Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Nângcao năng lực thực hành pháp luật cho học sinh THPTtrong dạy học phần “Công dân với pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (562.71 KB, 120 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc với Đảng ủy, Ban chủ
nhiệm khoa Lí luận chính trị - Giáo dục công dân, Phòng Sau Đại học -trường
ĐHSP Hà Nội đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em được thực hiện đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo PGS -TS Phạm Văn Hùng đã tận
tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, các giảng viên, các nhà
khoa học khoa Lí luận chính trị - Giáo dục công dân trường ĐHSP Hà Nội đã
giáo dục, giảng dạy, cung cấp tri thức cho em trong suốt quá trình học tập và
rèn luyện tại khoa.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, các bạn bè, đồng nghiệp, Ban giám
hiệu nhà trường, các giáo viên bộ môn Giáo dục công dân và các thế hệ học
sinh trường THPT Tô Hiệu - Thành phố Hải Phòng đã động viên, giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tôi trong suốt quá trình công tác và thực hiện đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Sao

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
CNXH
GDCD
GV
HS
PP
PPDH


PL
SGK
ĐH
GD

2

Viết đầy đủ
: Chủ nghĩa xã hội
: Giáo dục công dân
: Giáo viên
: Học sinh
: Phương pháp
: Phương pháp dạy học
: Pháp luật
: Sách giáo khoa
: Đại học
: Giáo dục


MỤC LỤC

3


DANH MỤC BẢNG

4



DANH MỤC BIỂU ĐỒ

5


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặt ở nhiệm vụ
chiến lược hàng đầu của chiến lược phát triển quốc gia. Quan điểm “Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”,“đổi mới toàn diện nền giáo dục” liên
tục được Đảng ta nhấn mạnh qua các kì đại hội từ sau Hội nghị Trung ương 2
khóa VIII đến nay. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng ta khẳng
định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho
giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo
yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc
tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [19, 71]
Và tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI Đảng ban hành nghị quyết (nghị
quyết số 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục) trong đó nêu rõ mục tiêu
cụ thể cho giáo dục nước ta: “Đối với giáo dục đào tạo tập trung phát triển
trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất năng lực công dân, phát hiện và bồi
dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lí tưởng truyền thống, truyền

thống đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kĩ năng thực hành,
vận dụng kiến thức vào thực tiễn”
Không chỉ có vậy, tại điều 28.2 Luật giáo dục Việt Nam 2005 (được sửa
đổi bổ sung năm 2009) quy định: “Phương pháp dạy học phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng
6


phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, niềm
hứng thú cho học sinh.”
Như vậy, trước đòi hỏi của thực tiễn đất nước đang trên con đường hội
nhập và phát triển thì giáo dục và đào tạo cần phải đổi mới toàn diện. Trong
đó yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, bồi
dưỡng năng lực thực hành cho học sinh là điều kiện tiên quyết.
Để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đó, đã có nhiều giáo viên đổi
mới cách dạy, tích cực áp dụng nhiều phương pháp nhằm hướng đến năng lực
thực hành cho học sinh song còn hạn chế và kết quả mang lại chưa được như
mong muốn. Qua thực tế cho thấy việc áp dụng các phương pháp dạy học
nhằm nâng cao năng lực thực hành cho học sinh trung học phổ thông trong
dạy học môn Giáo dục công dân còn nhiều khó khăn và những hạn chế cần
được khắc phục. Trong khi đó qua tri thức phần “Công dân với pháp luật”
môn Giáo dục công dân nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản
về pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó thực sự rất
hữu ích cho thế hệ trẻ Việt Nam, giúp họ hiểu biết và vận dụng các tri thức
pháp luật vào cuộc sống.
Nhưng một thực tế đáng buồn là tình trạng vi phạm pháp luật ngày
càng tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Trong đó, một số lượng
không nhỏ các vụ vi phạm pháp luật do học sinh, đặc biệt là ở cấp THPT gây
ra. Chúng ta có thể thấy được tình trạng đạo đức, lối sống của một bộ phận

học sinh THPT hiện nay có nhiều bất ổn, từ thái độ học tập, ý thức chấp hành
nội quy, kỷ luật của nhà trường, chấp hành pháp luật đến những hành vi tiêu
cực trong học tập, thi cử của học sinh và sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội
vào học đường.
Tình hình vi phạm pháp luật của học sinh THPT ở thành phố Hải
Phòng và trường THPT Tô Hiệu cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ,
7


