Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận triết lý phát triển hồ chí MInh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.19 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm sâu sắc và toàn diện về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đồng thời là sự kết tinh
những tinh hoa văn hóa của dân tộc và trí tuệ của thời đại nhằm giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự trở
thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng
Việt Nam.
Là nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiệt xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành
nên một triết lý phát triển độc đáo. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh được hình thành
trên cơ sở tiếp thu những truyền thống tốt đẹp và triết lý phát triển của dân tộc Việt
Nam, triết lý phát triển Đông – Tây, triết lý phát triển Mác – Lênin và hoạt động
thực tiễn của Người. Có thể nói, sự ra đời của triết lý phát triển Hồ Chí Minh là một
hiện tượng hợp quy luật, một đòi hỏi lịch sử khách quan. Triết lý phát triển Hồ Chí
Minh có nội hàm rất rộng, có chiều sâu và có giá trị bền vững nhất của tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đây cũng là lĩnh vực mà Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quan
trọng, để từ đó các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước suy tôn Người như một
"nhà triết học hành động" tiêu biểu của thế kỷ XX.
Hiện nay, nước ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Tác động mặt
trái của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm nảy sinh nhiều vấn
đề cần giải quyết như: đạo đức xã hội xuống cấp, đặc biệt là sự suy thoái phẩm
chất, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng cách mạng, xa rời mục tiêu con đường
độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác Hồ lựa chon của một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên, v.v. Điều đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục
nghiên cứu, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có triết lý về mục
1



tiêu, con đường phát triển của xã hội Việt Nam. Xuất phát từ lý do đó, tôi chọn
"Triết lý của Hồ Chí Minh về mục tiêu và con đường phát triển của xã hội Việt
Nam" làm đề tài tiểu luận của mình.
Mục đích của việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ triết lý phát triển của Hồ
Chí Minh về mục tiêu, con đường phát triển của xã hội Việt Nam. Từ đó thấy được
giá trị lý luận và thực tiễn của triết lý Hồ Chí Minh nói chung, triết lý về mục tiêu,
con đường phát triển của cách mạng Việt Nam nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Sử dụng các phương pháp cụ
thể đó là: Phương pháp Lịch sử - Lô gic; phân tích – tổng hợp; khái quát hóa khoa
học để làm sáng tỏ vấn đề mà đề tài đặt ra.

2


NỘI DUNG
TRIẾT LÝ CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU, CON ĐƯỜNG
PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM
1. Một số khái niệm có liên quan
1.1. Khái niệm "Triết lý", "Triết lý phát triển"
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về "triết lý". "Triết lý" thường được
hiểu theo hai nghĩa: 1. Đó là lý luận triết học; 2. Đó là quan niệm chung của con
người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Trong Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất
bản Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1995, "Triết lý" thường được
hiểu theo hai nghĩa danh từ và động từ. Theo nghĩa danh từ, triết lý là lý luận triết
học; là quan niệm chung của con người về vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo nghĩa
động từ, triết lý là thuyết lý về những vấn đề nhân sinh và xã hội.
GS Vũ Khiêu cho rằng, "Triết lý" là triết học khiêm tốn nói về mình; nó
không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và
hành vi chỉ đạo cuộc sống con người.

Theo GS. Hoàng Trinh, "Triết lý" là những nguyên lý đầu tiên, những ý
tưởng cơ bản được dùng làm nên tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người về cội
nguồn, bản chất và các hính thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phương châm
cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hàng ngày.
Theo GS.TS. Phạm Xuân Nam, Triết lý phát triển chính là những quan điểm,
luận điểm, phương châm cốt lõ và cơ bản nhất có vai trò định hướng cho hoạt động
thực tiễn nhiều mặt của con người nhằm biến đổi theo chiều hướng đi lên từ thấp
đến cao của tất cả các yếu tố, các chiều cạnh hợp thành xã hội tổng thể mà trong đó
bản thân con người là trung tâm.
Theo PGS.TS Phạm Ngọc Anh, "Triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở
những nguyên lý triết học, hay cơ cở thực tiễn của con người, được thể hiện dưới
dạng những luận điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về
3


