Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Hệ thống lời bình ở Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ trong mối quan hệ với phần chính văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.04 KB, 14 trang )

Hệ thống lời bình ở Truyền kỳ mạn lục –
Nguyễn Dữ trong mối quan hệ với phần chính
văn
Mai Thi Thu Huyền
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Luận văn Thạc sĩ. ThS. Văn học: 60 22 01 21
Nghd: GS.TS. Trần Ngọc Vương
Năm bảo vệ: 2014
Keywords: Văn học Việt Nam; Lời bình; Truyền kỳ mạn lục
Contents:
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Không khó để nhận thấy trong nhiều tác phẩm văn học thời trung đại ở các quốc gia Đông
Á nói chung, Việt Nam nói riêng, ngoài phần chính văn còn có những lời bình , các bài tựa , bạt
do chính tác giả hoặc người khác chấp bút. Nếu ở thời hiện đại , mỗi tác phẩ m văn ho ̣c đề u có
mô ̣t lươ ̣ng đô ̣c giả nhấ t đinh
̣ và nhà văn dễ dàng biế t đươ ̣c phản hồ i của ba ̣n đo ̣c về đứa con tinh
thầ n của min
̀ h thì ở thời trung đa ̣i , do viê ̣c in ấ n , xuấ t bản ha ̣n chế , bản thân người cầm bút lại
không có ý đinh
̣ sáng tác cho đô ̣c giả phổ thông mà chỉ viế t cho miǹ h và những người giố ng như
mình nên công chúng văn ho ̣c thời kì này cực kì ha ̣n he ̣p, chính vì vậy, có thể coi những lời bình,
bạt, tựa do người khác viế t ra là s ự phản hồi của công chúng về tác phẩ m . Còn phần tựa , bạt,
bình của chính tác giả, thông thường, đó là nơi để người viết làm rõ hơn hoàn cảnh sáng tác, mục
đić h sáng tác hay những vấ n đề khác của tác phẩ m , đôi khi còn đinh
̣ hướng một cách tiế p câ ̣n
cho người đọc. Bởi vậy, việc xem xét những lời bình ở văn học trung đại không chỉ giúp chúng
ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của các tác phẩm mà còn thấy được quan điểm sáng tác, tư tưởng của
người cầm bút cũng như lý luận văn học và tiếp nhận văn học thời cổ.
Theo hướng làm việc đó, chúng tôi lựa chọn tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
làm đối tượng nghiên cứu. Trước hết là bởi ở tác phẩm này, ngoại trừ Kim Hoa thi thoại ký


(Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa), 19 truyện còn lại đều có lời bình ở cuối, được viết rất ngắn gọn
với nội dung cô đọng và súc tích. Số lượng lời bình này theo chúng tôi là thích hợp để khảo sát


trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ. Ngoài ra, trước chúng tôi, một số nhà nghiên cứu khi tìm
hiểu về Truyền kỳ mạn lục đều nhận thấy trong một số truyện, giữa phần lời bình và phần chính
văn có độ chênh nhất định và đã đi vào lý giải sự mâu thuẫn ấy, song mỗi người giải thích theo
một cách khác nhau. Điều đó cho thấy sự phức tạp ở bản thân tập “thiên cổ kỳ bút” này không
chỉ thể hiện trong tương quan giữa các truyện với nhau mà còn bộc lộ ở mối quan hệ giữa phần
chính văn và phần lời bình. Không có tham vọng luận giải tất cả các vấn đề của Truyền kỳ mạn
lục, thông qua việc so sánh hệ thống lời bình với phần chính văn trong tập truyện này, chúng tôi
sẽ làm rõ hơn giá trị của phần lời bình – bộ phận có ý nghĩa quan trọng không kém những câu
chuyện được kể.
2. Lịch sử vấn đề
Được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia” (Phan Huy Chú),
không có gì khó hiểu khi Truyền kỳ mạn lục được rất nhiều nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc
yêu thơ văn tìm hiểu. Xét riêng những bộ văn học sử về mười thế kỷ đầu của văn học dân tộc, có
thể thấy, Truyền kỳ mạn lục luôn được ưu ái dành cho một số lượng trang không nhỏ với nhận
định khá thống nhất rằng đây là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi chữ Hán nói riêng cũng như
của văn học hình tượng thời trung đại nói chung. Hai tác phẩm Chuyện người con gái Nam
Xương và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên trong Truyền kỳ mạn lục đã được đưa vào giảng
dạy ở bậc Trung học cơ sở và Trung học phổ thông (chương trình Ngữ văn lớp 9 và lớp 10), đó
là sự khẳng định giá trị cổ điển, mẫu mực của tập truyện này. Song hầu hết các nhà nghiên cứu
chủ yếu dành sự quan tâm đến phần chính văn của Truyền kỳ mạn lục chứ ít chú ý tới 19 lời bình
ở cuối các truyện, những ghi nhận, khẳng định giá trị của Truyền kỳ mạn lục trước nay đều căn
cứ trên phần chính văn. Mặc dù vậy, hệ thống lời bình ở Truyền kỳ mạn lục cũng đã được một số
nhà nghiên cứu như Bùi Duy Tân, Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu, Nguyễn Phạm Hùng,
M. Tkachov, Trần Ích Nguyên… đề cập đến trong các bài viết của mình.
Những ý kiến về lời bình trong Truyền kỳ mạn lục chủ yếu xoay quanh hai vấn đề: tác giả
của lời bình và mối quan hệ giữa lời bình và chính văn. Trước hết là về tác giả của lời bình. Từ

