Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.39 KB, 13 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN NGỌC NAM; LỚP H538
Ghi chú

Nội dung
Bài . NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TBCN
Câu 1. Hai thuộc tính của hàng hoá, liên hệ hàng hoá sản xuất ở Việt Nam.
1. Hai thuộc tính hàng hóa.
1.1- Khái niệm hàng hóa:
+ Hàng hóa là sản phẩm của lao động thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào
quá trình tiêu dùng thông qua trao đổi và mua bán. Hàng hóa có hai loại: hàng hóa vật thể
và hàng hóa phi vật thể.
+ Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hàng hóa, trong đó sản phẩm làm ra không phải là để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính người trực tiếp s3n xu61t ra nó mà là để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông qua trao đổi và mua bán.
1.2- Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
- Điều kiện cần: Có sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hóa sản xuất. Phân công
lao động xã hội càng phát triển thì sản xuất và trao đổi hàng hóa càng mở rộng và đa dạng
hơn.
- Điều kiện đủ: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những chủ thể sản xuất độc
lập nhất định. Do đó người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác thì phải thông
qua trao đổi, mua bán hàng hóa.
1.3- Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Thứ nhất: Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chuyên
môn hóa sản xuất. Do đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật
của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương. Khi sản xuất
và trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó còn khai thác được lợi thế của các
quốc gia với nhau.
Thứ hai: Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu
cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở, mỗi vùng, mỗi
địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều


đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào
sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ ba: Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất và
trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... buộc người sản xuất hàng
hóa phải luôn luôn năng động, nhạy bén, biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế.
Thứ tư: Sản xuất hàng hóa phát triển trở thành một trong những điều kiện làm cho đời
sống vật chất, văn hóa, tinh thần của mọi người dân cũng được nâng cao hơn, phong phú


hơn, đa dạng hơn.
1.4- Hai thuộc tính của hàng hoá:
- Gía trị sử dụng của hàng hóa:
+ Là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, ví dụ: cơm
để ăn, xe đạp để đi, máy móc, nguyên, nhiên vật liệu để sản xuất... sản phẩm nào cũng có
một số công dụng nhất định.
+ Công dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật chất quyết định. Khoa học kỹ
thuật càng phát triển, người ta càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và
lợi dụng chúng để tạo ra những giá trị sử dụng mới.
+ Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung vật chất của
của cải. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn.
+ Giá trị sử dụng nói ở đây với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải là giá trị
sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho
xã hội thông qua trao đổi - mua bán.
+ Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.
- Gíá trị của hàng hóa:
Muốn hiểu được giá trị phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng
mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác.
Cho và phân tích ví dụ:
Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Chất

của giá trị là lao động, vì vậy sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa
đựng trong đó, thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra
chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
1.5- Mối quan hệ hai thuộc tính của hàng hoá.
Giữa hai thuộc tính của hàng hóa luôn có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Trong đó, giá
trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của
giá trị ra bên ngoài. Khi trao đổi sản phẩm cho nhau, những người sản xuất ngầm so sánh
lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của quan hệ trao đổi là người ta trao
đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu
hiện quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một phạm trù lịch sử,
gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên thì giá trị là
thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Như vậy, hàng hoá là sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị, nhưng là
sự thống nhất của hai mặt đối lập. Đối với người sản xuất hàng hoá, họ tạo ra giá trị sử
dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến
giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái
mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn
có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Như vậy, trước khi thực
hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không thực hiện được giá trị, sẽ
không thực hiện được giá trị sử dụng.
2. Liên hệ hàng hóa sản xuất ở Việt Nam
Tùy theo nhận định của mỗi người.
Câu 2. Quy luật giá trị và ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị


trường ở Việt Nam.
1/ Quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa
a) Nội dung của quy luật:
- Là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sự trao đổi, sản
xuất hàng hóa thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị.