cuộc sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận, coi đó là
nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động"(1, tr.28). Từ việc hiểu triết lý
như vậy, có thể hiểu triết lý phát triển là triết lý về sự vận động, phát triển nói
chung (về bản chất, nguyên nhân, động lực, điều kiện, khuynh hướng của sự vận
động, phát triển), đặc biệt là sự vận động, phát triển của xã hội, con người – hình
thức vận động cao nhất của vật chất.
1.2. Khái niệm "Triết lý phát triển Hồ Chí Minh"
Theo các nhà khoa học, triết lý phát triển Hồ Chí Minh là những luận điểm,
những mệnh đề, những tư tưởng cốt lõi nhất của Người về bản chất, nguyên nhân,
động lực, điều kiện, khuynh hướng của sự vận động, phát triển của cách mạng Việt
Nam và đã trở thành nguyên tắc, phương châm sống, hoạt động cách mạng của
Người.
Triết lý phát triển Hồ Chí Minh có cơ sở từ việc tiếp thu những giá trị trong
triết lý dân tộc Việt Nam; từ giá trị triết lý của văn hóa phương Đông và phương
Tây; từ lý luận phát triển của của nghĩa Mác – Lênin và hoạt động thực tiễn của Hồ

Chí Minh.
2. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong triết lý phát triển Hồ Chí
Minh
- Độc lập, tự do dân tộc là mục tiêu quan trọng trong triết lý của Hồ Chí
Minh. Coi xã hội là trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên; quốc gia là một
thực thể trọn vẹn của xã hội, Hồ Chí Minh cho rằng, để một đất nước có thể phát
triển thì điều tiên quyết, đất nước đó phải được độc lập, dân tộc đó phải được tự do.
Độc lập, tự do, theo Hồ Chí Minh có nghĩa rất rộng - không chỉ độc lập, tự do cho
dân tộc, quốc gia, mà cho cả con người; không chỉ mang tính không gian, mà cả
phẩm giá con người; không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai. Nhưng đối với một
đất nước còn nô lệ, phụ thuộc, bị áp bức, thì độc lập và tự do là điều kiện đầu tiên
để dân tộc đó tự do quyết định vận mệnh và tương lai của mình, đồng thời có thể tự

4


do phát huy toàn bộ nội lực, sức mạnh, tài năng của chính mình cho sự phát triển
đất nước.
Hồ Chí Minh không bao giờ chấp nhận độc lập dân tộc dưới chế độ quân chủ
chuyên chế, càng không chấp nhận chế dộ thực dân không kém phần chuyên chế.
Bởi vì, đó là chế độ mà người dân bị đầu độc về tinh thần lẫn về thể xác, bị bịt mồm
và bị giam hãm. Phát biểu tại Đại hội XVIII - Đảng Xã hội Pháp, Người nhấn mạnh
rằng thực dân Pháp đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi. Từ đó chúng
tôi không những bị áp bức bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu
độc bằng thuốc phiện và rượu cồn một cách thê thảm. Đó là một chế độ tàn bạo mà
bọn ăn cướp đã gây ra ở Đông Dương, nhà tù nhiều hơn trường học và lúc nào cũng
chật ních người. Bất kỳ người bản xứ nào có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cũng đều bị
bắt và đôi khi bị giết mà không cần xét xử...Với một nền “công lý” ở Đông Dương
như vậy, một sự phân biệt đối xử không có những bảo đảm về quyền con người như
vậy, một kiểu sống nô lệ như vậy, thì sẽ không có gì hết. Không có độc lập là sống

kiếp ngựa trâu, thì “chết tự do còn hơn sống nô lệ”. Vì vậy, Người nung nấu và
truyền quyết tâm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân là “dù có phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải giành kỳ được độc lập cho dân tộc”.
Độc lập dân tộc không phải là điều mới mẻ trong lịch sử dân tộc và lịch sử
thế giới. Nhưng độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh lại hoàn toàn mới, vì đó
là một kiểu độc lập dân tộc được nâng lên một trình độ mới, một chất mới. Người
không chấp nhận độc lập dân tộc theo con đường phong kiến hay độc lập giả hiệu,
bánh vẽ. Người chọn kiểu độc lập dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là
kiểu độc lập dân tộc làm tiền đề và phải đi tới hạnh phúc, tự do.
- Độc lập tự do cho dân tộc phải gắn với hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng
một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh là mục tiêu cao cả
trong triết lý Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc là điều kiện để nhân dân được tự do,
đồng bào được hạnh phúc, trên cơ cở đó mới có phát triển đất nước. Không có độc
lập dân tộc thì không thể nói tới tự do, hạnh phúc. Nếu dân tộc không được độc lập,
5


