Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Thực trạng và giải pháp về vấn đề tìm việc làm ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.15 KB, 42 trang )

Trong thời kỳ hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế của thị trường đồng thời có sự quản lý của nhà
nước. Chúng ta đã đem lại cho chúng ta những bước thay đổi đáng kể trong việc
phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời trong quá trình hội nhập đã đem lại ho chúng
ta những tiến bộ đáng kể về mặt khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý sản xuất trong
sản xuất hàng hoá. Nhưng bên cạnh những thành tựu, những bước phát triển
những ưu thế của nền kinh tế thị trường vốn còn nhiều những tồn tại, điển hình đó
là thất nghiệp gia tăng, hố ngăn cách giầu nghèo ngày càng lớn và sự gia tăng của
các tệ nạn xã hội và tội phạm xã hội . . .
Do đó, để giải quyết những vấn đề trên, chúng ta phải có những chính sách
và những hướng phát triển thích hợp để đảm bảo cho sự phát triển của xã hội và
hạn chếnhững mặt trái của nền kinh tế thị trường. Mà trong đó việc làm đang là
vấn đề kinh tế xã hội bức xúc và nhạy cảm nhất ở nước ta vì nó đã gõ cửa đến
từng gia đình, là yếu tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế và là nguyên nhân, nguồn
gốc sâu xa gây ra những tiêu cực về mặt xã hội.
Vì vậy tôi đã chọn đề tài “việc làm ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” để
phân tích và đưa ra những giải quyết vấn đề này. Trong quá trình hoàn thành đề
tài. Em xin chân thành cản ơn GS.TS Đỗ Hoàng Toàn đã tận tình giúp đỡ em
hoàn thành đề tài này.
Đề tài gồm 3 phần :
Chương : Lý luận chung về việc làm.
Chương II : Thực trạng việc làm hiện nay ở nước ta.
Chương III : Một số giải pháp tạo việc làm trong các năm tới.

1


Chương I: lý luận chung về việc làm
I.

Hệ thống các quan điểm về việc làm



1.

Quan niệm cơ bản của thế giới về lao động và việc làm

1.1

Cơ cấu lực lượng lao động

- Để làm rõ hệ thống khái niệm về lao động và việc làm. Tổ chức lao động quốc
tế (ILO) đưa ra quan niệm về lực lượng lao động và mô tả nó bằng sơ đồ có
tính chất chung như sau:
sơ đồ cơ cấu về lực lượng lao động:
Dân số trong tuổi lao động quy định

có việc làm

không có việc làm

Không muốn làm
việc

Muốn làm việc

E
Chủ động tìm việc
Sẵn sàng tìm việc

Không chủ động
tìm việc


N

N
U
Không thuộc lực lượng
lao động

Lực lượng lao
động
2


E : Người có việc làm
U : Người thất nghiệp
N : Người không tham gia hoạt động kinh tế
1.2

Nội dung các khái niệm trong sơ đồ về cơ cấu lực lượng lao động và mối

quan hệ giữa chúng.
1.2.1 Lực lượng lao động : Là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định thực tế
có tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm
việc làm.
Về cơ bản, khái niệm lực lượng lao động nêu trên được thống nhất ở nhiều
nước và cũng là khái niệm mà tổ chức lao động quốc tế (ILO) chính thức đưa ra.
Điều khác nhau ở mỗi nước chủ yếu là độ tuổi quy định. ở đây có hai sự khác biệt.
Khác biệt thứ nhất trong quy định về giới hạn tuổi tối thiểu. ở Ai cập tuổi tối thiểu
là 6 tuổi, Braxin :10 tuổi, Australia : 15 tuổi, Mỹ : 16 tuổi, phần lớn các nước quy
định tuổi này từ 14 hoặc 15 tuổi.Khác biệt thứ hai là sự khác biệt về quy định tuổi

tối đa của lực lượng lao động.ở một vài nước công nghiệp như Đan mạch, Thuỵ
Sĩ, Nauy, Phần lan lấy tuổi này là 74 tuổi. Còn ở một số nước đang phát triển như:
Ai cập, Malaixia, Mêhicô quy định là 65 tuổi. Cơ sở thực tế để xác định tuổi tối đa
và tuổi tối thiểu là : các nước thường dựa vào tuổi học sinh rời khỏi trường phổ
thông để xác định tuổi tối thiểu và tuổi cao nhất quy định cho người được nghỉ
hưu để xác định tuổi tối đa. Nên khoảng tuổi để tính cho một bộ phận dân số là
lực lượng lao động từ 15 đến 64 tuổi (có thể từ 15 đến 59 ở một số nước hoặc từ
10 đến 59 tuổi ở một số nước khác). Song hiện nay ở nhiều quốc gia và ngay cả tổ
chức lao động quốc tế đã không quy định giới hạn tuổi tối đa và để mở ở độ tuổi
này.
1.2.2 Người có việc làm : Là những người làm một việc gì đó có được trả tiền
công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật, hoặc những người tham gia
3


vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia
đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Khái niệm trên đã được chính thức nêu ra ở Hội nghị quốc tế lần thứ 13 của
nhà thống kê lao động (ILO.1983) và được áp dụng ở nhiều nước khi tiến hành
các cuộc điều tra thống kê lao động và việc làm. Khái niệm này được cụ thể hoá
thêm bằng một số tiêu thức khác tuỳ thuộc vào mỗi nước đặt ra. Trong các tiêu
thức bổ xung có thể phân làm 2 nhóm, nhóm thứ nhất là nhóm có việc làm và
đang làm việc, đó là những người làm bất kỳ công việc gì được trả công hoặc vì
lợi ích hoặc làm việc không có tiền công trong các trang trại hay kinh doanh của
gia đình. Nhóm thứ hai là người có việc làm hiện không làm việc, là những người
không làm việc nhưng vẫn có việc làm , hiện tạm nghỉ vì đang là kỳ nghỉ (nghỉ
hè , nghỉ đông , nghỉ phép ...) ốm do thời tiết xấu hoặc do các lý do cá nhân. Để
làm rõ thêm đặc điểm về việc làm, người ta còn phân ra việc làm ổn định và việc
làm tạm thời căn cứ vào số tháng có việc làm trong một năm hoặc phân ra việc
làm đầy đủ hay thiếu việc làm căn cứ vào số giờ trong một ngày. Sự phân chia

trên sẽ giúp cho việc đánh giá sâu sắc và đầy đủ hơn tình trạng việc làm trên một
địa bàn ứng với một thời điểm nào đó .
1.2.3