trước đến nay, hầu hết mọi người đều cho rằng Nguyễn Dữ là tác giả của cả phần chính văn
lẫn lời bình: Ngay trong bản giải âm Truyền kỳ mạn lục, người dịch tác phẩm ra chữ Nôm đã ba
lần dịch thẳng những chữ “Viết 曰” trong lời bình thành “Nguyễn Dữ rằng 阮嶼哴” ở các truyện
Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu, Chuyện yêu quái ở Xương Giang và Chuyện nghiệp oan
của Đào thị. Trong lời giới thiệu bản dịch Truyền kỳ mạn lục của Trúc Khê Ngô Văn Triện, Bùi


Kỷ viết: “20 truyện trong tác phẩm này, trừ truyện 12 và 14, toàn là truyện quỷ thần yêu quái,
sau từng truyện, phụ thêm một bài bàn, theo ý chúng tôi, đều là lời tác giả” (dẫn theo [3, tr.282]).
Nhà nghiên cứu người Nga K.I. Golưgina gọi đó là những lời “khuyến giới”, đóng vai trò là “lời
giải thích giản đơn „từ tác giả‟ vào tự sự” [30, tr.21]. Tương tự như thế, khi giới thiệu tác phẩm
Truyền kỳ mạn lục ở cuốn sách Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục, Trần Thị Băng Thanh
cho rằng: “Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi
truyện (trừ truyện 19 Kim Hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả” [1,
tr.202]. Lại Văn Hùng thì mặc nhiên coi Nguyễn Dữ là người viết lời bình: “Nhiều khi truyện và
lời bình không khớp nhau. Khi viết lời bình, Nguyễn Dữ từ điểm nhìn của Nho giáo để „phán‟
các truyện; nhưng trong các truyện lại hàm chứa nhiều kiểu cách phi Nho” [33, tr.60]. Nguyễn
Quang Hồng, Trần Đình Sử, Trần Ích Nguyên, Lê Văn Tấn cũng quan niệm: “Vì đoạn „Lời bình‟
này không được ghi rõ là của ai, nên ta có thể mặc nhiên coi là do chính Nguyễn Dữ viết lấy” [2,
tr.13]; “Lời bình trong Truyền kỳ mạn lục hẳn là của Nguyễn Dữ” [86, tr.297], “sau đoạn kết của
19 truyện còn lại đều có một lời bình ngắn gọn, đó chính là Nguyễn Dữ đã từ sau cánh màn chạy
ra sân khấu để „hiện thân thuyết pháp‟, biểu đạt tình cảm yêu ghét của mình” [70, tr.53], “Lời
bình là do Nguyễn Dữ viết ra” [92]. Còn Kim Seona đã đưa ra bốn lý do để khẳng định điều này:
“1) Qua tên sách, hầu như Nguyễn Dữ muốn phân bua, ông không hề „bịa chuyện‟ mà chỉ ghi
chép một cách khách quan những chuyện lạ vẫn được lưu truyền ở đời. Chỉ đến lời bình ông mới
thể hiện kiến giải của mình. 2) Tác phẩm là của một tác giả chứ không như sử kí là của nhiều
người tham gia và nhiều sử thần bình luận. 3) Các nhà nho xưa thường rất cẩn trọng trước trước
tác của người khác, nếu bình thường ghi tên của mình vào. 4) Tác phẩm được đề tựa sớm và định
danh sớm” [48, tr.43]. Mặc dù vậy, vẫn có một số nhà nghiên cứu tỏ ý nghi ngờ việc Nguyễn Dữ
viết 19 lời bình trong Truyền kỳ mạn lục. Bùi Duy Tân thể hiện thái độ lưỡng lự khi nhận định:

“Trừ truyện số mười chín (Cuộc nói chuyện ở Kim Hoa) các truyện còn lại đều có lời bình của
tác giả ở cuối truyện”, sau đó chú thích: “Hoặc lời bình đó là của một người cùng quan điểm với
tác giả” (“Truyền kỳ mạn lục, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán”, [44,
tr.505]). Marian Tkachov trong khi coi lời bình là một thủ pháp nhằm vãn hồi tính tư tưởng – đạo
đức hợp pháp cho tác phẩm, để nó lưu truyền được ở đời, đã lật lại vấn đề tác giả của chúng: “Ai
đã cố gắng làm điều đó – phải chăng là chính tác giả? Chưa chắc gì… Ông không thích vinh
quang và chẳng muốn có điều đó. Phải chăng bằng hữu hoặc độc giả tài hoa của ông muốn bảo
vệ để truyện khỏi mai một? Hay những lời khuyến giới thoát ra từ ngọn bút của người chép