tự do thì mọi giai cấp tầng lớp cũng không thể có độc lập, tự do, không thể nói tới
phát triển đất nước, phát triển dân tộc được.
Theo Hồ Chí Minh độc lập phải gắn liền với tự do trong hòa bình chân chính,
"nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì"(2, tr.56). Rõ ràng, dân tộc được độc lập, tự do là điều kiện để tiến tới
thực hiện hạnh phúc ấm no cho toàn thể đồng bào. Trên cơ sở đó dân tộc mới được
phát triển về mọi mặt. Ngược lại, nếu nhân dân được tự do, hạnh phúc, đất nước
phát triển thì nhân dân sẽ ra sức bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Như vậy, độc lập
dân tộc là điều kiện không thể thiếu để Việt Nam phát triển. Không phải ngẫu nhiên
mà ngay khi cuộc kháng chiến chống mỹ của nhân dân ta đang diễn ra ác liệt, Hồ
Chí Minh lại khẳng định: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" (6, tr.108). Đây là
triết lý sống, triết lý hành động, là phương châm ứng xử của Người. Mọi cái Người
làm, mọi điều Người muốn, mọi tâm trí, sức của của Người, mọi suy nghĩ của

Người đều hướng vào việc nhằm giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Triết lý
"Không có gì quý hơn độc lập tự do" của Hồ Chí Minh được rút ra từ chiều sâu của
triết lý truyền thống lịch sử hàng ngìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng
như từ thực tiễn hoạt động đấu tranh cách mạng của nhân dân và của bản thân
Người.
- Độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu cốt lõi, chi
phối nhận thức và hành động của Hồ Chí Minh từ khi tìm đường cứu nước cho đến
khi trở về cõi vĩnh hằng. Sau khi nước nhà độc lập, Người khẳng định: tôi chỉ có
một sự ham muốn, ham muốn tốt bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành. Trong Di chúc để lại cho hậu thế, Hồ Chí Minh viết: "Điều mong muốn
cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đâu xây dựng một nước
Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới"(6, tr.614). Có thể nói, triết lý phát triển của
Hồ Chí Minh được nảy sinh, tồn tại, phát triển nhằm ba mục tiêu lớn, không tách
6


rời nhau, bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau. Đó là độc lập cho dân tộc; tự do cho
nhân dân; hạnh phúc cho đồng bào.
2. Triết lý Hồ Chí Minh về con đường phát triển của xã hội Việt Nam
Tìm kiếm con đường phát triển đúng đắn cho dân tộc là vấn đề khó khăn,
phức tạp nhất, sứ mệnh đó thuộc về những vĩ nhân và chính Hồ Chí Minh là người
như thế. Một trong những cống hiến xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh đối với dân tộc
Việt Nam là việc xác định con đường cách mạng Việt Nam – con đường cách mạng
vô sản; độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
- Triết lý Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam là con đường Cách mạng vô sản.
Việc xác định con đường phát triển của dân tộc Việt Nam của Hồ Chí Minh
có cơ sở xuất phát từ việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn phong trào yêu

nước ở Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh sinh ra trong bối
cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ. Các phong trào yêu nước chống
Pháp những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nổ ra mạnh mẽ theo các hệ tư
tưởng phong kiến và tư sản đều thất bại. Bằng mẫn cảm chính trị đặc biệt, một mặt
Nguyễn Tất thành rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối; mặt khác
nhận thấy những hạn chế của họ là ở chỗ, chưa có chính đảng cách mạng lãnh đạo,
chưa đoàn kết các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia, các con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc chưa gắn với xu thế phát triển của nhân loại.Từ đó, Người quyết định
ra đi tìm con đường cứu nước mới.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Tất Thành đã nghiên cứu lý
luận và khảo sát thực tiễn thế giới, trong đó có các nước tư bản phát triển như Anh,
Pháp, Mỹ, v.v. Nghiên cứu Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn dân
quyền và nhân quyền các cuộc cách mạng Pháp, cũng như tìm hiểu các cuộc cách
mạng tư sản Mỹ (1776), cách mạng tư sản Pháp (1789), bằng nhãn quan chính trị
sắc sảo, tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh nhận thấy cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà
7


dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa,
cách mệnh nhiều lần rồi mà dân chúng vẫn chưa hưởng tự do hạnh phúc. Vì lẽ đó,
Người không đi theo con đường cách mạng tư sản.
Tiếp cận Luận Cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa,
Người đã tìm thấy trong đó “Chân lý”, con đường cách mạng đúng đắn để giải
phóng dân tộc. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc tin theo Lênin, đi theo con đường cách
mạng tháng Mười Nga năm 1917. Nguyễn ái Quốc khẳng định: chỉ có cách mạng
tháng Mười Nga là "thành công đến nơi" vì quyền giao cho dân chúng số đông;
cách mạng tháng Mười Nga giúp có thể giúp cho thắng lợi của các dân tộc thuộc
địa, trong đó có Việt Nam. Có thể nói đến khi tiếp cận được với Luận cương Lênin
là bước phát triển về chất trong nhận thức của Hồ Chí Minh về sự lựa chọn con

đường cách mạng Việt Nam; về mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng
thuộc địa với cách mạng vô sản; giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, v.v. Sau
này, trong bài Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày
nay, tháng 1/1959, Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"(T9, tr.314). Sự
sáng tạo của Hồ Chí Minh là ở chỗ, mặc dù khẳng định cách mạng giải phóng dân
tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, song quá trình thực
hiện không phải bắt đầu từ đấu tranh giai cấp mà từ đấu tranh để giải phóng dân tộc,
từng bước giải phóng giai cấp và đi đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng triệt để
con người. Đây là điểm nhấn quan trọng trong nhận thức của Hồ Chí Minh, thể hiện
sự độc đáo, sáng tạo, vượt xa so với các nhà yêu nước tiền bối và đương thời về sự
lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
- Triết lý Hồ Chí Minh về con đường phát triển của dân tộc Việt Nam là tiến
lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Theo Hồ Chí Minh, có độc lập, tự do rồi thì vấn đề quyết định để bảo đảm
cho một đất nước có thể phát triển là việc xác định con đường đi đúng đắn của cách
mạng. Tin tưởng sắt đá vào nguyên lý phát triển biện chứng, Hồ Chí Minh khẳng
8


định rằng chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của nhân loại. Người cho
rằng, loài người đã trải qua sự phát triển từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội chiếm
hữu nô lệ, xã hội phong kiến rồi đến xã hội tư bản; xã hội tư bản với bản chất vô
nhân đạo và đầy mâu thuẫn tự trong lòng nó, cũng giống như những quy luật của
lịch sử xã hội, xã hội tư bản sẽ chuyển sang xã hội xã hội chủ nghĩa - cộng sản chủ
nghĩa. Bởi theo Người: "Chế độ tư bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết
được…Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa (cộng sản chủ nghĩa) mới giải quyết được
mâu thuẫn ấy"(3, tr.247).
Triết lý phát triển xã hội thật sự khoa học và sâu xa của Hồ Chí Minh không
chỉ là ở sự lựa chọn hướng đi và con đường đúng của dân tộc phù hợp với quy luật

phát triển của lịch sử. Giá trị khoa học và nhân văn trong cách nhìn mới của Hồ Chí
Minh là ở chỗ, Người không loá mắt trước hào quang của xã hội tư bản, cũng
không bi quan khi chủ nghĩa xã hội mới hình thành; Người thấy xã hội xã hội chủ
nghĩa là hướng đi tối ưu của loài người. Ngày từ năm 1923, Hồ Chí Minh viết: Chỉ
có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất,
việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại
là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho
đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới
hiểu nhau và yêu thương nhau. Với bản chất của nó, dù mới hình thành, xã hội xã
hội chủ nghĩa chứa đựng trong bản thân mình sức sống và tiềm năng của xã hội,
những yếu tố quy định sự vươn lên của xã hội trong tương lai, chúng thúc đẩy xã
hội tiến lên theo mục tiêu và lý tưởng nhân văn của con người.
Chính vì vậy, ngay từ khi đất nước còn đắm chìm trong nô lệ, Hồ Chí Minh
đã quyết chọn con đường cách mạng Việt Nam trước hết là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, thực hiện dân quyền và bảo đảm dân sinh, để từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội, với bản chất nhân đạo và đầy sức sống của nó, - nơi
thể hiện lý tưởng cao đẹp nhất của con người, - có khả năng tự tạo ra sức mạnh nội
9