Người thất nghiệp : là những người không có việc làm nhưng đang

tích cực tìm việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Để xác định rõ ngưòi thất nghiệp, tổ chức ILO đưa ra các tiêu thức sau : xét
trong một khoảng thời gian nhất định những người thất nghiệp là những người
không có việc làm, có khả năng làm việc và đang tích cực tìm việc làm.
Trong việc tính số người thất nghiệp các nước cũng có tính một bộ phận lao
động không có việc làm, song đang chờ được gọi trở lại làm việc mà công việc đó
họ phải tạm nghỉ không ăn lương vì một lý do nào đó.
Một điểm cũng cần đề cập đến ở đây, đó là việc phân loại thất nghiệp.
Trong khi phân loại cơ cấu các thị trường lao động hiện nay, thất nghiệp phân ra
4


3 loại khác nhau : Thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp theo chu kỳ và thất nghiệp
có tính cơ cấu.
Thất nghiệp tạm thời : Phát sinh là do sự di chuyển không ngừng của con
người giữa các vùng, các công việc hoặc là các giai đoạn khác nhau của công việc
hoặc là nền kinh tế có đầy đủ việc làm của cuộc sống. Thậm chí trong một nền
kinh tế có đủ việc làm, vẫn luôn có một số các chuyển động nào đó do người ta
tìm việc làm khi tốt nghiệp các trường hoặc chuyển đến một thành phố mới : phụ
nữ có thể lại lực lượng lao động sau khi có con. Do những công việc hoặc tìm
những công việc tốt hơn, cho nên người ta thường cho tìm những công việc tốt
hơn, cho nên người ta thường cho rằng họ là những người thất nghiệp “tự
nguyện”.
Thất nghiệp có tính cơ cấu, xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu

đối với công nhân . Sự mất cân đối này có thể diễn ra do mức cầu đối với một loại
lao động khác giảm đi, trong đó mức cung không được điều chỉnh nhanh chóng.
Như vậy, trong thực tế có xảy ra những sự mất cân đối trong các nghề nghiệp hoặc
trong các vùng do một số lĩnh vực phát triển so với một số lĩnh vực khác. Nếu tiền
lương rất linh hoạt thì sự mất cân đối trên các thị trường lao động sẽ mất cân đối
trên các thị trường lao động sẽ mất đi khi tiền lương hạ xuống trong những khu
vực có nguồn cung cao. Nhưng như chúng ta đã nhấn mạnh, mức lương trong thực
tế hoàn toàn ổn định.
Thất nghiệp chu kỳ : Phát sinh khi mức cầu chung về lao động thấp. Khi tổng
mức chi và sản lượng giảm, chúng ta thấy thất nghiệp tăng lên hầu như ở khắp nơi.
Việc thất nghiệp tăng ở hầu hết các vùng là dấu hiệu cho thấy thâta nghiệp
phần lớn là theo chu kỳ.
Tóm lại, phân biệt giữa thất nghiệp chu kỳ và các loại thất nghiệp khác là
chủ yếu để phán đoán về tình hình chung của thị trường lao động. Mức độ sau của
thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp có tính cơ cấu có thể diễn ra dù cho khi nhịp
5


độ di chuyển lao động nói chung đang cân bằng. Ví dụ khi nhịp độ di chuyển lao
động cao hoặc sự mất cân đối về địa lý lớn. Thất nghiệp chu kỳ xảy ra khi sụ mất
cân đối chung cảu các thị trường lao động bị khủng hoảng.
I.2.4. Những người không thuộc lực lượng lao động. Là một bộ phận dân số mà ở
bộ phận này họ là những người không có việc làm và cũng không phải là người
thất nghiệp, bao gồm các đối tượng là học sinh, những người mất khả năng lao
động, nội trợ và những người thuộc tình trạng khác.
Quan niệm trên về cơ bản được thống nhất trong nhiều nước, song cũng có
những ý kiến khác nhau về việc lực lượng quân đội có thuộc lượng lao đọng hay
không thuộc lực lượng lao động, hoặc phân biệt giưã nhóm người nội trợ và bộ
phận giúp việc gia đình, đối tượng nào đó có thể được xếp vào lực lượng lao
động.

Tóm lại, với việc tổng kết nhiều cuộc điều tra thống kê lao động và việc
làm ở nhiều nước. Tổ chức lao động quốc tế cho rằng :
Các số liệu thống kê trong các điều tra về lực lượng lao động, việc làm và
thất nghiệp mang ý nghĩa tương đối và có tính chất thời điểm , bởi lẽ thị trường
lao động luôn biến động theo thời gian và không gian, song những kết quả thu được
của mỗi cuộc điều tra sẽ là nguồn thông tin có giá trị thực sự cần thiết cho việc hoạch
định chính sách của mỗi nước , trước hết trong lĩnh vực lao động và việc làm.
Các khái niệm về lao động việc làm không nhất thiết áp dụng cứng nhắc,
dập khuôn cho mỗi nước mà tuỳ điều kiện cụ thể , yêu cầu và khả năng sử dụng
lao động của mỗi nước mà có thể đưa ra khái niệm phù hợp có ý nghĩa thực tế cho nước
mình . Đương nhiên nó không thể thoát ly tòan bộ nội dung cơ bản mà ILO đã nêu ra .
Khó có thể đưa ra thước đo chung cho mỗi quốc qia về vấn đề lao động việc
làm song cần phải lưu ý hệ thống số liệu thu được từ thống kê hoặc điều tra của
mỗi nước cũng phải tính tới khả năng có thể so sánh với các nước khác nhau ,
trước hết với các nước có trình độ phát triển tương đương.
6


2. Hệ thống khái niệm cơ bản về lao động việc làm được vận dụng của nước ta.
2.1 Khái niệm việc làm.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu , bao cấp , người
lao động được coi là người có việc làm và được xã hội thừa nhận , trân trọng là
người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế
tập thể. Trong cơ chế đó nhà nước bố trí việc làm cho người lao động từ A đến Z.
Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm,
lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ.... Nay chuyển sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, quan niệm về lao động việc làm thay đổi một cách cơ bản. Trên
cơ sở vận dụng khái niệm việc làm của ILO và nghiên cứu điều kiện cụ thể của
việt nam, chúng tôi đã đưa ra khái niệm mới được nhiều người đồng tình về người
có việc làm như sau: Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực,

ngành nghề dạng hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập
để nuôi sống bản thân và gia đình đồng thời đóng góp một phần cho xã hội .
Với khái niệm nêu trên sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và
taọ ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho
nhiều người .Điều này được thể hiện trên 2 góc độ sau đây:
Thị trường việc làm đã được mở rộng rất lớn bao gồm tất cả các thành phần
kinh tế (quốc doanh, tập thể và tư nhân ), trong mọi hình thức cấp độ của hình
thức sản xuất kinh doanh (kinh tế hộ gia đình, tổ hợp, hợp tác tự nguyện, doanh
nghiệp....) và sự đan xen giữa chúng. Nó cũng không bị hạn chế về mặt không
gian(vùng , trong và ngoài nước....)
Người lao động được tự do hành nghề liên doanh liên kết, tự do thuê mướn
lao động theo pháp luật và sự hướng dẫn của nhà nước để tự tạo việc làm cho mình và thu
hút thêm lao động xã hội theo quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường lao động.