truyện?” (“Bậc thầy của những chuyện kỳ diệu sáng tạo từ đất Hải Dương, [64, tr.89]). Cũng
trong bài viết này, Tkachov cho rằng tập sách của Nguyễn Dữ đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm
“chất chính nghiêm khắc” [64, tr.75], và đây là cơ sở để Nguyễn Nam đặt câu hỏi về mức độ phủ
chính của Bạch Vân Am cư sĩ đối với Truyền kỳ mạn lục: “Mức độ „phủ chính‟ nọ có chăng vượt
khỏi khuôn khổ những câu chuyện, tham gia cả vào lời bình („khuyến giới‟)?” (“Đọc lời bạt bản
dịch Nga văn Truyền kỳ mạn lục”, [64, tr.65]). Phân tích một số tác phẩm, nhà nghiên cứu Phạm
Tú Châu cho rằng: “sự khập khiễng quá rõ ở một số lời bình so với truyện cho phép chúng ta
nghĩ tới khả năng người viết truyện và người bình không phải là một mà là hai người có trình độ
khác nhau về nhiều mặt” [17, tr.78]. Dường như có chung mối nghi ngờ đó, một số tác giả đã
không xác quyết ai là tác giả của các lời bình mà sử dụng cụm từ “tác giả lời bình” để chỉ
người đã chấp bút nên những dòng bình luận đó, chẳng hạn như Nguyễn Đăng Na trong bài viết
Truyện ngắn trong sự phát triển của văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại [62, tr.389]), hay
Trần Thị Nhung trong Luận văn Thạc sĩ Nhân vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan
điểm giới. Theo chúng tôi, sự thận trọng đó là hợp lý khi chưa có tư liệu xác tín để khẳng định
chắc chắn vấn đề này.
Tuy nhiên, khi nhận xét về mối quan hệ giữa hệ thống lời bình với phần chính văn của
Truyền kỳ mạn lục, ý kiến của các nhà nghiên cứu trên lại khá thống nhất. Bùi Duy Tân [44],
Nguyễn Phạm Hùng (“Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ”, [34]), Trần Đình Sử (“Con người cá nhân trong văn học Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu
thế kỷ XVIII”, [118]), M. Tkachov [64], Lê Văn Tấn [92]… đều nhận thấy hầu hết lời bình ở các

thiên truyện tương đối thống nhất với nội dung tư tưởng tác phẩm, “tức là nếu cảm hứng của tác
phẩm là phê phán thì lời bình cũng là sự phê phán, cảm hứng của tác phẩm là ngợi ca thì lời bình
cũng sẽ là ngợi ca” [92]; những truyện còn lại “không có sự thống nhất giữa thế giới nghệ thuật
trong tác phẩm và phần lời bình. Nghĩa là có sự khác biệt và mâu thuẫn giữa con người Nguyễn
Dữ trong tác phẩm và con người Nguyễn Dữ trong phần lời bình. Tác phẩm ca ngợi một vấn đề
nào đó thì lời bình có thể lại là phê phán, hoặc bày tỏ một thái độ khác; ngược lại, tác phẩm phê
phán một vấn đề nào đó thì lời bình có thể lại ngợi ca hoặc định hướng cho người đọc cảm thụ
hình tượng theo một hướng khác” [92], và tiêu chuẩn để ngợi ca hay phê phán của tác giả lời
bình là việc nhân vật trong tác phẩm có tuân thủ theo các chuẩn mực đạo đức Nho giáo hay
không, nếu vượt ra ngoài những khuôn phép đó thì họ sẽ bị lên án, phê phán.


Mặc dù có sự đồng thuận trong nhận xét nhưng cách lý giải sự mâu thuẫn giữa phần
chính văn và phần lời bình ở một số truyện trong Truyền kỳ mạn lục của các nhà nghiên cứu
trên lại khác nhau. Bùi Duy Tân cho rằng: sự tác động của hoàn cảnh xã hội đầy biến động
đương thời đã khiến tư tưởng Nho giáo ở Nguyễn Dữ có những rạn nứt nhất định, lại chịu ảnh
hưởng của Phật giáo, Đạo giáo và văn hóa dân gian nên khi xây dựng các nhân vật, Nguyễn Dữ
đã ít nhiều đi ra ngoài các quy phạm; tuy nhiên, khi thoát khỏi thế giới nghệ thuật đó để đứng ở
vị trí một người bình luận, với sự níu kéo của lễ giáo phong kiến, ông lại trở về vị trí một nhà
nho thuần túy [44]. Lê Văn Tấn cũng nhận định: “Sự rạn nứt và đổ vỡ của tư tưởng Nho giáo khi
Nguyễn Dữ xây dựng hình tượng nhân vật và sự trở về của nó trong quan niệm, tư tưởng của ông
ở lời bình bộc lộ một sự dùng dằng và day dứt của nhà nho Nguyễn Dữ trước những biến động
chóng mặt của xã hội Việt Nam thế kỷ XVI” [92]. Ngược lại, M. Tkachov không xem những lời
bình trong Truyền kỳ mạn lục là sự phản ánh mâu thuẫn giữa con người nghệ sĩ và con người
Nho gia trong Nguyễn Dữ như hai tác giả trên mà phỏng đoán rằng đó là một thủ pháp để tác
phẩm được lưu truyền và không bị mai một. Phạm Tú Châu khẳng định sự mâu thuẫn đó cho
thấy người viết lời bình không có cùng trình độ với Nguyễn Dữ [17].
Có thể thấy, ở những mức độ khác nhau, các nhà nghiên cứu đi trước đã chỉ ra sự đồng
nhất và không đồng nhất giữa hai phần này cũng như lý giải sự không đồng nhất ấy. Đó là những
gợi dẫn quan trọng để chúng tôi đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa phần chính văn và phần lời