sinh như là nguồn lực bên trong của biện chứng phát triển để thúc đẩy xã hội đi lên
phù hợp với lý tưởng chân chính của nhân dân Việt Nam; phù hợp với quy luật vận
động khách quan, tất yếu của xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã trở
thành tư tưởng nhân lõi xuyên suốt lý tưởng xây dựng xã hội mới và đó cũng là một
nội dung quan trọng, mà Hồ Chí Minh nâng lên thành nguyên lý của triết lý phát
triển xã hội.
Tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mùa xuân 1930, Nguyễn
Ái Quốc xác định con đường cách mạng Việt Nam là "Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" đã trở thành phương hướng

chiến lược của cách mạng Việt Nam. Quan điểm đó mang tính nhất quán trong tư
duy Hồ Chí Minh. Sau này, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Người viết:
"Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt
Nam phải chia làm hai bước: Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong
kiến, thực hiện "người cày có ruộng". Xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới…
Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa xã hội tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng
sản"(3, tr.209-210). Trong Báo cáo sử đổi Hiến pháp, tháng 12/1959, Hồ Chí Minh
chỉ ra rằng cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì độc
lập dân tộc mới thực sự vững chắc. Nói cách khác, chỉ có lựa chọn con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ và phát triển vững chắc nhất thành quả của độc lập
dân tộc, mới bảo đảm cho nhân dân thực sự được tự do, ấm no và hạnh phúc. Đồng
thời, độc lập dân tộc là điều kiện, tiền đề, cơ sở để thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Sở dĩ Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa xã hội lại là sự lựa chọn duy nhất
đúng cho con đường phát triển của Việt Nam là bởi vì:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh hiểu rõ tính tất yếu kinh tế và tất yếu xã hội của sự
lựa chọn này. Đây là quy luật phát triển khách quan của lịch sử không ai có thể
ngăn cản được. Người khẳng định: "Chúng ta đều biết từ đời xưa đến nay, cách sản
10


xuất từ chỗ dùng cành cây, búa đa phát triển dần đến máy móc, sức điện, sức
nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ nô lệ,
đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một nửa loài
người đang tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa…Sự phát triển và tiến bộ đó không ai
ngăn cản được" (4, tr.282). Do vậy, Việt Nam phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa là tất yếu khách quan. Người chỉ rõ, sau khi đánh đổ đế quốc, phong kiến,
cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, “vì
có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc

mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.
Thứ hai, Hồ Chí Minh không nói nhiều về khái niệm chủ nghĩa xã hội, nhưng
chủ nghĩa xã hội mà Người hiểu ở đây là mô hình xã hội duy nhất thực hiện được
mong muốn của Người là dân tộc được độc lập, nhân dân được tự do, hạnh phúc.
Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh chính là: "làm sao cho dân có ăn, làm cho dân
có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành". Chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện Việt Nam "trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh
phúc"(5, tr.17). "Chủ nghĩa xã hội là làm cho cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày
càng sung sướng, ai nấy dược đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì
nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ"(5, tr.591). "Chủ
nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân và do
nhân dân tự xây dựng lấy"(5, tr.556). Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định một cách dễ
hiểu những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội do nhân dân lao
động làm chủ, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình
đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều thì hưởng
nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng, mỗi người mới có điều kiện để
cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách và sở trường riêng của mình.
Theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh, "xã hội ngày
càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”. Đó cũng là một xã hội
11


hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng
đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ
quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng, đó là
thực hiện “nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh.
Xác định mục tiêu “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh”,
cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Trong quá trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây

dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự
phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân. Bởi vậy,
phải tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn hóa và tư tưởng. Có thể nói, chủ nghĩa xã
hội theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai cũng có công
ăn, việc làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; trong chủ nghĩa xã
hội, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau; chủ
nghĩa xã hội có quan hệ hòa bình, hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc trên thế
giới... Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội như vậy không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả
của độc lập dân tộc mà còn làm cho mọi người dân được tự do, ấm no và hạnh
phúc. Do vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển cho dân tộc Việt Nam, độc
lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điều đó thể hiện tính quy luật của sự
phát triển lịch sử xã hội Việt Nam: Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển
thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để tiến
tới giải phóng triệt để con người. Tìm ra con đường giải phóng và phát triển của
dân tộc đúng quy luật, hợp lòng dân, thuận theo sự tiến hóa của nhân loại là cống
hiến lý luận sáng tạo và là di sản tư tưởng có giá trị vĩnh hằng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh đối với cách mạng nước ta; là triết lý phát triển Hồ Chí Minh và của dân tộc
Việt Nam.