7


Chính từ khái niệm trên về việc làm trong cơ chế thị trường, trong bộ luật
lao động của Việt Nam được quốc hội khoá IX vừa qua phê duyệt đã khẳng định : “Mọi
hoạt động tạo ra thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”
Từ khái niệm cơ bản trên ,chúng ta có thể làm rõ một số khái niệm dẫn xuất
như : thất nghiệp , thiếu việc làm....
Theo kinh nghiệm của thế giới, để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động
mỗi quốc gia phải lập sơ đồ lao động riêng của mình. Việt Nam có thể vận dụng
sơ đồ lực lượng lao động của ILO và một số nước khác, nhưng có thể lấy giới hạn
từ 15 đến 55 tuổi đối với nữ và 15 đến 60 tuổi đối với nam. Theo sơ đồ lực lượng
lao động chúng ta có thể biểu hiện các khái niệm trên như sau:
- Thất nghiệp la người trong độ tuổi lao động, có sức lao động , chưa có việc làm,
đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được việc làm. Trong khái niệm thất nghiệp
cũng cần lưu ý có những loại đối tượng chưa làm việc bao giờ (thanh niên mới bước vào

tuổi lao động nhưng chưa có việc làm ) và mất việc, chờ lao động, lao động dư thừa....
-Thiếu việc làm có thể hiểu là trạng thái trung gian của có việc làm đầy đủ và thất
nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm, nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn
của người lao động họ phải làm việc không hết thời gian theo luật định hoặc làm những
công việc có thu nhập thấp, không đủ sống muốn tìm việc làm bổ sung .
Cũng cần chú ý rằng, khi phân tích việc làm thất nghiệp và thiếu việc làm
chúng ta mới chỉ tính đến đối tượng nằm trong độ tuổi lao động song do đặc điểm của
việt nam, ngưòi có nhu cầu ngoài độ tuổi lao động rất lớn để đảm bảo nhu cầu của bản
thân và gia đình, vì vậy hoạch định chính sách về việc làm cần phải nghiên cứu đối
tượng này (hưu trí , lao động vị thành niên , ngưòi già , người tàn tật.....)
Để phân biệt các đối tượng trong lực lượng lao động đang ở trạng thái việc
làm như thế nào, có thể tham khảo sơ đồ phỏng vấn dưới đây :
anh (có việc
làm chưa)



Anh (chị) có
muốn tìm
việc bổ sung
không?
8

Không

Người có
việc làm




chưa

anh (có
muốn làm
việc ko?)

Không



Anh (có)
đang tìm
việc làm
không

Không

Người thiếu
việc làm
Người thất
nghiệp tích cực

Người thất
nghiệp thụ động

Hệ thống khái niệm này phải được thể chế hoá thành các chỉ tiêu quản lý
nhà nước về việc làm và thống nhất trong cả nước. Trong các cuộc điều tra khái
niệm trên có nội dung cụ thể như sau:
2.1.1 Việc làm
Việc làm là hoạt động lao động được thể hiện ở một trong ba dạng sau:

- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc hiện
vật cho công việc đó.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất nông
nghiệp trên đất do chính thành viên đó sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới
hình thức tiền công, tiền lương cho công việc đó, bao gồm sản xuất nông nghiệp
do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ sở hữu, quản lý hay có quyền sử dụng
hoặc hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ
làm chủ hoặc quản lý.
2.1.2 Việc làm chính, việc làm phụ.
Việc làm chính: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất
so với công việc khác.
9


Việc làm phụ: Là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất
sau công việc chính.
Nếu công việc chính và công việc phụ có thời gian bằng nhau thì công việc
có thu nhập cao hơn sẽ là công việc chính.
2.2 Lực lượng lao động.
2.2.1 Người có việc làm.
Những người đủ 15 tuổi trở lên trong 7 ngày có làm ít nhất một trong ba
loại việc làm được nêu ở nội dung mục 2.1.1
Người có việc làm ổn định : Những người trong 12 tháng làm việc từ 6
tháng trở lên hoặc những người làm dưới 6 tháng trong 12 tháng và sẽ tiếp tục làm
việc đó ổn định .
Người có việc làm tạm thời : Những người làm việc dưới 6 tháng trong 12
tháng trước thời điểm điều tra và tại thời điểm điều tra đang làm một công việc
tạm thời hoặc không có việc làm dưới một tháng .
2.2.2 Người không có việc làm.

Người từ 15 tuổi trở lên trong 7 ngày không làm bất kỳ việc gì trong 3 loại
việc đã được nêu ở nội dung 2.1.1
Trong 7 ngày có đi tìm việc làm.
Trong 7 ngày không đi tìm việc làm do bị ốm đau tạm thời , chờ nhận việc
làm mới , nghỉ phép hoặc tạm nghỉ .
2.3 Dân số không phải lực lượng lao động.
Nhứng người đủ tử 15 tuổi trở lên trong 7 ngày không làm bất kỳ việc gì
trong 3 loại công việc kể trên trong mục 2.1.1 và trong 7 ngày qua không đi tìm
việc, không tính những người không đi tìm việc do ốm đau tạm thời, chờ nhận
việc làm mới, nghỉ phép hoặc tạm nghỉ .
II .Vị trí của chính sách việc làm trong hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam.
1Khái niệm về chính sách việc làm.
10


Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các
giải pháp và công cụ nhằm sử dụng lực lượng lao động và tạo việc làm mới cho
lực lượng lao động đó .
Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hoá pháp luật của nhà
nước trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương
hướng mục tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động .
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống chính sách chung có quan
hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển cho lực lượng lao động của toàn xã hội,
như các chính sách : Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những nghành nghề có khả
năng thu hút nhiều lao động, chính sách tạo việc làm cho nhữngđối tượng đặc biệt...
2. Vị trí của chính sách việc làm.
Mấy chục năm qua cùng với chính sách phát triển kinh tế, Đảng và nhà
nước ta đã ban hành một hệ thống chính sách xã hội nhân bản, hướng vào phục vụ
lợi ích của con người và phát triển con ngưòi toàn diện, đặc biệt là chính sách phát
triển dân trí, bảo vệ sức khoẻ, đảm bảo công ăn việc làm, an toàn xã hội, tự do tín

ngưỡng, bình đẳng giữa các dân tộc....Chính vì vậy chỉ số phát triển con người ở
Việt Nam (HDI) theo cách tính mới của liên hợp quốc đã được xếp vào hàng thứ
115 trong số 173 nước trên thế giơí, đứng trên Hondurat, ấn độ, Nêpan, và một số
nước khác (Theo báo cáo về phát triển con người, năm 1993 của UNDP). Mặt
khác điều đó cũng chứng tỏ nước ta còn ở trình độ thấp về kinh tế, song nếu chúng
ta coi trọng mặt xã hội, có chính sách xã hội đúng đắn sẽ góp phần quan trọng vào việc
phát triền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội. Trong đó, vấn đề cơ bản, gốc rễ nhất
là chính sách việc làm, đảm bảo mọi người có việc làm đầy đủ và có thu nhập .
Hiện nay Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới, mà nội dung cơ bản của nó là :
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, tiếp tục xây dựng nền kinh tế,
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
11