bình trong Truyền kỳ mạn lục.
3. Mục đích nghiên cứu
Tiến hành tìm hiểu mối quan hệ giữa chính văn và lời bình trong Truyền kỳ mạn lục, chúng
tôi sẽ làm rõ hơn vai trò của phần lời bình đối với tác phẩm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn của chúng tôi chỉ dừng lại ở việc khảo sát mối quan hệ giữa phần chính văn và
phần lời bình trong Truyền kỳ mạn lục chứ không đi vào tìm hiểu toàn bộ các vấn đề của tác
phẩm.
Chúng tôi lựa chọn bản Truyền kỳ mạn lục do Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, NXB Trẻ NXB Hồng Bàng, Tp. HCM xuất bản năm 2013 làm văn bản nghiên cứu chính, có tham khảo
các bản dịch Quốc ngữ Truyền kỳ mạn lục của một số tác giả khác đã được Nguyễn Nam tập hợp


trong công trình Phiên dịch học lịch sử - văn hóa trường hợp Truyền kỳ mạn lục [64] và bản
Truyền kỳ mạn lục giải âm tương truyền do Nguyễn Thế Nghi dịch từ nguyên tác chữ Hán sang
văn Nôm, Nguyễn Quang Hồng phiên âm sang chữ Quốc ngữ [2], đồng thời đối chiếu với
nguyên tác Hán văn ở các bản in và chép tay Truyền kỳ mạn lục hiện có trong nước.
Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành khảo sát các tác phẩm văn học trung đại Việt Nam được
in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam [5] và Tổng tập văn học Việt Nam [7] mà chúng
tôi xét thấy là cần thiết để giải quyết những mục tiêu của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử - xã hội, phương pháp tiếp cận văn
hoá học cùng các thao tác phân tích, so sánh, thống kê.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: chúng tôi sẽ đặt Truyền kỳ mạn lục trong bối cảnh thời đại
của Nguyễn Dữ để tìm hiểu sự ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội tới tư tưởng của tác giả.
- Phương pháp tiếp cận văn hoá học: Những vấn đề mà chính văn và lời bình của Truyền kỳ
mạn lục đề cập đến cũng như hoạt động phê bình văn học thời trung đại sẽ được nhìn nhận trong
môi trường văn hoá thời kỳ này (liên quan đến các vấn đề tư tưởng, văn hoá chính trị, thị hiếu
độc giả…)
- Thao tác phân tích: Là thao tác chính để làm rõ mối quan hệ giữa phần chính văn và phần
lời bình ở Truyền kỳ mạn lục.

- Thao tác so sánh: không chỉ được sử dụng để tìm ra sự tương đồng hay không tương đồng
về khuynh hướng tư tưởng của phần chính văn và phần lời bình, việc so sánh còn góp phần làm
rõ hơn sự khác nhau giữa phê bình văn học Việt Nam và phê bình văn học Trung Quốc thời
trung đại, giữa phê bình văn học trung đại và phê bình văn học hiện đại…
- Thao tác thống kê: thao tác này giúp cho việc chỉ ra có bao nhiêu truyện trong Truyền kỳ
mạn lục có sự thống nhất giữa hai bộ phận và ngược lại.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Nếu được thực hiện tốt, luận văn của chúng tôi sẽ góp phần làm rõ hơn mối quan hệ giữa
phần chính văn và phần lời bình trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục – vấn đề đã được nhiều nhà
nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa thực sự quan tâm tìm hiểu. Luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học ngành Ngữ văn và những người quan tâm
tới Truyền kỳ mạn lục nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung.


7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung của luận văn bao gồm ba chương, cụ
thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung
Trong chương này, chúng tôi sẽ phác hoạ diện mạo của phê bình văn học Việt Nam thời
trung đại và đặc điểm của tiểu thuyết và truyền kỳ nhìn từ phương diện những cá thể nằm ngoài
hệ thống thể loại văn học chính thống. Các vấn đề này đều có liên quan tới Truyền kỳ mạn lục
của Nguyễn Dữ và hệ thống lời bình ở tác phẩm này.
Chương 2: Mố i quan hê ̣ giữa lời bình và chính văn trong tác phẩm Truyền kỳ mạn lục
Đối chiếu khuynh hướng xây dựng nhân vật, cách giải quyết vấn đề, nội dung tư tưởng… ở
phần chính văn và cách đánh giá, nhận xét ở lời bình trong Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi phân
chia 19 truyê ̣n trong Truyề n kỳ mạn lục thành hai nhóm : Nhóm tác phẩm có phần phần lời bình
thố ng nhấ t với phầ n chính văn và nhóm tác phẩ m có sự mâu thuẫn giữa