- Quy luật giá trị yêu cầu: Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó,
tức là hao phí lao động cần thiết.
+ Trong sản xuất: người sản xuất phải có mức hao phí lao động cá biệt của mình nhỏ hơn
hoặc bằng với mức hao phí lao động xã hội cần thiết mới có lãi.
+ Trong trao đổi: Thực hiện theo nguyên tắc ngang giá.
Khi có tiền xuất hiện trong mua bán thì giá cả hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị của nó.
b) Cơ chế tác động của quy luật giá trị: Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả
trong trường hợp giá cả bằng giá trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá
trị. và giá trị như cái trục của giá cả. Sự thay đổi của giá cả xoay quanh trục giá trị làm
nên “vẻ đẹp sinh động của thị trường” tạo sự hấp dẫn cho sản xuất và tiêu dùng.
c) Chức năng, tác dụng của quy luật giá trị
- Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
+ Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao,
những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư liệu sản xuất và sức lao
động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng có thể chuyển sang sản xuất
mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này tăng lên, quy mô sản
xuất càng được mở rộng.
+ Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc
người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt
hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác
lại có thể tăng lên. Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có
thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
- Kích thích tiến bộ, nâng cao năng xuất lao động:
+ Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành
sản phẩm.
+ Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu
người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến toàn bộ năng suất lao động
xã hội không ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
- Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu nghèo.
+ Quy luật này phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo. Những người

sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức hao phí lao động xã
hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết (theo giá trị) sẽ
thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ.


+ Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn hơn
mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ,
nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, cơ sở ra đời
của chủ nghĩa tư bản.
2/ Ý nghĩa của quy luật giá trị trong phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Những tác động nhiều mặt của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn hết sức to lớn: một mặt chi phối sự lựa chọn tự nhiên, đào thải các yếu
kém, kích thích các nhân tố tích cực phát triển; mặt khác, phân hóa xã hội thành kẻ giàu
người nghèo, tạo ra sự bất bình đẳng trong xã hội.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực vừa có tác động tiêu cực. Thấy được
điều đó, đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, Nhà nước cần có những
biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế những tiêu cực của nó, đặc biệt là trong điều
kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
Nên bám sát vào 03 ý dưới đây:
> Đối với điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
> Đối với việc kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động:
> Đối với sự phân hóa giàu nghèo:
Câu 3. Mâu thuẫn công thức chung của tư bản và lý luận hàng hoá sức lao động.
1/ Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản
xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T’ người ta dễ lầm
tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông.

Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được
(tiền không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên).
Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt,
cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối
lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt
thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong
toàn xã hội ở một thời gian nhất định là một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu
thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư.
Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông
đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được
trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình.
Đó là hàng hóa sức lao động.
2/ Lý luận hàng hóa sức lao động (còn thiếu thiếu gì đó?)
Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con
người. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng
hóa khi có hai điều kiện:


– Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình
để có thể đi làm thuê (bán sức lao động).
– Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là
bán sức lao động của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính
như hàng hóa thông thường vừa có đặc điểm riêng.
– Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và
tái sản xuất ra nó. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện
bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng
giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công
nhân, gia đình anh ta và chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá
trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ nhất định.

– Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu người
mua là sử dụng vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức
lao động khi được sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó
chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là
chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ chỉ
trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho
người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức
lao động.
Câu 4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, so sánh và rút ra ý nghĩa của việc
nghiên cứu.
1/ Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao động
vượt quá thời gian lao động tất yêu, trong khi năng suất lao động tất yêu và giá trị sức lao
động không đổi.
Vd: ngày lao động chuẩn là 8 giờ (thời gian lao động tất yêu là 4 giờ, thời gian lao động
thặng dư là 4 giờ), giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư
là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%. Nếu ngày lao động kéo dài thành 10 giờ,
trong khi năng suất và thời gian lao động tất yêu và giá trị sức lao động không đổi, giá trị
thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, tỷ suất giá trị
thặng dư sẽ tăng lên 150%.
Phương pháp này được áp dung phổ biến ở giai đoạn sau của CNTB.
b) Phương pháp sản xuất giá trị thặng tương đối:
Đây là phương pháp nhà tư bản thu được giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động
cần thiết, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư,bằng cách ha thấp giá trị
sức lao động, trong khi độ dài ngày lao động không đổi.
Để rút ngắn thời gian lao động, tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. muốn hạ thấp giá trị
sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công
nhân. Điều này chỉ co thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các



ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sản xuất đó.
Đây là phương pháp phổ biến ở giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
2/ So sánh và rút ra ý nghĩa của việc nghiên cứu
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối giống nhau về mục đích
và làm cho thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra; nhưng giữa chúng co sự khác
nhau về giả thiết, cách thức tiến hành biện pháp,…
- nếu gạt bỏ mục đích và tính chất của chủ nghĩa tư bản thì vận dụng các phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư, nhất là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và giá trị
thặng dư siêu ngạch trong các doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất, tăng năng suất lao
động xã hội, sử dụng kỹ thuật – công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản lý, tiết kiệm chi phí
sản xuất.
- Gợi mở cách thức làm tăng của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. đối với nước ta, cần
tận dụng triệt để các nguồn lực; nhất là nguồn lao động trong sản xuất kinh doanh. Về cơ
bản và lâu dài , giải pháp quan trọng cần phải coi trọng tăng năng suất lao động xã hội,
phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước
Bài . TÍCH LUỸ TƯ BẢN VÀ NHỮNG HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ
Câu 5. Thực chất của tích luỹ tư bản, quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư bản.
1/ Thực chất của tích luỹ tư bản.
a) Tích luỹ tư bản
- Khái niệm:
Tích luỹ tư bản là quá trình biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở
rộng sản xuất.
Tích luỹ tư bản là quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư.
- Tính tất yếu khách quan của tích luỹ tư bản:
+ Đáp ứng nhu cầu của tái sản xuất mở rộng nền kinh tế TBCN.
+ Để có ưu thế trong cạnh tranh.
+ Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật, đổi mới công nghệ.

+ Bảo đảm sự thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân.
b) Thực chất của tích luỹ tư bản được thể hiện thông qua quá trình tái sản xuất tư bản chủ
nghĩa
b.1 Quá trình tái sản xuất TBCN (nên tìm hiểu kỹ về 02 ví dụ bên dưới để rõ hơn)
- Khái niệm: Tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại và đổi mới không
ngừng.
- Nội dung của tái sản xuất:
+ Tái sản xuất ra của cải vật chất.
+ Tái sản xuất ra sức lao động.
+ Tái sản xuất ra quan hệ sản xuất.


- Loại hình tái sản xuất:
Dựa vào quy mô tư bản đầu tư, Mác chia quá trình tái sản xuất TBCN thành tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
+ Tái sản xuất giản đơn TBCN: Tái sản xuất giản đơn TBCN là quá trình sản xuất được
lặp lại với quy mô tư bản như cũ, nhà tư bản tiêu dùng hết giá trị thặng dư.
Ví dụ: Một nhà tư bản có lượng tư bản ứng trước là 100 triệu USD (80 dùng để mua tư
liệu sản xuất, 20 dùng để mua sức lao động); m’ = 100%
Quy mô sản xuất năm thứ nhất: 80c + 20v
Kết quả: G = 80c + 20v + 20m = 120 (tiêu dùng hết 20m)
Quy mô sản xuất năm thứ 2: 80c + 20v (như năm I)
+Tái sản xuất mở rộng
Tái sản xuất mở rộng TBCN là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô tư bản lớn hơn
trước, nhà tư bản không tiêu dùng hết giá trị thặng dư mà biến một phần giá trị thặng dư
thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.
Ví dụ: Tiếp tục ví dụ trên:
(1) Quy mô tư bản: 100 = 80c + 20v (m’ = 100%)
Kết quả sản xuất năm thứ nhất: G = 120 = 80c + 20v + 20m
Trong 20m, nhà TB tiêu dùng 10m và tích luỹ 10m để mở rộng sản xuất