hơn nữa lại đang có chiều hướng gia tăng với mức độ và tính chất nguy hiểm.
Thực trạng trên đây đã và đang gây khó khăn cho hoạt động của nhà trường
và đặc biệt là tạo ra những dư luận rất bức xúc trong nhân dân, làm suy giảm
lòng tin của nhân dân với hiệu lực quản lí của nhà trường. Thực tế cho thấy,
một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật của học
sinh là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật và năng lực thực hành
pháp luật còn rất hạn chế trước những tình huống mà thực tiễn sinh động đang
đặt ra.
Do vậy, từ những vấn đề có tính cấp thiết nêu trên cùng với mong
muốn đóng góp một phần sức lực nhỏ bé vào công tác giáo dục pháp luật cho
học sinh, tôi đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực thực hành pháp luật
cho học sinh THPT trong dạy học phần “Công dân với pháp luật” làm đề
tài luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Việc dạy học nhằm nâng cao năng lực vận dụng tri thức để giải quyết
vấn đề thực tiễn một cách linh hoạt và sáng tạo của học sinh được xem như là
nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong dạy
học.Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết của
nhiều tác giả nói về vấn đề này.
Đại danh hào Gớt từng nói: “Lí thuyết chỉ là màu xám, còn cây đời mãi
mãi xanh tươi”.

Chủ nghĩa Mác- Lênin chỉ ra nguyên tắc phải thống nhất giữa lí luận và
thực tiễn để chống lại bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Trong C.MácĂngghen tuyển tập tập 2, Nhà xuất bản Sự thật trang 491, Mác viết “Vấn đề
tìm hiểu tư duy của con người thể đạt tới chân lí khách quan hay không,
không phải là một vấn đề lí luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực
tiễn mà con người phải chứng minh chân lí” [10, 491]

8


Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong nhận
thức khoa học và hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Thống
nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa MácLênin.Thực tiễn không có lí luận dẫn đường thì thành thực tiễn mù quáng. Lí
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lí luận suông.” [25,496]
Từ các quan điểm nêu trên đặt ra yêu cầu: Việc nhận thức phải xuất
phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Khi nghiên
cứu lí luận phải liên hệ với thực tiễn; học phải đi đôi với hành; lí thuyết gắn
với thực tiễn; nhà trường gắn liền với xã hội. Yêu cầu dạy học nhằm nâng cao
năng lực thực hành cho học sinh chính là vấn đề quan trọng của lí luận dạy
học ngày nay.
Nhìn chung, các tài liệu giáo dục học trong và ngoài nước đề cập đến
vấn đề thực hành của học sinh trong dạy học nói chung dưới nhiều góc độ
khác nhau:
T.A.Ilina - Nhà giáo dục học Xô viết trong cuốn “Giáo dục học” tập II,
Nhà xuất bản giáo dục 1973 xem công tác thực hành của học sinh như một
phương pháp dạy học. Ví dụ phương pháp làm việc với sách giáo khoa,
phương pháp học tập ở phòng thí nghiệm, thực nghiệm, phương pháp luyện
tập ôn tập…
Geoffrey Petty nhà khoa học nước Anh tác giả cuốn “Dạy học ngày
nay”, Nhà xuất bản Stanley Thones năm 1998 (lần 2) cho rằng: “Phần lớn kỹ
năng và kĩ năng của chúng ta thể hiện ở chỗ hướng dẫn học sinh thực hành, vì

thế đây là phương pháp giảng dạy bắt buộc. Nó tạo cơ hội cho học sinh tự
hình thành kỹ năng, còn giáo viên lại có ngay thông tin phản hồi, qua đó phát
hiện được là học sinh đã nắm được bài hay chưa, và tài liệu dạy và học có cần
cải tiến gì không…Thực hành có hướng dẫn khiến cho học sinh làm việc tích
cực hơn bất kì phương pháp nào khác…” [27,180]

9


Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt -Viện khoa học giáo dục trong cuốn
“Giáo dục học” tập I, nhà xuất bản giáo dục 1987 nhấn mạnh: Trong dạy học
nhất định phải gắn tri thức học sinh đã học với thực tiễn bằng những hoạt
động cụ thể, có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lí luận với
thực tiễn, một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học.
Theo các tác giả Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga giảng viên trường
ĐHSP Hà Nội trong cuốn “Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông” cho rằng: Những tri thức của môn Giáo dục công
dân rất gắn bó với đời sống con người xã hội. Vì thế, giáo viên cần giúp cho
học sinh biết vận dụng lí luận để giải quyết những vấn đề thực tế liên quan
đến cuộc sống của bản thân, của gia đình học sinh, của địa phương và của đất
nước, con người Việt Nam.
Như vậy lí luận về dạy học hướng tới năng lực thực hành cho học sinh
đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Vấn đề này đặc biệt
quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học ngày nay nói chung và
dạy học môn GDCD nói riêng. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng hơn
khi môn GDCD ở trường THPT có nhiều nội dung giáo dục cần được vận
dụng vào thực tiễn nhất là phần “Công dân với pháp luật”. Bởi vì giáo dục
pháp luật đã trở thành vấn đề cấp thiết ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lí quan tâm. Nhiều
công trình đã được công bố như: “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn giáo dục

pháp luật trong công cuộc đổi mới”, của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lí,
Bộ tư pháp, Hà Nội,1995; “ Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp - hình
thức đặc thù của giáo dục pháp luật”, Luận án Tiến sĩ của Dương Thanh Mai,
1996; “Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng và
giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; “ Một số vấn đề về
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay của Vụ Phổ biến giáo dục pháp
luật, Bộ Tư pháp, nhà xuất bản Thanh Niên, 1997; “Giáo dục ý thức pháp luật