hai bô ̣ phâ ̣n này . Song


song với viê ̣c phân tích, đánh giá lời bình và chính văn trong Truyề n kỳ mạn lục, chúng tôi sẽ liên
hệ, so sánh với một số tác phẩm văn học ra đời trước và sau đó như Việt điện u linh tập (Lý Tế
Xuyên), Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp), Thánh Tông di thảo (tương truyền của Lê Thánh
Tông), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Vân nang tiểu sử (Phạm Đình Dục), Nam thiên trân dị
tập (Vũ Xuân Tiên), Dã sử (Khuyết danh)… và những tác phẩ m nước ngoài mà chúng tôi thấ y là
cầ n thiế t để giải quyế t các mu ̣c tiêu đă ̣t ra.
Chương 3: Vai trò của lời bình trong Truyền kỳ mạn lục
Chúng tôi sẽ đưa ra một số khả năng , ngõ hầu có thể làm rõ hơn nguyên nhân của sự mâu
thuẫn giữa hai bô ̣ phâ ̣n này và xác đị nh vai trò thực chất của những lời bình trong Truyền kỳ mạn
lục. Những khả năng đó đều liên quan mật thiết đến việc ai là tác giả của các lời bình, do đó,
chúng tôi sẽ triển khai theo hai hướng: Vai trò của các lời bình nếu Nguyễn Dữ là người viết ra
chúng và ngược lại.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.
Tác phẩm
1.
Cù Hựu, Nguyễn Dữ (1999), Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục, NXB Văn
học – Trung tâm Văn hoá và Ngôn ngữ Đông Tây, H.
2.
Nguyễn Dữ (2001), Truyền kỳ mạn lục giải âm, Nguyễn Thế Nghi dịch từ nguyên
tác chữ Hán sang văn Nôm, Nguyễn Quang Hồng phiên âm và chú giải, NXB Khoa học xã hội,
H.
3.
Nguyễn Dữ (2013), Truyền kỳ mạn lục, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, NXB Trẻ NXB Hồng Bàng, Tp. HCM.
4.
Kim Thời Tập (2004), Kim Ngao tân thoại, Toàn Huệ Khanh – Lý Xuân Chung
dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
5.

Trần Nghĩa chủ biên (1997), Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam (4 tập), NXB
Thế giới, H.
6.
Trần Thế Pháp (2013), Lĩnh Nam chích quái, Vũ Quỳnh – Kiều Phú nhuận chính,
Đinh Gia Khánh – Nguyễn Ngọc San phiên dịch, NXB Trẻ - NXB Hồng Bàng, Tp. HCM.
7.
Bùi Duy Tân chủ biên (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 6, NXB Khoa học
xã hội, H.
8.
Thi Nại Am (2011), Thuỷ hử (2 tập), Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, NXB Văn học,
H.
9.
Vũ Trinh (2013), Lan Trì kiến văn lục, Hoàng Văn Lâu dịch, NXB Hồng Bàng,
Gia Lai.
10.
Tư Mã Thiên (2010), Sử ký, Phan Ngọc dịch, NXB Thời đại, H.
11.
Lý Tế Xuyên (2012), Việt điện u linh, Trịnh Đình Rư dịch, Đinh Gia Khánh hiệu
đính, NXB Hồng Bàng, Gia Lai.
12.
13.
hiệu R.109.

阮璵,傳奇傳錄, Bản chép tay, Thư viện Quốc gia, ký hiệu R.1624.
阮嶼,傳奇漫錄, Bản in năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763), Thư viện Quốc gia, ký

14.
阮嶼,傳奇漫錄, Bản in năm Cảnh Hưng thứ 35 (1774), Thư viện Viện Văn học,
ký hiệu HN 257 – 258.
B.

Bài viết, công trình nghiên cứu
15.
Trần Thị An (2003), Quan niệm về thần và việc văn bản hoá truyền thuyết trong
truyện văn xuôi trung đại, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 35-44.
16.
Nguyễn Thị Lam Anh (2013), Thể loại tự sự trong văn học cổ điển Trung Quốc,
Nhật Bản và Việt Nam qua khái niệm “tiểu thuyết”, “vật ngữ/monogatari”, “truyện”, Văn học
Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh Đông Á, Đoàn Lê Giang, Nhật Chiêu, Trần Thị Phương
Phương tuyển chọn, NXB Văn hoá – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM, tr. 318-333.
17.
Phạm Tú Châu (1987), Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ
mạn lục, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 71-78.
18.
Phạm Tú Châu (1999), Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt
Nam, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr. 38-45.


19.
Nguyễn Huệ Chi (2013), Tìm hiểu các dạng truyện kỳ ảo trong văn học trung đại
và cận đại Đông Tây, Văn học cổ cận đại Việt Nam từ góc nhìn văn hoá đến các mã nghệ thuật,
NXB Giáo dục Việt Nam, H, tr. 1096-1116.
20.
Ngô Thì Chí (1981), Bình bài phú Mộng Thiên Thai, Phạm Thị Tú dịch, Tạp chí
Văn học, số 6, tr. 132-133.
21.
Chung Vinh (2007), Thi phẩm tập bình, Nguyễn Đình Phức – Lê Quang Trường
tuyển dịch, NXB Văn nghệ, Tp. HCM.
22.
Phạm Nguyễn Du (1981), Đề tựa tập Tây Hỗ mạn hứng của Ninh Hy Chí, Đỗ Văn
Hỷ dịch, Tạp chí Văn học, số 5, tr. 152, 159.