Từng bước dân chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở một nhà nước pháp quyền.
Mở cửa ra bên ngoài, tăng cường giao lưu hợp tác, hội nhập vào cộng đồng
thế giới và dân tộc .
Để thực hiện đường lối trên , chúng ta đã từng bước điều chỉnh chiến lược
phát triển kinh tế – xã hội cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và khung
cảnh chung của thế giới nhằm đạt nhanh mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Thực chất đó là
cuộc cách mạng về cấu trúc kinh tế –xã hội để đưa Việt Nam bước vào thời kỳ cất
cánh và phát triển.
Nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thận lợi và bước phát triển mới cho
Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó nhiều vấn đề về xã hội cũng nổi lên gay gắt cần
phải giải quyết. Điều này thể hiện rất rõ ở sự xuống cấp hoặc nguy cơ tụt hậu ngiêm
trọng trong một số mặt của đời sống xã hội, nếu không giải quyết sẽ trở thành mầm
mống gây nên “Những điểm nóng”, có thể dẫn đến mất ổn định xã hội. Đó là các vấn
đề: Người chưa có việc làm và thiếu việc làm tăng nghiêm trọng, phân hoá giàu nghèo

tăng nhanh, tệ nạn xã hội và tội phạm xã hội phát triển ...Trong đó việc làm đang là
vấn đề xã hội bức xúc và nhạy cảm nhất ở nước ta vì nó đã gõ cửa đến từng gia
đình, là yếu tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế là nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa gây
ra những tiêu cực về mặt xã hội .
Trên thực tế để đảm bảo quyền có việc làm cho người lao động còn là vấn
đề thách thức, là bài toán phức tạp và khó khăn ở nước ta, đặc biệt là trong điều
kiện và quá trình chuyển đổi nền kinh tế xã hội . Phấn đấu để đảm bảo quyền có
việc làm của người lao động là một quá trình, nó chỉ được thực hiện đầy đủ từng
bước thông qua chính sách của nhà nước phù hợp với từng thời kỳ nhất định .
Chính sách này trong hệ thống chính sách xã hội của nhà nước Việt Nam.
Các vấn đề xã hội có nội dung rất rộng và bao giờ cũng gắn với con người .
Vì vậy chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con ngưòi như: Việc làm
12


và thu nhập, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, quan hệ gia đình và quan
hệ xã hội, quan hệ dân tộc, quan hệ tôn giáo.
Chính sách xã hội với các yêu cầu của mình, là yếu tố của sự phát triển và
nằm trong yếu tố phát triển. Vì vậy đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho
phát triển và tạo ra ổn định xã hội. Trong hệ thống chính sách xã hội , vấn đề cốt
lõi và bao trùm nhất là phải tạo ra điều kiện và cơ hội để người lao động có việc
làm, có thu nhập bảo đảm cuộc sống của bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp
một phần cho xã hội. Đó là nội dung cơ bản của chính sách việc làm, là một trong
những tiều chí cơ bản về định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, chính
sách việc làm là một trong những chính sách cơ bản nhất của quốc gia, góp phần
đảm bảo an toàn ổn định và phát triển xã hội. Kết quả của điều tra xã hội học đều
cho thấy vấn đề xã hội lớn nhất ở nước ta hiện nay là giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động. Nguyện vọng và nhu cầu lớn nhất của thanh niên nhất là
thanh niên thành thị, hiện nay trước tiên vẫn là vấn đề việc làm. Khi đặt câu hỏi :
“Vấn đề gì quan trọng nhất được phụ nữ quan tâm ” thì câu trả lời ở hầu hết các

phiếu điều tra là : “Việc làm có thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình” sau
đó mới là “có con, nuôi con và xây dựng gia đình hạnh phúc” tiếp đó là “tham gia
các hoạt động hữu ích của xã hội”.
Tuy nhiên, nhận thức về việc làm trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần và cơ chế thị trường cũng đã có những thay đổi căn bản mà chúng ta cần
quan tâm nghiên cứu.

13


Phần II : thực trạng việc làm hiện nay ở nước ta.
I. Vài nét về tình hình lao động ở nước ta hiện nay.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta không thừa nhận có thất
nghiệp. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, quan
niệm về việc làm và thất nghiệp đã có những thay đổi căn bản . Có rất nhiều khái
niệm khác nhau về việc làm, song đểu thống nhất ở những điểm cơ bản, việc làm
là hoạt động lao động của con người, tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm. Bộ
luật lao động của nước ta khẳng định: “Mọi hoạt động tạo ra thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Xét ở góc độ kinh tế vĩ mô, việc làm là một trong những mục tiêu quan trọng.
Lao động, việc làm luôn là bài toán hóc búa cho các quốc gia, dù phát triển cao, hay
còn ở trình độ lạc hậu. Trạng thái của một nền kinh tế có thể được đánh giá qua khẳ
năng tạo và giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.Tạo được nhiều việc làm tốt và
ổn định, hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp là 2 nội dung của mục tiêu việc làm. Đối với nước ta
giải quyết việc làm đang là vấn đề kinh tế, xã hội được đảng và nhà nước hết sức quan
tâm. Sau đây là vài nét về tình hình lao động ở nước ta hiện nay.
1 Về số lượng và cơ cấu lao động .
1.1 Về số lượng lao động .
Tính đến ngày 1.7.2000 tổng số nhân khẩu đủ từ 15 tuôỉ trở lên thực tế
thường trú trong toàn quốc là 54.269.789 người, chiếm 69,85% dân số thường trú

của cả nước. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động (nam từ đủ 16 đến 60 tuổi , nữ
từ đủ 15 đến 55 tuổi ) là 46.249.428 người , chiếm 59, 53%
Năm 2000, khu vực thành thị số nhân khẩu từ đủ 15 tuổi trở lên chiếm 73,59%
dân số thường trú thực tế trong khu vực, nhân khẩu trong độ tuổi lao động chiếm
64,41% ở khu vực nông thôn, các con số này là 68,15% và 58,03%
1.2 Về cơ cấu lao động.
14