10


cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Thủy, 2008.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền dân chủ XHCN, các
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI luôn nhấn
mạnh phải tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao ý thức pháp luật cho học
sinh, sinh viên, thực hiện mục tiêu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật”. Cho đến nay một số công trình nghiên cứu đã cung cấp cho khoa học
nhiều tư liệu quý về ý thức pháp luật. Nhìn chung các công trình nói trên đã
nêu ra nhiều vấn đề cơ bản cả về lí luận và thức tiễn trong hoạt động giáo dục
pháp luật. Tuy nhiên, xét trong phạm vi các trường THPT và trung tâm giáo
dục thường xuyên trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo - thành phố Hải Phòng và
trường THPT Tô Hiệu, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng nâng
cao năng lực thực hành pháp luật trong dạy học môn GDCD chưa một tác giả
nào đề cập, nghiên cứu tới. Nếu có thì chỉ là những sáng kiến kinh nghiệm
nhỏ lẻ còn nghiên cứu một cách tổng thể thì chưa có tác giả nào.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu, ứng dụng một số biện pháp sư phạm và điều kiện nâng cao
năng lực thực hành pháp luật nhằm bổ sung, hướng tới hoàn thiện việc dạy
học pháp luật trong môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” trên địa bàn

huyện Vĩnh Bảo - thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số biện pháp sư phạm và điều kiện dạy học nhằm
nâng cao năng lực thực hành pháp luật của học sinh trong dạy học phần “Công
dân với pháp luật” ở trường THPT Tô Hiệu - Thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

11


Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài tác giả chỉ nghiên cứu một số biện
pháp và điều kiện nhằm nâng cao năng lực thực hành cho học sinh trong phần
“Công dân với pháp luật” ở trường THPT Tô Hiệu -Thành phố Hải Phòng.
5. Những luận điểm cơ bản và những đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
Đề tài làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực thực
hành pháp luật trong dạy học môn GDCD.
Khẳng định vai trò của việc nâng cao năng lực thực hành pháp luật đối
với việc phát huy khả năng vận dụng tri thức để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của học sinh THPT.
Vạch ra quy trình vận dụng một số biện pháp sư phạm và điều kiện
nâng cao năng lực thực hành pháp luật cho học sinh, thông qua đó góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường.
5.2. Những đóng góp mới của tác giả.
Đề tài góp phần nhấn mạnh đến việc tổng hợp các phương pháp và điều
kiện dạy học môn GDCD đối với việc phát huy khả năng chủ động chiếm lĩnh
kiến thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn một cách linh hoạt và sáng tạo.
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc vận dụng thành công
nhiều phương pháp dạy học tích cực và phát huy các điều kiện phục vụ cho

quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Qua đó tạo động lực
khích lệ các giáo viên trên con đường đổi mới phương pháp dạy học thật hiệu
quả.
Ngoài ra, đề tài sẽ là một tài liệu nhằm bổ sung, đóng góp vào lí luận và
phương pháp dạy học bộ môn GDCD nói chung cũng như dạy học phần
“Công dân với pháp luật” nói riêng cho các trường THPT.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác - Lênin, những chủ trương
12


đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các công trình khoa học, đề tài
nghiên cứu trong và ngoài nước.
Luận văn sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận: đọc tài liệu,
phân tích tổng hợp hệ thống hóa, so sánh phân loại tài liệu, giáo trình, công
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
Luận văn sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn quan sát,
điều tra, phỏng vấn, trò chuyện, thống kê số liệu, thực nghiệm sư phạm và các
phương pháp hỗ trợ khác.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,phụ lục luận
văn gồm ba chương và 7 tiết

13


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC
THỰC HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THPT

TRONG DẠY HỌC PHẦN “CÔNG DÂN VỚI PHÁP LUẬT”
Ở TRƯỜNG THPT TÔ HIỆU - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Cơ sở lí luận của việc nâng cao năng lực thực hành pháp luật
cho học sinh THPT trong dạy học phần “Công dân với pháp luật”
1.1.1. Quan niệm về năng lực, năng lực thực hành, năng lực thực
hành pháp luật và nâng cao năng lực thực hành pháp luật
* Quan niệm về năng lực
Năng lực hiểu theo nghĩa tiếng Anh (Ability) là những khả năng, năng
khiếu mà con người vốn có để có thể thực hiện tốt đẹp một công việc nào đó.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Năng lực
“1.Là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện
một hoạt động nào đó.
2. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành
một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.” [28, 639]
.

Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu nhiều nghĩa khác nhau. Năng lực

được hiểu như sự thành thạo, khả năng thực hiện của cá nhân đối với một
công việc. Khái niệm năng lực được dùng ở đây là đối tượng của tâm lý, giáo
dục học. Có nhiều định nghĩa khác nhau về năng lực. Năng lực là một thuộc
tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm.
Khái niệm năng lực gắn liền với khả năng hành động. Năng lực hành
động là một loại năng lực, nhưng khi nói phát triển năng lực người ta cũng
hiểu đồng thời là phát triển năng lực hành động. Chính vì vậy trong lĩnh vực
sư phạm, năng lực còn được hiểu là: khả năng thực hiện có trách nhiệm và
hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình
huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ


14


sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành
động.
Các nhà tâm lí học cũng cho năng lực là những thuộc tính tâm lí riêng
lẻ của cá nhân. Nhờ những thuộc tính này mà con người hoàn thành tốt đẹp
một công việc nào đó, mặc dù phải bỏ ra ít sức lao động nhưng vẫn đạt kết
quả cao. Nghiên cứu sâu hơn vấn đề này, họ cũng khẳng định: Năng lực
không phải là cái có sẵn, mang tính bẩm sinh mà chỉ có những tư chất của
năng lực, vốn là một trong những đặc điểm giải phẫu sinh lí của não và hệ
thần kinh mới có tính bẩm sinh. Những tư chất này sẽ dần dần được hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động. Hoạt động chính là cơ sở, là
điều kiện cần thiết cho sự hình thành và phát triển năng lực.
Như vậy có thể hiểu: Năng lực là khả năng vốn có mà thông qua
hoạt động con người có thể hoàn thành một loại hoạt động nào đó với
chất lượng cao.
Kết quả của hành động là thước đo sự phát triển của năng lực, biểu hiện
ở khối lượng kiến thức thu nhận được, khả năng hình thành các kĩ năng, kĩ
sảo của chủ thể. Quá trình nắm vững kĩ năng của học sinh thường được bắt
đầu bằng việc chính học sinh phải tự thực hiện tất cả các công việc dưới sự
hướng dẫn, kiểm tra của giáo viên. Các thao tác của hành động được tiến
hành từ sự bắt chước đến làm quen dần. Nắm vững kĩ năng là cơ sở hình
thành kĩ sảo cho phép hoạt động tiến dần tới sự tự động hóa, làm cho một số
thao tác riêng lẻ bị mất đi, rút ngắn thời gian nhưng công việc tiến hành
nhanh, đạt kết quả cao.
Từ sự phân tích khái niệm năng lực ở trên chúng ta có thể thấy muốn
nâng cao năng lực thực hành pháp luật cho học sinh cần phải cho các em được
tham gia một cách tích cực vào hoạt động học tập pháp luật. Từ việc nắm
vững các tri thức về pháp luật các em mới có thể vận dụng các tri thức đó vào

thực tiễn. Vì vậy muốn học sinh có được năng lực thực hành pháp luật tốt

15


giáo viên phải tìm ra các biện pháp sư phạm phù hợp với khả năng của học
sinh trong quá trình dạy học phần “Công dân với pháp luật.”
* Quan niệm về năng lực thực hành
Theo từ điển tiếng Anh, thực hành (pratcise) là công việc thực hiện của
những người có nghề mang tính chuyên nghiệp như luật sư, giáo viên… Ở đây
(pratcise) tương đương với (hành nghề) trong tiếng Việt - ý muốn nhấn mạnh
kỹ năng, kỹ xảo của chủ thể trong những hành động nhất định.
Theo từ điển tiếng Việt thì “thực hành” (nói khái quát): Làm để vận
dụng lí thuyết vào thực tế [28, 940]
Mặc dù cách định nghĩa câu từ có khác nhau nhưng hầu hết các quan
niệm đều cho “thực hành” là một động từ mà ở đó có hai điểm chính cần chú
ý.
- Một là: Thực hành gắn liền với những hành động, hoạt động của con
người được biểu hiện thành những thao tác cụ thể, tác động lên đối tượng lao
động nào đó làm biển đổi chúng theo những mục đích đã định. (Hoạt động
được hiểu ở nghĩa rộng hơn so với hành động, trong hoạt động gồm có nhiều
hành động)
- Hai là: Thực hành là một biểu hiện của việc vận dụng lí thuyết vào
thực tiễn. Đây không phải là một hoạt động mang tính thuần túy của cơ bắp
mà nó đòi hỏi phải có sự tham gia của các hoạt động trí tuệ. Hoạt động trong
thực hành mang tính mục đích rõ rệt đó là kiểm nghiệm, nắm vững và vận
dụng lí thuyết vào thực tiễn.
Bên cạnh đó chúng ta thấy quá trình dạy học là quá trình mà dưới sự
lãnh đạo tổ chức, điều khiển của người giáo viên, học sinh tự lực, chủ động tự
tổ chức, tự điều khiển hoạt động của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ

dạy học. Trong đó nhiệm vụ phát triển năng lực hoạt động trí tuệ và hoạt động
thực hành đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh là hết sức cần
thiết. Năng lực thực hành cần hình thành cho học sinh ở chỗ phát hiện được
vấn đề và biết vận dụng tri thức giải quyết tốt những nhiệm vụ của môn học
do thực tiễn đặt ra.
16


