựng và thực hiện thành công
chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
Chương trình quốc gia về xoá đói giảm nghèo được xây dựng dựa trên các quan
điểm chỉ đạo sau:
+ xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm của toàn xã hội, vừa là nhiệm vụ cấp bách
vừa mang tính thường xuyên, liên tục của các cấp các ngành
+ Chương trình xoá đói giảm nghèo mang tính liên ngành cần phải được lồng
ghép với các chương trình kinh tế xã hội khác. Sự lồng ghép đó phải hướng tới
mục tiêu của xoá đói giảm nghèo
+ Chương trình xoá đói giảm nghèo được thực hiện theo phương châm xã hội
hoá cao; phát huy tính tự chủ, tự vươn lên và tính sáng tạo của địa phương, của
chính các hộ nghèo và người nghèo; Lấy xã làm đơn vị cơ bản để xác định đối
tượng mục tiêucủa chương trình và là địa bàn thực hiện các đề án và lồng ghép
các chương trình khác với xoá đói giảm nghèo
+ Chương trình xoá đói giảm nghèo cần tiến hành đồng bộ các chính sách và giải
pháp tập trung và ưu tiên đầu tư vaò những nơi có tỷ lệ hộ nghèo đói cao.
2. Mục tiêu về xoá đói giảm nghèo :
2.1 Mục tiêu tổng quát
Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo thông qua những biện pháp cụ
23


thể, sát với tình hình từng địa phương nhằm xoá nhanh các hộ đói giảm giảm
mạnh các hộ nghèo. Tiếp tục tăng nguồn vốn xoá đói giảm nghèo, mở rộng các
hình thức tín dụng phục vụ người nghèo sản xuất kinh doanh. Có chính sách trợ
giá nông sản, phát triển việc làm, mở rộng nghề phụ nhằm tăng thu nhập cho các
hộ nông dân.
Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu

chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát
triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư. Phấn đấu đến
năm 2010 cơ bản không còn hộ nghèo, đại bộ phận người nghèo tiếp cận được
các dịch vụ xã hội; hoàn thành cơ bản các mục tiêu trợ giũp xã đặc biệt khó
khăn, mở rộng cơ hội cho người nghèo thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội
và phúc lợi xã hội.
2.2. Mục tiêu cụ thể giai đoạn 2001-2005
Phấn đâu trong năm tới về cơ bản xoá được nạn đói kinh niên, giảm tỷ lệ
đói nghèo xuống còn 10%. Riêng ở miền núi cố gắng giảm tỷ lệ đói xuống dưới
30%. Đối với vùng cao, vùng sâu, vùng xa (chiếm 85% diện tích tự nhiên và
60% dân số miền núi), là những nơi khó có cơ hội để thoát khỏi cảnh đói nghèo
thì mục tiêu đặt ra là: 100% dân sống định cư, đưa tỷ lệ nghèo từ khoảng 70%
hiện nay xuống còn 40%. Nếu như các hộ ở miền xuôi chủ yếu nghèo vì các
nguyên nhân như thiếu tư liệu sản xuất, thiếu vốn, thiếu kiến thức làm ăn, thì các
hộ nghèo ở miền núi ngoài các nguyên nhân đó, còn bị chi phối bởi điều kiện tự
nhiên khắc nhiệt, địa hình phức tạp, cản trở, cơ sở hạ tầngthấp kém, môi trường
bị suy thoái… Do vậy, ởvùng cao, vùng sâu, vùng xa cần phải có những chương
trình và mục tiêu toàn diện, lâu dài hơn, đặc biệt tập trung vào các xã vùng sâu,
vùng xa, vùng cao, nơi có tỷ lệ nghèo cao nhất, nơi tập trung nhiều khó khăn
nhất. Đến nay, sơ bộ đã xác định được 1700 xã thuộc diện này với 1,190 triệu hộ
tương đương với 6,6 triệu dân. ỏ các xã này, hiện nay tỷ lệ nghèo còn rất cao.
Đến năm 2005 tất cả các xã có đủ các công trình kết cấu hạ tầng: diện, đường

24


giao thông, trạm y tế, trường học cấp cơ sở, chợ và nước sạch, giảm tỷ lệ xã có
tỷ lệ đói nghèo cao (trên 40%) từ 15% xuống còn 10%.
II. Những giảI pháp cơ bản xoá đói giảm nghèo


Để đạt được mục tiêu đề ra về xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005
chúng ta cần phải áp dụng nhiều giải pháp khác nhau nhằm giải quyết căn bản
vấn đề đói nghèo. Trong đó có một số giải pháp cơ bản sau đây:
1. Trước hết cần phải xác định rõ đối tượng thuộc diện nghèo đói từ đó làm
cơ sở cho việc lập chương trình cụ thê trong cả thời kỳ trước mắt và lâu dài.
Công tác điều tra, khảo sát, phân tích đúng nguyên nhân, lập danh sách hộ đói
nghèo trở thành phương pháp, công cụ quan trọng cho công tác quản lý nhà nước
và bảo đảm tính thưc tế căn cứ để thực hiên xoá đói giảm nghèo; xay dựng kế
hoạch biện pháp cụ thể; thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện.
Dựa vào các số liệu điều tra chính xác, tiến hành lập dự án, quy hoạch chi tiết
đến từng xã nghèo với sự tham gia của các ngành, các cơ quan khoa học và địa
phương. Quy hoạch cần được xây dựng từ hai phương án trở lên để cân nhắc, lựa
chọn trước khi quyết định. Để từ đó từng xã có thể xác định được khả năng tự
giải quyết nhằm thực hiện mục tiêu của chương trình.
2. Trung ương tiếp tục đầu tư cho chương trình với mức ngày càng cao
hơn.
Một trong những vấn đề mà nhà nước cần quan tâm là tạo vốn cho người
nghèo nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập cho người nghèo.
-Hướng đầu tư của trung ương nên tập trung vào xây dựng mới và nâng cấp cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống.
-Phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo nhằm tạo nguồn vay ổn định và tăng quy mô
phạm vi cho vay. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cho vay vốn. Huy
động tối đa các nguồn lưc trong nước, những tiềm năng trong dân cư, trong các
tổ chức kinh tế, xã hội đồng thời tranh thủ các nguồn viên trợ chính phủ, phi
chính phủ, kiều bào ở nước ngoài tham gia đóng góp cho quỹ này.
25


×