23.
Trương Đăng Dung, Những giới hạn của phê bình văn học,
/>Cập nhật ngày 16/04/2012.
24.
Trương Đăng Dung, Những giới hạn của cộng đồng diễn giải,
/>Cập nhật ngày 15/04/2012.
25.
Lê Đạt (1996), Nhân Thánh Thán bình thơ Đường, Tạp chí Thơ, số 8, tr. 6-16.
26.
Trịnh Bá Đĩnh chủ biên (2013), Lịch sử lý luận, phê bình văn học Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, H.
27.
Lê Quý Đôn (2007), Kiến văn tiểu lục, Phạm Trọng Điềm phiên dịch và chú thích,
NXB Văn hóa thông tin, H.
28.
Đoàn Lê Giang (2009), Bài tựa Vũ nguyệt vật ngữ và lời nguyền về hư cấu của
tiểu thuyết, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9, tr. 109-111.
29.
Đoàn Lê Giang (2010), Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda Akinari và Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1, tr. 41-55.
30.
Golưgina, K.I. (2004), Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Trương Văn Vỹ
và Nguyễn Nam dịch, Tạp chí Hán Nôm, số 3, tr. 20-33.
31.
Gurevich, A.Ja. (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch,
NXB Giáo dục, H.
32.
Vũ Tố Hảo (1978), Một vài nghi vấn về bản Truyền kỳ mạn lục hiện đang lưu
hành, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 139-142.
33.

Lại Văn Hùng (2002), Bàn thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kỳ mạn lục,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 10, tr. 49-60.
34.
Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, H.
35.
Nguyễn Phạm Hùng, Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác
Truyền kỳ mạn lục,
/>Cập nhật ngày 7/11/2010.
36.
Phạm Văn Hưng (2013), Lược khảo các vụ án văn chương ở Việt Nam thế kỉ X –
XIX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
37.
Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Giáo
dục, H.
38.
Trần Đình Hượu tuyển tập tập 1 (2007), Trần Ngọc Vương giới thiệu và tuyển
chọn, NXB Giáo dục, H.


39.

Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn chương, Tập 1, NXB Khoa học xã hội,

H.
40.
Jeon Hye Kyung (2005), Nghiên cứu so sánh tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc –
Trung Quốc – Việt Nam thông qua Kim Ngao tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
41.

Jeon Hye Kyung (2006), Ý nghĩa văn học sử của tiểu thuyết truyền kỳ Hàn –
Trung – Việt, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12, tr. 59-74.
42.
Kawamoto Kurivé (1996), Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kỳ mạn
lục (Lịch sử sáng tác, xuất bản và nghiên cứu theo cái nhìn văn học so sánh), Ngân Xuyên dịch,
Tạp chí Văn học, số 6, tr. 57-62.
43.
Đinh Thị Khang (2007), So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma trong Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 4, tr. 62-72.
44.
Đinh Gia Khánh chủ biên (2010), Văn học Việt Nam (thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ
XVIII) (tái bản lần thứ 11), NXB Giáo dục Việt Nam, H.
45.
Vũ Ngọc Khánh (1989), Vài suy nghĩ về truyền thống phê bình trong văn học ta,
Tạp chí Văn học, số 4, tr. 54-61.
46.
Vũ Ngọc Khánh (2001), Truyện thần linh ma quái và vấn đề giáo dục con người,
Tạp chí Văn học, số 10, tr. 21-26.
47.
Khâu Chấn Thanh (1994), Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc (100
điều), Mai Xuân Hải dịch, NXB Giáo dục, H.
48.
Kim Seona (1995), Nhân vật phụ nữ trong thể truyền kỳ qua hai tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục và Truyền kỳ tân phả, Luận văn Thạc sĩ, ĐH KHXH & NV, ĐH Quốc gia Hà Nội.
49.
Konrad, N.I. (2007), Phương Đông học, Trịnh Bá Đĩnh – Trần Đình Hượu – Từ
Thị Loan – Trần Ngọc Vương dịch, NXB Văn học, Tp. HCM.
50.
Ngô Sĩ Liên và các sử quan triều Lê (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, Cao Huy Giu
dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, NXB Văn học, H.

51.
Likhachev, D.X. (2010), Thi pháp văn học Nga cổ, Phan Ngọc dịch, NXB Văn
học, H.
52.
Lisevich, I.S. (1993), Tư tưởng văn học Trung Quốc cổ xưa, Trần Đình Sử dịch,
Trường ĐH Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản, Tp. HCM.
53.
Lê Xuân Lít tuyển chọn (2005), Hai trăm năm nghiên cứu – bàn luận Truyện
Kiều, NXB Giáo dục, H.
54.
Lỗ Tấn (2002), Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc¸ Lương Duy Tâm dịch, Lương
Duy Thứ hiệu đính, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
55.
Phạm Luận (2006), Bàn thêm về cách gọi tên tác giả và tác phẩm Truyền kỳ mạn
lục, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3, tr. 132-136.
56.
Phương Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, NXB Giáo dục, H.
57.
Nguyễn Công Lý, Có phải Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm?,
/>Cập nhật ngày 01/01/2013.
58.
Nguyễn Công Lý, Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan có tham gia phủ
chính, nhuận sắc văn bản Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ không?,
/>

Cập nhật ngày 16/01/2013.
59.
Trịnh Khắc Mạnh (2002), Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, H.
60.