Lao động ở thành thị có xu hướng tăng. Năm 1996, lực lượng lao động ở
thành thị chiếm 19.06%, năm 1997 tăng lên 20,20%, năm 1999 là 22,28%, năm
2000 là 22,56%. Lực lượng lao động ở nông thôn vận động theo xu hướng ngược
lại – tỷ lệ giảm hàng năm là 0,7%; năm 1996 tỷ lệ lực lượng lao động ở nông thôn
là 80,94% và năm 2000 là 77,44%. Lao động trong các nghành nông lâm và ngư
nghiệp, từ 67% năm 1996 giảm xuống còn 61% năm 2000, tăng tỷ lệ lao động
trong các nghành công nghiệp, xây dựng, từ 13% năm 1996 lên 17,6% năm 2000 ;
Dịch vụ từ 19,5% năm 1996 lên 23% năm 2000 . Tuy nhiên số lao động tuyệt đối
trong khu vực nông –lâm –ngư nghiệp vẫn tiếp tục tăng , làm tăng sức ép việc làm
ở nông thôn ,trong khi khu vực công nghiệp chưa có khả năng thu hút mạnh lao
động nông nghiệp .
Lao động trẻ chiếm bộ phận lớn trong lực lượng lao động trong cả nước .
Đây là bộ phận lao động năng động , sáng tạo , có khả năng nắm bắt tiến bộ khoa
học kỹ thuật tiên tiến áp dụng vào sản xuất . Năm 2000, nhóm lực lượng lao động
trẻ (từ đủ 15 tuổi đến 34 tuổi ), chiếm 50.04% năm 1998 là 52,58% ;Năm 1996 là
55,82%. Nhóm lực lượng lao động trung niên (từ đủ 35 đến 54 tuổi ) chiếm
43,26% ; năm 1998 là 40.31% , năm 1996 là 35,60% .Nhóm lực lượng lao động
cao tuổi (từ đủ 55 tuổi trở lên) chiếm 6,70% năm 1998 là 7,10% ; năm 1996 là
8,58% . Tính bình quân hàng năm giai đoạn 1996-2000 lực lượng lao động trẻ
của cả nước giảm gần 1,4% ; lực lượng lao động cao tuổi giảm gần 4,92% và lực
lượng lao động trung niên tăng xấp xỉ 7,7%

2

.Về chất lượng lao động .
Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở nước ta ngày càng được nâng

cao. Tỷ lệ người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp I giảm từ 26,67% năm 1996
xuống còn 22,1% năm 1999. Số người tốt nghiệp cấp II, cấp III tăng lên không
ngừng.trong đó tăng nhanh nhất là số người tốt nghiệp cấp III, bình quân hàng

15


năm số người đã tốt nghiệp cấp III trong tỏng lực lượng lao động tăng 10,4% với
mức tang tuyệt đối là 541,5 ngàn người.
trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động nước ta cũng tăng lên.
Cả nước tính đến ngày 1/7/2000 số lao động đã qua đào tạo có 5.996.007 người,
chiếm 15,52% so với tổng số. Vùng Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lao động đã
qua đào tạo cao nhất (21,00%), thấp nhất là vùng Tây Bắc (9,56%); Đồng bằng
Sông Cửu Long (10,03%); Đồng Bằng Sông Hồng (20,9%), các vùng còn lại tỷ lệ
đều thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước và dao động trong khoảng tù 13- 15%. Đối
với khu vực thành thị, Hà nội có tỷ lệ này cao nhất(44,28%) tiếp theo là thành phố
Hồ chí minh (28,7%) Hải phòng( 28,8%) Đà nẵng(23,7%).
Túnh riêng hai khu vực thành thị và nông thôn, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo
cũng tăng lên, song tốc độ tăng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của
khu vực thành thị lớn hơn hẳn so với khu vực nông thôn. Lực lượng lao động đã
qua đào tạo phân bổ không đồng đều trên cả nước, tập chung chủ yếu ở khu vực
đô thị, dẫn đến tình trạng nơi thừa nơi thiếu lao động. Cơ cấu lao động có đào tạo
vẫn tiếp tục bị mất cân đối . Tình trạng “thừa thầy , thiếu thợ ” (đặc biệt là thợ có
thể đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động) luôn diễn ra
3


Về tình hình giải quyết việc làm

Hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động đang là vấn đề nan giải ở nước
ta . Chính phủ đã xác định giải quyết việc làm là hướng ưu tiên trong toàn bộ
chính sách kinh tế –xã hội .Năm 2000, đã giải quyết được việc làm cho khoảng
1,3 triệu lao động cụ thể như sau:
Giải quyết việc làm trong nước 1,27 triệu; xuất khẩu lao động 3 vạn người
Giải quyết việc làm theo các khu vực: công nghiệp và xây dựng 33-35 vạn; nông
–lâm –ngư nghiệp (kể cả dịch vụ trong nông lâm ngư nghiệp ) 55-60 vạn lao động
Khu vực đô thị tạo được khoảng 28 vạn chỗ làm việc mới , khu vực nông thôn tạo
ra gần 1 triệu chỗ làm việc mới
16


Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm thu hút 32 vạn lao động (Tạo việc làm mới là 14
vạn, có thêm việc làm là 18 vạn)
Tuy vậy, tình hình thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động ở nước ta vẫn
còn gay gắt. Trong 61 tỉnh , thành phố vẫn còn tới 11 tỉnh , thành phố có tỷ lệ thất
nghiệp từ 6,5% đến 7% , 14 tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp từ 6% đến 6,5% , chỉ có 27
tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp dưới 6%. Trong hoàn cảnh hiện nay sức ép về việc làm ở
khu vực thành thị , nhất là ở các thành phố lớn sẽ có chiều hướng gia tăng , do
nhiều nguyên nhân trong đó cơ bản là :
-thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế , cải cách hành chính và sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước , số lao động trong khu vực hành chính thời gian tới sẽ giảm
-số lao động chưa có việc làm dồn lại từ các năm trước , thêm vào đó là số học
sinh , sinh viên mới ra trường chưa tìm được việc làm
-Việc di dân tự do từ nông thôn ra thành thị tìm việc , đặc biệt trong thời kỳ nông
nhàn ngày càng tăng , tạo sức ép về việc làm, tăng tỷ lệ thất nghiệp đối với khu
vực thành thị.