(2) Quy mô tư bản: 110 = 88c + 22v
(theo tỷ lệ như cũ, với 10 triệu USD tư bản phụ thêm, nhà tư bản sẽ chia thành 8c và 2v)
Kết quả sản xuất năm thứ hai: G = 132 = 88c + 22v + 22m
Trong 22m, nhà tư bản tiếp tục tiêu dùng 11m và tích luỹ 11m.
b.2 Thực chất của tích lũy tư bản là quá trình tái sản xuất ra tư bản với quy mô ngày
càng lớn, mục đích của quá trình đó là bóc lột được (m) càng nhiều càng tốt.
- Nguồn gốc của tiền lương trả cho công nhân do chính quá trình lao động của công nhân
tạo ra. Công nhân không những làm việc để tạo ra tiền lương trả cho mình mà còn làm
việc để tạo ra (m) nuôi sống nhà tư bản.
- Dù cho tư bản ứng trước có là tài sản chính đáng của nhà tư bản, sau quá trình tái sản
xuất và tích lũy tư bản, dần dần nó cũng trở nên vô cùng nhỏ bé so với tư bản tích lũy
được.
- Nguồn gốc duy nhất của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư.
2/ Quan hệ giữa tích luỹ, tích tụ, tập trung tư bản
Tích luỹ tư bản là quá trình làm cho tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng
- Tích tụ tư bản: là quá trình làm tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa giá trị
thặng dư. Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản.
- Tập trung tư bản: là quá trình làm tăng quy mô tư bản cá biệt bằng cách hợp nhất các tư


bản sẵn có lại với nhau.
- Tích tụ và tập trung tư bản tuy có nhiều điểm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết
với nhau và luôn thúc đẩy nhau phát triển.
- Tích luỹ tư bản làm cho quá trình tích tụ và tập trung tư bản tăng nhanh, đến lượt nó,
tích tụ và tập trung tư bản tăng nhanh lại khiến cho quy mô tích luỹ không ngừng được
mở rộng.
Bài. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI
Câu 6. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và xu hướng vận động của chủ nghĩa
tư bản hiện nay.
1/ CNTB độc quyền nhà nước

1.1- Nguyên nhân ra đời
- Sự phát triển của LLSX làm xuất hiện những cơ cấu kinh tế đồ sộ và những quan hệ
kinh tế rộng lớn, phức tạp. Do vậy cần phải có sự điều tiết kinh tế từ một trung tâm, đó là
điều tiết của Nhà nước.
- Việc phát triển kết cấu hạ tầng và các ngành công nghệ hiện đại, đòi hỏi phải có sự đầu
tư từ ngân sách quốc gia.
- Nhiều khó khăn, mâu thuẫn do các tổ chức độc quyền gây ra, không thể thiếu vai trò xử
lý của Nhà nước.
1.2- Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh giữa các tổ chức độc quyền
với Nhà nước tư bản thành một thiết chế và thế chế thống nhất, nhằm bảo vệ lợi ích cho
các tổ chức độc quyền và để cứu nguy cho CNTB.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản
độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với
nhau:
- Tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền
- Tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế
- Kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế
thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.
1.3- Những hình thức chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước
- Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và Nhà nước tư bản.
+ Nhà nước mua cổ phần của các TCĐQ từ đó đưa người đại diện tham gia vào các tổ
chức này
+ Các TCĐQ đưa người ra tranh cử vào các vị trí lãnh đạo của nhà nước tư bản.
=> Nhà nước có thể bảo đảm được vai trò quản lý của nhà nước cả trực tiếp và gián tiếp.
Lợi ích của các TCĐQ được bảo vệ một cách chắc chắn hơn.
- Sự hình thành sở hữu nhà nước tư bản chủ nghĩa.