Như vậy dạy học là một khâu khép kín bao gồm hoạt động dạy của giáo
viên và học của học sinh.
Mặc dù được hai chủ thể tiến hành, song hai hoạt động này có chung
một mục đích là làm sao cho quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh thu
được kết quả tốt nhất. Hoạt động học của học sinh cũng giống như các loại
hoạt động khác của con người ở tính mục đích và phương pháp tiến hành cụ
thể, nhưng do đặc thù của quá trình dạy học, mà hoạt động học tập của học
sinh có những đặc điểm riêng biệt.
+ Trước hết, hoạt động học tập của học sinh bao gồm có những hoạt
động mang tính thực hành diễn ra dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên
nhằm thực hiện các nhiệm vụ giáo dục. Giáo viên nắm vai trò tổ chức hướng
dẫn hoạt động học của học sinh. Họ được trang bị những kiến thức cơ bản
nhất về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Và bằng những hiểu biết về đặc
điểm tâm, sinh lí học sinh, căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của từng khóa
trình, từng chương, từng bài mà giáo viên lựa chọn hình thức tác động thích
hợp, kích thích sự ham muốn hăng say học tập. Điều đó nói lên tính định
hướng, tính sư phạm trong các hoạt động nhận thức, phải phát huy tối đa khả
năng suy nghĩ độc lập, sáng tạo, lựa chọn những phương pháp học tập tối ưu
nhất để chiếm lĩnh kiến thức.
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình làm cho chủ thể nhận thức
nắm vững tri thức khoa học.Vì vậy muốn hiểu được bài, học sinh phải có sự
cố gắng, phấn đấu cao, huy động tối đa các thao tác của tư duy. Các hoạt động

học tập của các em gắn liền với sự nỗ lực của trí tuệ mà biểu hiện cao nhất
của sự nỗ lực này là khả năng sáng tạo ra cái mới phù hợp với khả năng hiện
có của các em. Đó là sự khám phá ra những điều mới đối với học sinh dù đó
chỉ là sự khám phá lại những điều loài người đã biết.
Lí luận và thực tiễn dạy học ở trường phổ thông cho thấy có nhiều hình
thức tổ chức dạy học. Các hình thức này thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.

17


Nghiên cứu các hình thức tổ chức dạy học các nhà giáo dục học thấy hiện
tượng dạy học được thể hiện ở 3 dạng sau:
- Dạng cá nhân - chuyên biệt hóa - một dạng hoạt động, trong đó mỗi
học sinh phải độc lập hoàn thành nhiệm vụ học tập theo trình độ, khả năng
riêng không có sự giúp đỡ của bạn bè.
- Dạng nhóm - Hình thức dạy học gồm một số học sinh tập hợp lại
thành nhóm nhỏ. Các học sinh trong nhóm cùng giải quyết những nhiệm vụ
thống nhất theo yêu cầu của giáo viên, của nhiệm vụ dạy học học đặt ra.
- Dạng toàn lớp - trực diện - hệ thống dạy học cùng một lúc một nhóm
học sinh (khoảng vài chục em) do một giáo viên đảm nhận. Nhóm học sinh
này có cấu tạo không đổi, gồm những học sinh cùng một lứa tuổi và mỗi em
đều phải hoàn thành những nhiệm vụ nhận thức chung.
Trong quá trình dạy học cả ba dạng trên đều bộc lộ những ưu, nhược
điểm khác nhau. Ở dạng cá nhân, tính độc lập chiếm ưu thế, khi học sinh phải
tự mình giải quyết, tháo gỡ các khó khăn mà không nhận được sự giúp đỡ của
bạn bè. Cứ như vậy, dần dần hình thành trong học sinh tính kiên nhẫn, tính tự
lập. Trong dạy học, rèn luyện việc độc lập học tập cho học sinh là con đường
phát triển tối ưu của giáo dục ở các cấp.
Ở dạng nhóm, những hoạt động học tập của học sinh thể hiện tính liên
kết chặt chẽ giữa các hành động cụ thể của từng học sinh nhằm thực hiện một

nhiệm vụ nhất định. Hoạt động nhóm giúp học sinh được trao đổi, đàm thoại
với nhau, giúp đỡ hỗ trợ nhau để hoàn thành những công việc được giao và là
cơ hội tốt để các em bộc lộ ý kiến, khả năng của mình. Qua đó các em khác
nghe, đánh giá nhận xét và tự điều chỉnh hành vi của mình.
Dạng toàn lớp - trực diện - là dạng tổ chức dạy học chiếm vị trí chủ đạo
của dạy học ngày nay. Hình thức dạy học toàn lớp đã đáp ứng được những
yêu cầu tốt nhất của giáo dục học và tâm lý học đặt ra. Hình thức dạy học này
tạo cơ hội thuận lợi cho dạy học một cách đồng bộ, đỡ tốn kém, bởi trong
cùng một thời gian có thể đào tạo được một đội ngũ, nhân lực đông đảo phù
hợp với yêu cầu xã hội đặt ra. Một ưu điểm nữa là hình thức dạy học này tạo