Tình hình việc làm ở khu vực nông thôn nước ta còn nhiều khó khăn. Theo kết
quả điều tra ngày 1/7/2000 của bộ lao động thương binh và xã hội, tỷ lệ thời gian
lao động cho hoạt động lao động của dân số trong độ tuổi lao động ở nông thôn
đạt 74,2% , tăng 1% so với năm 1999 nhưng vẫn thấp hơn so với dự kiến mà đại
hội VIII đã đề ra là trên 75% vào năm 2000. Việc làm nông nghiệp hiện nay vẫn
chủ yếu phụ thuộc vào đất canh tác. Đất canh tác bình quân đầu người thấp gây ra
tình trạng thiếu việc làm tương đối của khu vực nông thôn . Hiện nay, trung bình
mỗi lao động nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Hồng chỉ sử dụng hết 26 ngày
công trên diện tích 1 sào đất 1 vụ(1 vụ trong sản xuất nông nghiệp thường kéo dài
từ 3-4 tháng).đây chính là một trong những nguyên nhân khiến tình trạng di dân
của một bộ phận lớn lao động nông thôn ra thành thị để tìm việc làm tăng thu
nhập ngày càng tăng.
17


Để đạt được mục tiêu đến năm 2005 : tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị khoảng
6% , tỷ lệ quỹ sử dụng thời gian lao động nông thôn :80% (chỉ tiêu này được Bộ
lao động thương binh và xã hội nêu ra trong “Báo cáo tổng kết công tác năm
2000” của ngành )đòi hỏi phải có sự quan tâm hơn nữa của đảng và nhà nước , sự
cố gắng nâng cao trình độ văn hoá , tay nghề của người lao động để có thể đáp
ứng yêu cầu của thị trường lao động trong thời gian tơí .
II Thực trạng về việc làm ở nước ta trong thời gian qua
1. Xu hướng tăng trưởng việc làm hàng năm
Từ năm 1991 đến năm 2000 số người có việc làm từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu
,tăng 31,0% (trung bình mỗi năm tăn gần 3,1 %). Nhìn chung , việc mới được tạo
ra hàng năm có xu hướng gia tăn trong suốt cả thời kỳ . Nếu như trong thời kỳ
1991-1995, số việc làm tăng thêm bình quân hàng năm là 863 ngàn ngưòi thì thời
kỳ 1996-2000 là 1,2 triệu người (tăng 39% so với thời kỳ 1991-1995). Như vậy
tốc độ tăng hàng năm về việc làm bình quân luôn theo kịp tốc độ tăng hàng năm
của lực lượng lao động ; Suất đầu tư trung bình hàng năm cho một chỗ làm việc

mới khoảng 393 triệu đồng trong đó công nghiệp quốc doanh khoảng từ 42 triệu
đến 50 triệu , tiểu thủ công nghiệp khoảng 10 triệu đồng, nông lâm ngư nghiệp
khoảng 15 triệu đồng , dịch vụ từ 27 triệu đến 30 triệu đồng , đầu tư nước ngoài
400 triệu (số liệu Bộ kế hoạch đầu tư).Tăng trưỏng kinh tế cao đã góp phần giải
quyết việc làm và nâng cao hiệu quả sử dụng lao động , trong giai đoạn 19921997 GDP tăng trưởng với tốc độ trung bình là 9,1% trong khi lao động tăng
3,1%
Như vậy trung bình tăng trưởng 3% GDP sẽ tăng 1% việc làm
2. Thực trạng việc làm và cơ cấu lao động theo nhóm nghành kinh tế
Chúng ta dễ dàng nhận thấy , cơ cấu lực lượng lao động thay đổi rất chậm ,
mặc dù sản lượng và cơ cấu kinh tế thay đổi rõ nét. Những năm qua tỷ trọng nông
nghiệp giảm , tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng.Tỷ trọng lao động trong các
18


khu vực, năm 1993: nông nghiệp 71,7%; công nghiệp 11,3%; dịch vụ 17,0%, đến
năm 1999 tỷ trọng tương ứng là 69%; 12,1%;18,9%. Điều đó phản ánh tốc độ tăng
trưởngvề sản lượng và tốc độ tăng trưởng lao động trong các khu vực là rất khác
biệt. Trong giai đoạn 1993- 1999 tốc độ tăng sản lượng của nông nghiệp là 4,2%,
công nghiệp là 12,7%, dịch vụ là 8,2%. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng lao động
trong giai đoạn này của nông nghiệp là 1,7%, công nghiệp là 4,1%, dịch vụ là
4,8%. Như vậy, cứ 2,5% tăng trưởng sản lượng trong nông nghiệp sẽ dẫn đến việc
làm tăng trưởng 1%. Trong khu vực dịch vụ chỉ cần 1,7% tăng trưởng sản lượng
sẽ dẫn đến tăng thêm 1% việc làm. Trong khu vực công nghiệp thì phải có 3%
tăng trưởng sản lượng mới tạo được 1% tăng việc làm. Có thể nói khu vực nông
nghiệp vẫn là nơi tạo việc làm nhiều nhất, sau đó dẫn đến khu vực dịch vụ và cuối
cùng là khu vực công nghiệp. Vấn dề cần quan tâm ở đây là, tỷ trọng sản lượng
công nghiệp trong những năm qua đẫ tăng từ 1/4 lên 1/3 trong tổng sản lượng,
nhưng tỷ trọng lao động vẫn rất nhỏ chỉ bằng 1/9-1/10 tổng số. Thực tế cho thấy
khu vực nông nghiệp gặp khó khăn trong việc tạo việc làm là điều dễ hiểu bởi thu
nhập của lao động nông nghiệp thấp hơn rất nhiều so với các khu vực khác và

khoảng cách này sẽ ngày càng gia tăng. Tốc độ gia tăng việc làm trong khu vực
này sẽ chậm lại, vì tăng trưởng trong nông nghiệp sẽ khó có thể vượt quá 4%
trong khi đó lực lượng lao động gia tăng và lương lao động tồn đọng trong khu
vực nông nghiệp lại quá lớn. Do vậy, khu vực nông nghiệp có thể thu hút được
bao nhiêu lao động gia tăng trong tương lai là một vấn đề rất quan trọng, cần phải
xem xét kỹ. Hiện nay, khoảng 70% lực lượng lao động hoạt động trong khu vực
nông nghiệp, những năm qua mỗi năm khu vực này thu hút thêm 600.000 lao
động. Tuy nhiên, trong tương lai mức gia tăng lao động trong khu vực nông
nghiệp sẽ thấp hơn nhiều.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế
3. Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế.
19