Mao Tôn Cương, Tam Quốc bình giảng, bản ebook.
61.
Đinh Văn Minh (1996), Góp phần tìm hiểu Tân biên Truyền kỳ mạn lục, Tạp chí
Hán Nôm, số 4.
/>62.
Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, NXB
Giáo dục, H.
63.
Nguyễn Nam (2001), Quá trình truyền nhập và lưu hành Tiễn đăng tân thoại ở
Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 5, tr. 65-71.
64.
Nguyễn Nam (2002), Phiên dịch học lịch sử - văn hóa trường hợp Truyền kỳ mạn
lục, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM.
65.
Trần Nghĩa (1970), Góp phần tìm hiểu quan niệm Văn dĩ tải đạo trong văn học cổ
Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 84-102.
66.
Trần Nghĩa (1999), Chỗ khác nhau giữa tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu
thuyết cổ các nước trong khu vực, Tạp chí Hán Nôm, số 3.
67.
Trần Nghĩa (2000), Thử so sánh Truyền kỳ mạn lục với Tiễn đăng tân thoại, Tạp
chí Hán Nôm 100 bài tuyển chọn, Viện nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H, tr. 288-301.
68.
Trần Nghĩa, Từ những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc,
tìm hiểu cách tiếp nhận văn học nước ngoài của ông cha ta,
/>Cập nhật ngày 18/09/2012.
69.
Bùi Văn Nguyên (2001), Nỗi niềm và cố gắng của Vũ Quỳnh khi viết Tân đính
Lĩnh Nam chích quái, Tạp chí Văn học, số 8, tr. 3-5.
70.

Trần Ích Nguyên (2000), Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ
mạn lục, Phạm Tú Châu - Trần Băng Thanh - Nguyễn Thị Ngân dịch, Phạm Tú Châu chỉnh lý và
hiệu đính, NXB Văn học – Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, H.
71.
Trần Ích Nguyên (2009), Nghiên cứu tiểu thuyết Hán văn Trung – Việt, Phạm Tú
Châu – Phạm Ngọc Lan dịch, Phạm Tú Châu chỉnh lý, NXB Khoa học xã hội, H.
72.
Trần Thị Nhung (?), Nhân vật phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục nhìn từ quan điểm
giới, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thái Nguyên.
73.
Nguyễn Đình Phức, Tiếp nhận Tiễn đăng tân thoại ở Hàn Quốc,
/>=64%3Avn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-sanh&Itemid=108&lang=vi
Cập nhật ngày 14/08/2013.
74.
Riftin, B.L. (1974), Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ phương
Đông theo phương pháp loại hình, Lê Sơn dịch, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 107-123.
75.
Riftin, B.L. (1984), Hoàng Lê nhất thống chí và truyền thống của tiểu thuyết Viễn
Đông, Chu Nga dịch, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 31-41.
76.
Riftin, B.L. (2006), Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc)
với Kim Ngao tân thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên) và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ
(Việt Nam) và Cà Tỳ Tử của Asai Rey (Nhật Bản), Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12, tr. 46-58.


77.
Riftin, B.L. (2007), Thể loại trong văn học Trung Quốc thời trung đại, Trần Nho
Thìn dịch, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 11, tr. 24-54.
78.
Riftin, B.L. (2012), Văn xuôi cổ điển Viễn Đông, Trần Thị Phương Phương dịch,

Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 11, tr. 66-81.
79.
Riftin, B.L. (2012), Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết cổ điển Việt Nam,
Phạm Tú Châu dịch, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 11, tr. 82-99.
80.
Salmon, Claudine biên soạn (2004), Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu
Á (Từ thế kỷ XVII – thế kỷ XX), Trần Hải Yến dịch, NXB Khoa học xã hội, H.
81.
Sở nghiên cứu văn học (Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc) (1993), Lịch sử văn
học Trung Quốc (3 tập), NXB Giáo dục, H.
82.
Nguyễn Hữu Sơn (1990), Khảo sát cái nhìn đạo đức trong văn học cổ điển dân
tộc, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 60-65.
83.
Nguyễn Hữu Sơn (2001), Thiền uyển tập anh – tác phẩm mở đầu loại hình văn
xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, Tạp chí Văn học, số 8, tr. 59-63.
84.
Nguyễn Hữu Sơn (2010), Tương đồng mô hình cốt truyện dân gian và những sáng
tạo trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1, tr. 30-40.
85.
Trần Đình Sử (2001), Tư tưởng tự do trong truyền thống văn học cổ Việt Nam,
Tạp chí Văn học, số 1, tr. 17-22.
86.
Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc
gia, H.
87.
Trần Đình Sử, Phê bình kiểm dịch,
/>Cập nhật ngày 17/07/2013.
88.
Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia – tác phẩm văn học trung đại