+ Quốc hữu hoá: nhà nước mua lại các cơ sở kinh tế của tư nhân

+ Đầu tư xây dựng mới
=> Tạo ra thực lực kinh tế để thực hiện điều tiết nền kinh tế của nhà nước
- Sự điều tiết kinh tế của nhà nước.
Nhà nước tư bản sử dụng các công cụ như: pháp luật, chính sách, cơ chế và lực lượng vật
chất do nhà nước nắm giữ để thực hiện việc điều tiết nền kinh tế của mình.
2/ Hướng vận động của chủ nghĩa tư bản hiện nay
2.1-Vai trò
- Đã có đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của nền sản xuất xã hội:
+ Thực hiện được cuộc cách mạng về công cụ lao động và tổ chức nền sản xuất xã hội.
+ Tạo ra bước phát triển nhảy vọt về năng suất lao động xã hội.
+ Chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn hiện đại.
- Chuẩn bị những tiền đề cho sự ra đời của một xã hội mới (cả tiền đề kinh tế lẫn tiền đề
xã hội).
2.2- Xu hướng vận động
- CNTB thay thế chế độ phong kiến là một sự tiến bộ lịch sử. CNTB ngày nay nhờ tận
dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ và có sự thích nghi; sự tự
điều chỉnh nên sẽ còn tiếp tục phát triển.
- Tuy nhiên, CNTB hiện đại vẫn không thể xoá bỏ được những mâu thuẫn và khó khăn
vốn có của chính CNTB. Xã hội tư bản ngày nay vẫn là một xã hội bóc lột và bất công,
sớm muộn gì cũng phải được thay thế bằng một xã hội mới tiến bộ hơn.
V.I. Lênin nhận xét: sự phát triển nhanh chóng và sự trì trệ thối nát là hai xu thế cùng
song song tồn tại trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đó cũng chính là một
biểu hiện quan trọng thuộc bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Những thành tựu và hạn chế trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản
của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hoá cao của lực lượng
sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất
ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng
trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của nó.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản

lý và phân phối, và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã phần nào làm
giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn này. Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn không
vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy mâu thuẫn vẫn
không bị thủ tiêu.
Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu và một
phương thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa sẽ ra đời và phủ
định phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.


Bài. NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CNXH
Câu 7. Tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN là một tất yếu lịch sử bởi vì:
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta trong
suốt quá trình cách mạng Việt Nam luôn khẳng định con đường đi lên của đất nước là quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa phù hợp với qui luật khách quan
của lịch sử.
Đại hội lần VI của Đảng khẳng định: Ngày nay đã có những điều kiện để hiểu biết đầy đủ
về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở việt Nam.Từ CNTB lên CNXH phải trải qua
thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan, và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều
kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH, từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai
đoạn phát triển TBCN đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Sẽ là sai lầm và phải trả
giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ TBCN” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập
CNXH với CNTB bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở các nước
XHCN trước đây. Vì vậy, Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần IX đã nói rõ bỏ qua chế độ
TBCN là: “bỏ qua việc xác lập địa vị thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng
TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ
TBCN, đặc biệt về khoa học công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế

hiện đại”. Bỏ qua chế độ TBCN thực chất là phát triển theo con đường “rút ngắn” quá
trình lên CNXH nhưng rút ngắn không phải đốt cháy giai đoạn duy ý chí coi thường qui
luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi CNXH” hoặc
coi nhẹ SX hàng hóa .v.v… Trái lại phải tôn trọng qui luật khách quan và biết vận dụng
sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng thuận lợi để tìm
ra con đường, hình thức bước đi thích hợp.
Bỏ qua chế độ TBCN nhưng không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua
con đường gián tiếp, qua việc thực hiện hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết
khách quan và vai trò, tác dụng của các hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu
sắc trong lý luận về CNTB nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu
trung gian vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng LLSX, vừa cần thiết để chuyển từ các
quan hệ tiền TB lên CNXH, nó là hình thức vận dụng các qui luật kinh tế phù hợp với
điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta tạo ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải
qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức KT-XH
có tính chất quá độ”.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là con đường rút ngắn để xây dựng đất nước
văn minh, hiện đại
2. Tiền đề khách quan để nước ta quá độ đi lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ


nghĩa
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu
hóa KT đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ KT quốc tế trở thành tất yếu, mở rộng ra
khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn,
công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lý yếu kém…. Nhờ đó ta có thể thực
hiện “con đường rút ngắn”.
Thời đại ngày nay quá độ lên CNXH là xu hướng khách quan của loài người. Đi trong
dòng chảy đó của lịch sử chúng ta đã và đang sẽ nhận được sự đồng tình ủng hộ ngày