Tỷ lệ lao động trong khu vực nhà nước giảm liên tục từ 14,7% lao động xã
hội( năm 1985) xuống dưới 9% vào giữa những năm 90 và gần đây có xu hướng
tăng trở lại, song cũng chỉ đạt 9% vào năm 2000. Lộ trình sắp xếp lại doanh
nghiệp nhà nước những năm tới sẽ làm cho việc gia tăng việc làm ở khu vực này
không còn giữ được tốc độ “khiêm tốn” như thời gian vừa qua. Theo tính toán
trong 5 năm tới, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có thể thu hút 3% số người
mới gia nhập lực lượng lao động. Như vậy, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có
thể đóng góp một phần nhỏ trong giải quyết việc làm.
Khu vục kinh tế hộ gia đình và ngoài quốc doanh giữ vai trò chủ yếu trong
tạo việc làm mới( chiếm 90% chỗ làm việc mới được tạo ra hằng năm); trong đó,
113.000 trang trại đã thu hút khoảng 678.000 lao động( tính bình quân khoảng 6
triệu lao động/ trang trại).
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đầu tư cho công nghệ còn ít,
đầu tư cho một chỗ làm việc còn thấp song vẫn thể hiện một tiềm năng và ưu thế
trong tạo việc làm. Hiện nay có khoảng 41.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ( không
kể doanh nghiệp hộ gia đình), chiếm 96% số doanh nghiệp của cả nước, đã tạo ra

32% tổng giá trị sản lượng công nghiệp, đóng góp 25% vào GDP của cả nước và
thu hút gần 49% lực lượng lao động phi nông nghiệp. Chỉ tính riêng năm 2000,
sau khi luật doanh nghiệp có hiệu lực, dã có 13.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ
được thành lập, tạo thêm việc làm cho hàng chục vạn người.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài( FDI) kể cả dịch vụ lẫn công nghiệp, từ
năm 1993 đến 1998 đã tiếp nhận thêm 300.000 công nhân. Những năm gần đây,
lượng vốn FDI thu hút được có giảm xuống dẫn đến tốc độ thu hút lao động giảm.
Chính phủ dự kiến nâng mức FDI mỗi năm thu hút được lên 2 tỷ USD bằng với
giai đoạn trước, mức đầu tư trên mỗi việc làm cũng có thể giảm từ 30.000 USD
xuống còn 20.000 USD nếu có nhiều dự án định hướng xuất khẩu hơn và ít dự án
sử dụng nhiều vốn hơn.Với sự tính toán trên, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
20


( FDI) sẽ giải quyết thêm được 100.000 việc làm mỗi năm, bằng 8-9% lực lượng
lao động gia tăng hằng năm.
4. Thực trạng việc làm trong khu vực thành thị và nông thôn.
Năm 2000 lực lượng lao động khu vực thành thị có trên 8,7 triệu người, chiếm
22,56% lao động cả nước. Tỷ lệ này có xu hướng tăng lên( năm 1996 là 19,06%
và năm 2000 là 22,56%). ở khu vực nông thôn, tình hình diễn ra theo chiều hướng
ngược lại, giảm từ 80,94% năm 1996 còn 77,4% năm 2000. Như vậy, về cơ bản
nông thôn vẫn là khu vực tạo việc làm cho phần lớn lao động xã hội. Tuy nhiên
khu vực nông thôn lại là nơi thiếu việc làm nghiêm trọng. Tỷ lệ sử dụng thời gian
lao động nông thôn của lực lượng trong độ tuổi năm 1998 là 71,13%, so với năm
1997 giảm 2,01%. Số người thiếu việc làm ở khu vực nông thôn tập trung nhiều
nhất ở lứa tuổi 15-34 tuổi (29,39%) và nhóm tuổi 35-44 tuoioỉ là 21,29%. Tình
trạng thiếu việc làm trong nông thôn là do diện tích dất nông nghiệp bình quân
trên đầu người rất thấp, chi phí sản xuất đất nông nghiệp lại tăng lên, hiệu quả sản
xuất giảm trong khi đó, dịch chuyển cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông thôn
diễn ra chậm chạp. Trong tuơng lai mức tăng lao động trong hku vực nông thôn sẽ

thấp hơn nhiều. Điều này xảy ra có thể do một số nguyên nhân sau:
Một là, những năm tới tăng trưởng trong nông nghiệp sẽ diễn ra theo xu
hướng giảm về số lượng, tăng về giá trị. Điều này xuất phát từ thị trường của một
số mặt hàng bão hoà (gạo, cà phê, cao su), người nông dân sẽ tập trung vào sản
xuất những loại sản phẩm có chất lượng và giá trị cao hơn thay vì chỉ đơn thuần
gia tăng số lượng. Theo hướng này việc gia tăng giá trị có thể không cầnthêm quá
nhiều lao động như việc gia tăng sản lượng trước đây.
Hai là, thu nhập trong nông nghiệp rất thấp so với các khu vực khác, dân
đến khả năng thu hút lao động kém đi, người lao động sẽ tìm kiếm việc làm ở các
khu vực khác.

21


Ba là, những người mới gia nhập lực lượng lao động thường có trình độ văn
hoá khá hơn, có đủ khả năng làm những công việc phi nông nghiệp. Thực tế cho
thấy, những người này sẽ hướng tới những công việc ở thành thị hay ít do nhất
cũng là công việc phi nông nghiệp. Với những lý do trên, khu vực nông nghiệp
trong những năm tới chỉ có thể thu hút được thêm khoảng 250.000 lao động mỗi
năm, bằng 20% mức tăng trưởng lao động hàng năm.
5/ Thực trạng việc làm thông qua các chương trình mục tiêu.
Từ 1991 – 2000 đã tiến hành xuất khẩu lao động sang 38 nước và vùng lãnh
thổ, số lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài ngày càng tăng. Hiện tại
đang có khoảng 250.000 lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc ở nước ngoài
và hàng năm cso khoảng gần 1 tỷ USD chuyển về nước cho các gai đình.
Hoạt động của quỹ quốc gia giải quyết việc làm và các chương trình mục
tiêu khác từ năm 1992 đến nay đã thu hút được 3 triệu lao động (trong đó có 1,4
triệu người có việc làm mới và 1,6 triệu người có thêm việc làm ). Ngoài ra các
chương trình mục tiêu khác như xoá đói giảm nghèo, chương trình 327, 733,...
cũng góp phần tích cực tạo việc làm mới hoặc tạo thêm việc làm cho người lao

động. Kết quả tạo việc làm qua các chương trình mục tiêu khác được thể hiện ở
bảng sau:
Kết quả tạo việc làm qua các chương trình mục tiêu khác giai đoạn 1991 –
2000
đơn vị 1000 người
Chương trình
1. Xoá đói giảm