Việt Nam (Tập 1), NXB Giáo dục, H.
89.
Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, H.
90.
Lê Thời Tân (2009), La Quán Trung, Mao Tôn Cương và diễn biến của sách Tam
quốc, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ, văn hoá Việt Nam – Trung
Quốc ở Đông Á và Đông Nam Á”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
91.
Lê Thời Tân, “Tứ đại kỳ thư” của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc: tên gọi – văn
bản – tác giả,
/>Cập nhật ngày 22/09/2013.
92.
Lê Văn Tấn, Nguyễn Dữ và 19 lời bình trong Truyền kỳ mạn lục,
/>Cập nhật ngày 05/01/2010.
93.
Nguyễn Minh Tấn chủ biên (1981), Từ trong di sản…, NXB Tác phẩm mới – Hội
Nhà văn Việt Nam, H.
94.
Phạm Xuân Thạch (2012), Khuynh hướng xã hội luận về văn chương ở Việt Nam
trước năm 1945, trường hợp Hoài Thanh và Trương Tửu, Đề tài khoa học mã số CS – 2010 – 16
của trường ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội.
95.
Trần Thị Băng Thanh (1989), Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong dòng truyện
truyền kỳ Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 4, tr. 28-32.


96.
Trần Thị Băng Thanh (1999), Những nghĩ suy từ văn học trung đại, NXB Khoa
học xã hội, H.

97.
Trần Thị Băng Thanh (2006), Lời phẩm bình Đoạn trường tân thanh của Vũ
Trinh và Nguyễn Lượng, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3, tr. 61-69.
98.
Vũ Thanh (1994), Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trong truyện ngắn truyền
kỳ Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 25-30.
99.
Vũ Thanh, Màu sắc kỳ ảo trong văn học thời Lý,
/>%BFng-v%E1%BB%8Dng-th%E1%BB%9Di-gian-qua-ba-b%C3%A0ith%C6%A1m%C3%A0u-t%C3%ADm-hoa-sim-n%C3%BAi-%C4%91%C3%B4i-v%C3%A0qu%C3%AA-h%C6%B0%C6%A1ng
Cập nhật ngày 26/10/2010.
100.
Phạm Văn Thắm (1996), Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kỳ viết
bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung đại, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm.
101.
Trần Nho Thìn (1981), Một vài vấn đề đặt ra xung quanh việc phân loại thư tịch
của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, Tạp chí Văn học, số 4, tr. 14-23.
102.
Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, NXB
Giáo dục, H.
103.
Đỗ Lai Thuý (2011), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy (Tư tưởng phê bình
văn học Việt Nam, một cái nhìn lịch sử), NXB Hội Nhà văn & Công ty Văn hoá & Truyền thông
Nhã Nam, H.
104.
Đỗ Lai Thuý, Đặc điểm phê bình văn học Việt Nam – nhìn từ góc độ tiếp nhận,
/>Cập nhật ngày 16/10/2012.
105.
Đàm Anh Thư (2013), Hành trình tìm kiếm “nhân sinh chi khoái lạc” và sự trỗi
dậy của khát vọng sống trong phú Nôm thời trung đại, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 1, tr. 7484.

106.
Toàn Huệ Khanh (2005), Nghiên cứu so sánh một tiểu thuyết truyền kỳ trong Kim
ngao tân thoại (của Kim Thời Tập, Hàn Quốc), Truyền kỳ mạn lục (của Nguyễn Dữ, Việt Nam)
và Tiễn đăng tân thoại (của Cù Hựu, Trung Quốc), Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 2, tr. 95-104.
107.
Trần Thị Việt Trung (1994), Quá trình hình thành và phát triển của phê bình văn
học Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX đến năm 1945, Luận án Tiến sĩ, ĐH Sư phạm Hà Nội I.
108. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), Cái “kì” trong tiểu thuyết truyền kì, Tạp chí Văn học,
số 10, tr. 48-53.
109.
Viên Hành Bái (chủ biên), Trung Quốc văn học sử, bản dịch của tập thể cán bộ
khoa Văn học – Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐH Quốc gia Hà Nội, Tài liệu lưu
hành nội bộ.
110.
Trần Ngọc Vương (1999), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
111.
Trần Ngọc Vương (1998), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung,
NXB Giáo dục, H.


112.
Trần Ngọc Vương chủ biên (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX, những vấn
đề lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục, H.
113.
Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, NXB Tri thức,
H.
114.
Xia Lu [Hạ Lộ] (2013), Sự tiếp nhận quan niệm sáng tác từ tiểu thuyết Minh –
Thanh và những đặc sắc riêng của tiểu thuyết Hán văn Việt Nam, Văn học Việt Nam và Nhật Bản

trong bối cảnh Đông Á, Đoàn Lê Giang, Nhật Chiêu, Trần Thị Phương Phương tuyển chọn,
NXB Văn hoá – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM, tr.362-383.
115.
Tình sử Vương Thuý Kiều (2000), Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học, H.
116.
Chuyên đề văn học kỳ ảo, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8/2006.
117.
Nhiều tác giả (2010), 10 thế kỉ bàn luận về văn chương (Từ thế kỉ X đến nửa đầu
thế kỉ XX) (Tập 1), NXB Giáo dục, H.
118.
Nhiều tác giả (2010), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB
Giáo dục Việt Nam, H.



×