12


3. Ý nghĩa của triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường phát triển
của xã hội Việt Nam
- Triết lý của Hồ Chí Minh về mục tiêu của cách mạng Việt Nam đã đáp ứng
được nguyện vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam trong bối cảnh đất nước sống
dưới ách thống trị của thực dân đế quốc; đồng thời, phản ánh khát vọng chung của
các dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản; là giá trị phổ biến của nhân

loại.
- Triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu của cách mạng Việt Nam phản ánh bản
chất nhân văn, nhân đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tất cả cho con người, vì con
người. Con người đứng ở vị trí trung tâm trong triết lý phát triển của Hồ Chí Minh,
trong đó giải phóng triệt để con người là mục tiêu cao cả. Lấy con người làm mục
tiêu của sự phát triển xã hội chính là phát triển xã hội theo hướng nhân văn nhằm
đáp ứng mọi khát vọng của con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn
diện. Vì vậy, từ triết lý mục tiêu đó đã biến thành động lực, sức mạnh quy tụ toàn
dân tộc đấu tranh giành tự do độc lập.
- Triết lý của Hồ Chí Minh về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam
là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phù hợp với xu thế phát
triển của lịch sử. Con đường độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí
Minh chỉ ra cho dân tộc Việt Nam đã khắc phục hoàn toàn sự khủng hoảng về
đường lối cứu nước ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX; là ngọn đuốc dẫn
đường cho cách mạng Việt Nam dành nhiều thắng lợi trong đấu tranh giành độc lập
dân tộc, chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
- Triết lý Hồ Chí Minh về mục tiêu con đường cách mạng Việt Nam là cơ sở
đề Đảng, Nhà nước ta đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, đề ra mục tiêu chiến
lược, sách lược, phương thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.

13


KẾT LUẬN
Triết lý phát triển Hồ Chí Minh là những luận điểm, những mệnh đề, những
tư tưởng cốt lõi nhất của Người về bản chất, nguyên nhân, động lực, điều kiện,
khuynh hướng của sự vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam và đã trở thành
nguyên tắc, phương châm sống, hoạt động cách mạng của Người. .

Nội dung triết lý của Hồ Chí Minh rất phong phú, bao gồm: Triết lý về mục
tiêu và con đường phát triển của xã hội Việt Nam; triết lý về động lực cơ bản để
phát triển xã hội Việt nam; triết lý về thiết chế, chế độ xã hội ở Việt Nam; triết lý về
giải quyết các mối quan hệ cơ bản trong đời sống xã hội như: vấn đề dân tộc – giai
cấp; dân tộc – quốc tế; tự nhiên – xã hội; truyền thống – hiện đại; các mặt của đời
sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong hệ thống triết lý đó thì
triết lý về mục tiêu và con đường phát triển của xã hội Việt Nam là một nội dung
quan trọng.
Về mục tiêu của của cách mạng Việt Nam trong triết lý Hồ Chí Minh, Người
xem mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất là độc lập tự do dân tộc. Trên cơ sở mục
tiêu đó để tiến tới thực hiện các mục tiêu cốt lõi khác là hạnh phúc cho nhân dân,
dân chủ, giàu mạnh…Trong triết lý về con đường phát triển của xã hội Việt Nam,
Hồ Chí Minh khẳng định đó là con đường cách mạng vô sản; độc lập dân tộc gắn
liền chủ nghĩa xã hội. Con đường đó hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của dân tộc
Việt Nam, phản ánh đúng quy luật vận động phát triển của lịch sử, vì thế, được coi
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, là nguồn gốc của
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo.
Bối cảnh thế giới hiện nay có nhiều biến động phức tạp đã và đang đặt ra
hàng loạt các vấn đề cần giải đáp, trong đó có việc xác định mục tiêu và lựa chọn
con đường phát triển của đất nước. Do đó, việc vận dụng và phát triển sáng tạo
những quan điểm trong triết lý phát triển của Hồ Chí Minh là hết sức quan trọng và
cần thiết hơn bao giờ hết.

14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Phạm Ngọc Anh: Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – Giá trị lý luận và
thực tiễn. Nxb Chính trị quốc gia, HN 2009.
2. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15



×