1991 - 1995
120

1995 – 2000
380

1991 – 2000
500

nghèo
2. chương trình

250

250

500

480

520


1000

Việt – Tiệp, EU,
Đức
3. Chương trình

22


327, 773
4. Chương trình

1730

1970

3700

tín dụng nông thôn
và các chương
trình khác.
Cộng

2580

3120

5700

ngoài các chương trình mục tiêu trên, các chương trình sản xuất hàng xuất khẩu

thuộc các nghành dệt may và da giầy đã tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao
động/1 năm nuôi trồng thuỷ sản cũng là một mũi nhọn xuất khẩu và tạo việc làm
mới cho người lao động.
các chương trình về mục tiêu quốc gai về việc làm 2001 – 2005 được tiến
hành trên 3 lĩnh vực : đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia, phát triển kinh
tế xã hội tạo mở việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối
tượng yếu tố thế trong thị trường lao động có nhu cầu việc làm. Trong đó, phát
triển kinh tế xã hội tạo mở việc làm là lĩnh vực cơ bản có ảnh hưởng quyết định
đến việc làm tăng hoặc giảm chỗ làm việc ổn định cũng như cơ cấu lao động của
lực lượng lao động xã hội trong mối quan hệ nhân quả có tính hữu cơ giữa tăng
trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế với phát triển và ổn định việc làm ,
chuyển dịch cơ cấu lao động trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất
nước . Theo tính toán từ các chương trình mục tiêu cho thấy các chương trình phát
triển nông nghiệp và nông thôn phần đầu đưa tốc độ tăng trưởng gía trị tổng sản lượng
ngành nông nghiệp (bao gồm : nông lâm ngư nghiệp )tăng bình quân hàng năm 20012005 đạt trên 4% và đến năm 2005 thu hút được thêm 1,3 –1,4 triệu lao dộng.
các chương trình phát triển công nghiệp và xây dựng phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng giá trị tổng sản lượng công nghiệp , xây dựng tăng bình quân hàng
năm trên 12% và đến năm 2005 thu hút được thêm 2,4-2,5 triệu lao động .

23


Các chương trình phát triển các ngành thương mại , dịch vụ phấn đấu đạt
tốc độ tăng trưởng tổng sản lượng khu vực dịch vụ bình quân hàng năm trên 7%
và đến năm 2005 thu hút được thêm 1,8-1,9 triệu lao động .Như vậy , thông qua
các chương trình đầu tư phát triển đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản
lượng của mỗi khu vực kinh tế nói chung qua tổng GDP cả nước nói chung , đến
năm 2005 tính chung cho cả nước sẽ có khoảng 40 triệu 7,5 ngàn người có việc
làm thường xuyên ; cơ cấu lao động xã hội là 60,04-17,98-21,98
III/ những thành tựu và tồn tại trong việc giải quyết việc làm thời gian vừa qua

1/ những thành tựu đạt được
trong giai đoạn 1996- 2001 cả nước đã tạo ra 6,1 triệu chỗ làm việc (bình
quân mỗi năm tạo ra thêm trên 1,2 triệu chỗ làm việc mới, so với giai đoạn19901995 chỉ tạo được khoảng 90 vạn chỗ làm việc mới mỗi năm, thì đây là một thành
tích đáng kể).
Nhìn lại đầu những năm 90, tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị là 10% hoặc trên 10%,
, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn là 65-67% thì đến năm 2000 tỷ lệ
thất nghiệp ở khu vực đô thị giảm xuống còn 6,5% , năm 2001 tỷ lệ thất nghiệp là
7,4% tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn nâng lên xấp xỉ 74% năm 2001.
Cơ cấu lao động cũng có bước chuyển dịch rõ rệt. Từ chỗ lao động nông nghiệp
chiếm 67,5% năm 1996 đã giảm xuống còn 61,3% năm 2001 và số lao động và
dịch vụ trong công nghiệp tăng tương ứng từ 32,5% lên 38,7%
Chất lượng lao động cũng được nâng lên : tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ
10% năm 1996 lên 20% năm2001 trong đó số lao động qua đào tạo nghề là 13,4%.
Kể từ khi bước vào công cuộc đổi mới đất nước Đảng và nhà nước ta đã có
chủ trương , đường lối , chính sách đúng đắn trong hoạch định việc làm , tạo ra
những nhân tố mới làm thay đổi nhận thức và phương thức giải quyết việc làm .
Việc ban hành bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn đã tạo ra hành lang
pháp lý lao động việc làm tương đối hoàn chỉnh , mặt khác chúng cũng từng bước
24


được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với thực tiễn , đã tạo điều kiện thúc đẩy phát
triển quan hệ lao động và thị trường lao động .Trong điều kiện mới , pháp luật đã
khuyến khích ngưòi lao động năng động và chủ động tạo việc làm, tìm kiếm việc
làm , khuyến khích người sử dụng lao động đầu tư tạo mở việc làm.
Bên cạnh giải quyết việc làm thông qua phát triển kinh tế , nhà nước còn tổ
chức các hoạt động trực tiếp hỗ trợ việc làm và phát triển thị trường lao động
thông qua quỹ quốc gia hỗ trợ phát triển việc làm, tổ chức điều tra lao động việc
làm hàng năm , tổ chức hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, cung cấp tư vấn về
chính sách , thông tin thị trường lao động , chắp nối cung cầu lao động ....Số lao

động được hỗ trợ tạo việc làm từ quỹ quốc gia bằng khoảng 25-30% số việc làm
được tạo ra hàng năm . Các trung tâm dịch vụ việc làm đã cung cấp dịch vụ tư vấn
cho gần 2 triệu lượt người , bổ túc nghề gắn với việc làm cho 70 vạn người , giới
thiệu việc làm và cung ứng lao động cho gần 90 vạn người
2.

Một số tồn tại trong vấn đề giải quyết việc làm

Các kết quả tạo việc làm , giảm thất nghiệp ở đô thị , tăng thời gian sử dụng lao
động ở nông thôn chưa đạt mục tiêu kế hoạch năm 1996 –2000 đề ra , cả nước chỉ
tạo được 6,1 triệu chỗ làm việc(Bằng khoảng 90% kế hoạch), tỷ lệ thất nghiệp ở
đô thị vẫn là 6,4% (Cao hơn so với mục tiêu là 5%) tỷ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn chỉ đạt 74% (Chỉ tiêu là 75%)
Chất lượng lao động còn thấp , cơ cấu lao động chuyển dịch còn chậm. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo mới chỉ đạt 20% , trong đó kể cả lao động qua đào tạo ở bậc đại
học , chuyên nghiệp và dạy nghề . Bình quân mỗi năm chỉ giảm được 1,2% lao động
khu vực nông thôn để chuyển sang khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Thị trường lao động còn chưa phát triển . Một trong những chỉ báo quan
trọng nhất của thị trường lao động là tỷ lệ lao động có quan hệ lao động(Quan hệ
giữa người sử dụng lao động và ngưòi lao động thông qua hợp đồng lao động) tỷ
lệ này phản ánh về mặt số lượng người trong thị trưòng.Hiện tại , tỷ lệ lao động
25


×