18


ra sự ganh đua giữa các học sinh trong cùng một lớp. Chính sự ganh đua này
là cơ sở tạo ra động cơ học tập đúng đắn, kích thích hoạt động nhận thức của
từng học sinh vì nó phù hợp với các yếu tố tâm lý để hình thành các hành
động, hoạt động học tập.
Tính đa dạng của các hình thức tổ chức dạy học đã chi phối đến tính
phong phú của các hành động, hoạt động học tập. Đặc trưng này rất có tác
dụng trong việc gây hứng thú học tập, làm cho bài học trở nên hấp dẫn hơn,
sinh động hơn.
Trong cuộc sống, lao động là hình thức tồn tại của xã hội loài người.
Trong dạy học, hoạt động nhận thức là con đường duy nhất để nắm bắt tri
thức. Hoạt động này được duy trì bằng hàng loạt các hành động khác nhau, là
biểu hiện của phương pháp dạy học - một trong bốn nhân tố cơ bản cấu thành
nên quá trình dạy học (Thầy - trò - nội dung - phương pháp).
Trong lịch sử cũng như hiện tại những người làm chương trình giáo dục
và toàn xã hội rất quan tâm tới việc hình thành, rèn luyện các hành động, hoạt
động học tập của học sinh.

Nhà giáo dục học Xô Viết T.A.Ilina coi việc rèn luyện hành động học
tập của học sinh là loại hoạt động thực tiễn. Đó là một hoạt động bắt buộc ở
mọi giai đoạn của quá trình học tập vì trong nhận thức, tính chân lý của các
kiến thức phải được kiểm tra qua thực tiễn.
Theo đó thì thực hành tồn tại song song với quá trình dạy học như một
nhiệm vụ, một biện pháp để củng cố kiến thức, nâng cao nhận thức. Đồng
thời cũng là biện pháp để gắn lý thuyết vào thực tiễn, khẳng định chân lý của
lý thuyết, tạo niềm tin, hứng thú học tập cho học sinh.
Từ việc phân tích khái niệm năng lực và khái niệm thực hành trên đây
có thể thấy:
Năng lực thực hành là khả năng, điều kiện chủ quan của con người
để áp dụng các kiến thức vào thực tế.
Kết quả của hành động là thước đo cho sự phát triển năng lực biểu
hiện ở khối lượng kiến thức thu nhận, khả năng hình thành các kỹ năng, kỹ
xảo của chủ thể. Trong quá trình dạy học, dưới sự hướng dẫn, kiểm tra của
19


giáo viên học sinh phải tự thực hiện các công việc để nắm vững các kỹ năng
cho mình vì đó là cơ sở để hình thành các kỹ xảo. Càng lặp đi lặp lại các kỹ
năng và củng cố các quan hệ đã được hình thành thì các yếu tố của hành động
càng được mở rộng. Qua đó giúp con người tiến hành các công việc nhanh và
đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, phát triển năng lực thực hành cho học sinh là sự tác động có
chủ đích của giáo dục căn cứ vào các yếu tố như mục đích, nhiệm vụ của dạy
học, môi trường, điều kiện tâm lý học sinh cho phép để phát triển khả năng
hành động, hoạt động học tập của các em.
Từ đó tạo cơ hội cho các em đưa kiến thức đã học vào “mài dũa”,
“nhào lặn” trong thực tiễn để nắm vững tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ sảo bộ
môn góp phần phát triển trí tuệ, giáo dục học sinh.

Tuy nhiên, việc thực hành và phát triển năng lực thực hành chỉ có kết
quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên với học sinh, giữa nội dung và
phương pháp nhằm phục vụ một mục đích đã định, khi kiến thức học sinh đã
đạt đến một mức độ nhất định.
*Quan niệm về thực hành pháp luật và nâng cao năng lực thực
hành pháp luật
Từ những phân tích về năng lực thực hành, phát triển năng lực thực
hành ở trên cho thấy rõ tầm quan trọng của việc dạy học giúp học sinh ngoài
việc nắm vững kiến thức về lí thuyết thì phải biết vận dụng vào thực tiễn.
Trong khi đó những kiến thức của pháp luật có giá trị thực tiễn rất cao mà
mọi công dân đều phải có nghĩa vụ tìm hiểu. Do vậy trong quá trình dạy học
môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” cần giúp cho học sinh có được
năng lực thực hành pháp luật. Từ đó có thể hiểu: Năng lực thực hành pháp
luật là khả năng của con người sử dụng pháp luật vào thực tiễn cuộc
sống.
Trong việc dạy học môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” thì yêu
cầu đó là hết sức cần thiết. Bởi vì “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà
20