càng mạnh mẽ của loài người của các quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con
đường phát triển tiến bộ của mình.
Câu 8. Những nội dung cơ bản về vấn đề thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu
nhất định về tư liệu sản xuất. Thành phần kinh tế tồn tại ở những hình thức tổ chức kinh tế
nhất định, trong đó căn cứ vào quan hệ sản xuất (mà hạt nhân là quan hệ sở hữu) nào
thống trị để xác định từng thành phần kinh tế.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động
lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cơ cấu kinh
tế trong đó các thành thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển như một tổng thể, giữa
chúng có quan hệ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau.
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và là tất yếu khách quan:
- Một số thành phần kinh tế của phương thức sản xuất cũ (như kinh tế cá thể, tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân...) để lại, chúng đang có tác dụng đối với sự phát triển lực lượng
sản xuất; một số thành phần kinh tế mới hình thành trong quá trình cải tạo quan hệ sản
xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới (như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
tư bản nhà nước). Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách
quan, có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
- Nguyên nhân cơ bản của sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, suy đến cùng, là do quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Thời kỳ quá độ ở nước ta, do
trình độ lực lượng sản xuất còn rất thấp, tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, lại phân bố
không đều giữa các ngành, vùng... nên tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu tư liệu
sản xuất, nhiều thành phần kinh tế.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là một tất yếu khách quan, mà còn có

vai trò to lớn vì:
Một là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tức là tồn tại nhiều hình thức tổ chức kinh tế,
nhiều phương thức quản lý phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Chính
sự phù hợp này đến lượt nó, có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng
kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh
tế.


Hai là, nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể kinh tế, từ đó
thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, tạo tiền đề đẩy mạnh cạnh tranh, khắc phục tình
trạng độc quyền. Điều đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển
các mặt của đời sống kinh tế xã hội.
Ba là, tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, trong đó có hình
thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những "cầu nối", trạm "trung gian" cần thiết để đưa
nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Bốn là, phát triển mạnh các thành phần kinh tế và cùng với nó là các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh là một nội dung cơ bản của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Năm là, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đáp ứng được lợi ích kinh tế của các giai cấp,
tầng lớp xã hội, có tác dụng khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, các tiềm năng
của đất nước, như sức lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên, kinh nghiệm quản lý để tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đồng thời cho phép khai thác kinh nghiệm tổ chức
quản lý và khoa học, công nghệ mới trên thế giới.
2. Cơ cấu các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam
Trên cơ sở nguyên lý ba thành phần kinh tế chủ yếu mà V.I.Lênin đã chỉ ra trong thời kỳ
quá độ (kinh tế xã hội chủ nghĩa, kinh tế của những người sản xuất hàng hóa nhỏ, kinh tế
tư bản tư nhân), tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà xác định cơ cấu thành phần của từng giai đoạn

cho phù hợp. Đó là:
- Kinh tế nhà nước: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản
xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, ngân
sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài nguyên
quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa vào vòng chu chuyển kinh tế.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là hợp
tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi những người
lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần
kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định
riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ; hoạt động theo
các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu trách
nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng.
- Kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về
TLSX và lao động của chính người sản xuất hoặc sử dụng lao động làm thuê.
- Kinh tế cá thể: dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về TLSX và sức lao động của hộ gia đình
là chủ yếu.
- Kinh tế tiểu chủ: dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về TLSX, có thuê mướn sức lao động
với số lượng ít.
Ở nước ta do trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan
trọng, lâu dài trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước. Nó có khả năng sử
dụng và phát huy có hiệu quả các tiềm năng về vốn, sức lao động, các kinh nghiệm sản


xuất, ngành nghề truyền thống. Hạn chế của thành phần này là ở tính tự phát, manh mún
và chậm ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ.
- Kinh tế tư bản tư nhân: Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ quá độ ở nước
ta, thành phần này còn có vai trò đáng kể để phát triển lực lượng sản xuất, xã hội hóa sản

xuất, khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp phần giải quyết các vấn đề xã
hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động, nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ
có những đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, tuy nhiên,
kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao.
- Kinh tế tư bản nhà nước: Dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp về vốn giữa kinh tế nhà
nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước dưới các hình thức hợp tác liên
doanh.
2.5. Mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế
- Mỗi thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất.
- Các thành phần kinh tế vừa thống nhất và mâu thuẫn, vừa hợp tác và cạnh tranh.
- Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật cả về nghĩa vụ và quyền lợi.
- Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.



×