nước.”[8, 5]. Theo đó mỗi công dân đều có trách nhiệm hiểu biết và thực hiện
pháp luật. Do đó giáo viên cần giúp cho học sinh có được năng lực thực hành
pháp luật cho tốt để các em trở thành công dân có ích cho xã hội. Vì vậy có
thể hiểu:
Nâng cao năng lực thực hành pháp luật là nâng cao khả năng của
con người trong việc sử dụng tốt pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.
Từ những phân tích ở trên cho thấy nâng cao năng lực thực hành pháp
luật trong dạy học môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” bao gồm: Tất
cả những công việc cần thiết mà giáo viên và học sinh phải làm để học sinh

hiểu và vận dụng tốt kiến thức pháp luật vào cuộc sống.
Ví dụ: Khi học bài số 1 “Pháp luật và đời sống” học sinh hiểu được đặc
trưng thứ nhất của pháp luật là: Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, bởi lẽ
pháp luật là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp dụng
nhiều lần, ở nhiều nơi, đối với tất cả mọi người trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.Tính quy phạm phổ biến của pháp luật chính là ranh giới để phân
biệt pháp luật với các quy phạm xã hội khác.
Ở đặc trưng thứ nhất của pháp luật là tính quy phạm phổ biến học
sinh cần phải hiểu được: Mỗi quy tắc xử sự thường được thể hiện thành một
quy phạm pháp luật. Tính quy phạm phổ biến này làm nên giá trị công bằng,
bình đẳng của pháp luật, vì bất kì ai ở trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định
cũng phải xử sự theo khuôn mẫu được pháp luật quy định.
Sau khi hiểu được đặc trưng thứ nhất của pháp luật học sinh có thể
vận dụng vào các tình huống cụ thể. Ví dụ, khi tham gia giao thông các em
luôn phải thực hiện theo những quy định của luật giao thông đường bộ như:
Chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển giao thông hoặc chỉ dẫn của đèn tín
hiệu, biển báo hiệu, vạch kẻ đường…Song không chỉ có vậy, học sinh phải
biết vận dụng tốt quy định trên ở chỗ: Nếu khi tham gia giao thông mà tại nơi
có đèn tín hiệu nhưng lại có cả hiệu lệnh của người điều khiển giao thông thì
các em biết phải tuân theo hiệu lệnh của người điều khiển giao thông. Việc

21


học sinh vận dụng được các kiến thức pháp luật đó chỉ có được khi các em
được học, được nâng cao khả năng thực hành của mình.
Nâng cao năng lực thực hành pháp luật thông qua việc tổ chức các hoạt
động thực hành trong học tập môn GDCD là một hình thức đa dạng hóa các
hoạt động nhận thức trong các điều kiện sư phạm khác nhau, gợi lên hứng thú
say mê học tập ở học sinh. Các hoạt động này có tác dụng làm nổi bật, mở

rộng, đào sâu những kiến thức đã học trong giờ học nội khóa giúp học sinh
nâng tầm hiểu biết lên mức độ cao hơn.
Học sinh bằng việc hiểu biết một cách sâu sắc, toàn diện có hệ thống
các tri thức dẫn đến vận dụng được những tri thức đó một cách linh hoạt, sáng
tạo. Đặc biệt đối với quá trình hình thành và nâng cao năng lực thực hành
pháp luật thì điều đó càng cần thiết bởi đời sống xã hội luôn diễn ra phong
phú đa dạng và phức tạp.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học cho thấy: Việc nắm
vững tri thức gắn bó chặt chẽ với việc vận dụng tri thức đó vào thực tiễn.
Muốn vận dụng kiến thức một cách có hiệu quả thì học sinh phải hiểu kiến
thức mà mức độ cao nhất là hiểu một cách sâu sắc, toàn diện, có hệ thống.
Khi học sinh tác động tích cực vào tài liệu học tập bằng các hoạt động thực
tiễn làm cho tri thức lí luận và tri thức thực tiễn có mối liên hệ bên trong sâu
sắc. Cũng chính trong quá trình vận dụng tri thức thì những thao tác tư duy
càng được trau dồi củng cố, một số kĩ năng, kĩ sảo trí tuệ và thực hành có ích
được hình thành.
Qua hoạt động thực tiễn, tính chân lí của những kiến thức đã lĩnh hội
được khẳng định, tạo cơ sở cho một niềm tin vững chắc, góp phần hình thành
một thế giới quan khoa học đúng đắn.
Như vậy, thông qua quá trình phân tích ở trên chúng ta thấy sự gắn bó
giữa lí thuyết và thực hành là một yêu cầu quan trọng của quá trình dạy học. Do
đó thực hành pháp luật là một công việc rất cần thiết không thể thiếu được đối
với học sinh trong học tập môn GDCD. Trong tình hình xã hội hiện nay thì việc

22


dạy học pháp luật không chỉ dừng lại ở việc giúp học sinh biết vận dụng mà phải
vận dụng được tốt các kiến thức pháp luật vào cuộc sống. Do vậy dạy học nhằm
nâng cao năng lực thực hành pháp luật cho học sinh là sự tác động có chủ đích

của giáo dục căn cứ vào các yếu tố như mục đích, nhiệm vụ của dạy học, môi
trường, điều kiện tâm lý học sinh cho phép để phát triển khả năng hành động,
hoạt động học tập pháp luật của các em.
Nâng cao năng lực thực hành pháp luật nói một cách ngắn ngọn là
biện pháp tích cực giúp đỡ học sinh dễ dàng trong những hành động học tập
pháp luật và thực hành pháp luật cho tốt. Thông qua việc thực hành đó mà
giáo dục đạo đức, nhân cách, rèn luyện khả năng thực hành pháp luật cho học
sinh trước yêu cầu mà xã hội đặt ra.
1.1.2. Nâng cao năng lực thực hành pháp luật là đòi hỏi của dạy học
phần “Công dân với pháp luật”
*Đặc điểm nội dung tri thức phần “Công dân với pháp luật”
Cùng với các môn khoa học cơ bản trong chương trình giáo dục trung
học phổ thông ở nước ta hiện nay, môn GDCD có vai trò quan trọng trong
việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực và con người Việt Nam. Đây là một
môn khoa học xã hội nhằm trang bị những kiến thức thế giới quan và phương
pháp luận duy vật biện chứng, những chuẩn mực đạo đức, một số phạm trù
quy luật kinh tế cơ bản. Đặc biệt là những tri thức về pháp luật được trình bày
trong 10 bài phần “Công dân với pháp luật” trong chương trình lớp 12 đã
cung cấp những hiểu biết cơ bản về bản chất, vai trò và nội dung của pháp
luật trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua đó giúp học sinh có thể
chủ động tự giác điều chỉnh hành vi của cá nhân và đánh giá được hành vi của
người khác theo quyền và nghĩa vụ của công dân trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thông qua nội dung đó
từng bước trang bị cho học sinh những kiến thức về pháp luật nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Học sinh biết trân trọng, tin tưởng ở lẽ phải và sự
công bằng; có ý thức trách nhiệm với tư cách là công dân trong việc xây dựng
23


xã hội, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đồng thời giúp học sinh

tự giác sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật mà trước hết là tuân thủ
các quy định của pháp luật về quyền, nghĩa vụ của học sinh trong nhà trường,
trong các hoạt động xã hội. Đồng thời giáo dục học sinh biết chủ động phòng,
chống cái biểu hiện vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội.
Nội dung cơ bản của 10 bài như sau:
Bài 1: Pháp luật và đời sống (3 tiết ) giúp học sinhhiểu được:
- Khái niệm về pháp luật.
- Bản chất của pháp luật.
- Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức.
- Vai trò của pháp luật trong với đời sống xã hội.
Bài 2: Thực hiện pháp luật (3 tiết) giúp học sinh hiểu được:
- Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật.
- Khái niệm vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí; các loại vi phạm
pháp luật và trách nhiệm pháp lí.
Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật (1 tiết)giúp học sinh hiểu
được: Thế nào là bình đẳng trước pháp luật; thế nào là bình đẳng về quyền
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí; trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm
bảo quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật.
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội (3 tiết)
Giúp học sinh hiểu được khái niệm, nội dung quyền bình đẳng của
công dân trong các lĩnh vực: hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh;
trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện quyền
bình đẳng trong các lĩnh vực trên.
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo (2 tiết)
Giúp học sinh hiểu được: Khái niệm, nội dung, ý nghĩa và chính sách của
Nhà nước về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (4 tiết) giúp học sinh
hiểu được:
- Khái niệm, ý nghĩa và nhận biết được nội dung cơ bản về: Quyền bất

khả xâm phạm về thân thể của công dân; quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân quyền bất khả xâm
24


phạm về chỗ ở của công dân; quyền được bảo đảm an toàn và bí mật thư tín,
điện thoại, điện tín; Quyền tự do ngôn luận
-Trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo và thực hiện các quyền
tự do cơ bản của công dân.
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ (3 tiết) giúp học sinh hiểu
được:
- Khái niệm, nội dung, ý nghĩa các cách thực hiện một số quyền dân
chủ của công dân: Quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại biểu của nhân
dân; quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân.
- Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc thực hiện các
quyền dân chủ của công dân.
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân (2 tiết) giúp học sinh
hiểu được:
- Nội dung cơ bản, ý nghĩa về quyền học tập, sáng tạo và phát triển của
công dân.
-Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc đảm bảo quyền học
tập, sáng tạo và phát triển của công dân.
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển của đất nước (2tiết) giúp học sinh
hiểu được:
- Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển bền vững của đất nước
- Nội dung cơ bản của pháp luật pháp luật đối với sự phát triển bền
vững của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc
phòng, bảo vệ môi trường.
Bài 10: Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân

loại (2 tiết) giúp học sinh hiểu được:
- Vai trò của pháp luật đối với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của
nhân loại.
- Điều ước quốc tế trong quan hệ giữa các quốc gia(khái niệm điều ước
quốc tế; mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với pháp luật quốc gia).

25


×