Tải bản đầy đủ (.doc) (141 trang)

ỨNG DỤNG PHẦN MỀM HAPPYKID HÌNH THÀNH KHẢ NĂNG ĐỌC CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.88 KB, 141 trang )

Lời cảm ơn
Tác giả luận văn xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với:
- Các thày giáo, cô giáo khoa Giáo dục Mầm non, Ban giám hiệu,
phòng Quản lý khoa học, Thư viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giúp
đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
- Ban giám hiệu, tập thể các thày cô giáo, các cháu mẫu giáo trường
mầm non Bắc Giang, mầm non Hoa Sen, mầm non Hoa Hồng thành phố Bắc
Giang, tỉnh Bắc Giang đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tác giả tiến hành
nghiên cứu thực trạng và thực nghiệm để hoàn thành luận văn.
- Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày hướng dẫn
PGS. TS. Đinh Hồng Thái – người đã tận tình chỉ dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn
thành luận văn này.
- Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã hết lòng giúp đỡ, động viên
khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Hải Thanh


MỤC LỤC
Lời cảm ơn.......................................................................................................1
MỤC LỤC........................................................................................................2


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Kết quả điều tra về thông tin chung của giáo viên....................50
Bảng 2.2. Nhận thức của giáo viên về ý nghĩa của phần mềm HappyKid
đối với sự hình thành khả năng đọc cho trẻ 5 - 6 tuổi................................50
Bảng 2.3. Nhận thức của giáo viên về tác dụng của phần mềm HappyKid
trong quá trình hình thành khả năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi........................51


Bảng 2.4. Nhận thức của giáo viên về nội dung hình thành khả năng đọc
cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi............................................................................53
Bảng 2.5. Nhận thức của giáo viên về việc thường xuyên sử dụng phần
mềm HappyKid hình thành khả năng đọc cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi......54
Bảng 2.6. Các hình thức hoạt động khi giáo viên sử dụng phần mềm
HappyKid cho trẻ 5-6 tuổi hình thành khả năng đọc................................55
Bảng 2.7. Mục đích giáo viên sử dụng phần mềm HappyKid cho trẻ 5- 6
tuổi..................................................................................................................56
Bảng 2.8. Nhận thức của giáo viên về mức độ hứng thú đọc của trẻ 5- 6
tuổi khi sử dụng phần mềm HappyKid.......................................................56
Bảng 2.9. Các biện pháp giáo viên sử dụng HappyKid hình thành khả
năng đọc cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi .............................................................57
Bảng 2.10. Những khó khăn giáo viên gặp phải khi sử dụng phần mềm
HappyKid hình thành khả năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi................................58
Bảng 2.11. Nhận thức của phụ huynh học sinh về việc hình thành khả
năng đọc cho trẻ 5 - 6 tuổi.............................................................................59
Bảng 2.12. Nhận thức của phụ huynh về cách thức hình thành khả năng
đọc cho trẻ 5 - 6 tuổi......................................................................................60
Bảng 2.13. Kết quả thực trạng về khả năng đọc của trẻ 5- 6 tuổi.............66
Bảng 2.14. Kết quả mức độ điểm đạt được của trẻ....................................69


Bảng 3.1 Kết quả khảo sát khả năng đọc hiểu câu chuyện của trẻ ở nhóm
thực nghiệm và đối chứng trước và sau thực nghiệm................................93
Bảng 3.2. Kết quả khảo sát khả năng chú ý đọc của trẻ ở nhóm đối
chứng và nhóm thực nghiệm trước và sau thực nghiệm tác động............95
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát mức độ thể hiện một số kỹ năng ban đầu
trong hoạt động đọc của trẻ ở nhóm TN và nhóm ĐC trước thực nghiệm
.........................................................................................................................97
Bảng 3.4. Kết quả khảo sát khả năng tạo ra một câu chuyện dựa trên

hình ảnh có sẵn trên phần mềm.................................................................100
Bảng 3.5. Kết quả khảo sát mức độ nhận biết được cấu tạo sách truyện
điện tử và sách in của trẻ ở NTN và NĐC trước thực nghiệm tác động 102
Bảng 3.6. Kết quả mức độ điểm đạt được sau thực nghiệm của trẻ ở
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm.....................................................104


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1.a. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ biểu hiện khả năng đọc
hiểu câu chuyện của nhóm trẻ thực nghiệm và đối chứng trước thực
nghiệm............................................................................................................93
Biểu đồ 3.1.b. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ biểu hiện khả năng đọc
hiểu câu chuyện của nhóm trẻ thực nghiệm và đối chứng sau thực
nghiệm............................................................................................................94
Biểu đồ 3.2.a. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ biểu hiện khả năng chú ý
đọc của trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm................................95
Biểu đồ 3.2.b. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ chú ý đọc của trẻ ở nhóm
đối chứng và nhóm thực nghiệm sau thực nghiệm tác động.....................96
Biểu đồ 3.3.a Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ thể hiện kỹ năng ban đầu
trong hoạt động đọc của trẻ ở nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng
trước thực nghiệm tác động.........................................................................98
Biểu đồ: 3.3.b. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ thể hiện những kỹ năng
ban đầu trong hoạt động học của trẻ ở nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm sau thực nghiệm tác động................................................................99
Biểu đồ 3.4.a. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ khả năng tạo ra một câu
chuyện dựa trên hình ảnh có sẵn của trẻ ở NĐC và N TN trước TN tác
động..............................................................................................................100
Biểu đồ 3.4.b. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ biểu hiện khả năng tạo
ra một câu chuyện dựa trên hình ảnh có sẵn của trẻ ở NĐC và NTN sau
TN tác động..................................................................................................101

Biểu đồ 3.5.a. Biểu đồ so sánh mức độ nhận biết cấu tạo sách truyện điện
tử và sách in của nhóm trẻ ở nhóm ĐC và nhóm TN trước TN tác động
.......................................................................................................................102


Biểu đồ 3.5.b. Biểu đồ biểu diễn so sánh mức độ nhận biết cấu tạo của
sách điện tử và sách in của trẻ ở NTN và NĐC sau thực nghiệm tác động
.......................................................................................................................103


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội, nó ra đời và tồn tại cùng với
sự hình thành và phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ vừa là hình thức
thể hiện tư duy vừa là động lực thúc đẩy tư duy phát triển. E.I.Tikhêeva Nhà giáo dục học Nga đã khẳng định rằng "ngôn ngữ là công cụ để tư duy,
là chìa khoá để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh kho tàng kiến thức của
dân tộc, của nhân loại. Do ngôn ngữ giữ vai trò vô cùng quan trọng trong đời
sống con người đặc biệt là trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đời mỗi người,
nên việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ phải bắt đầu từ rất sớm, từ khi các cháu
chưa cắp sách đến trường". Đối với trẻ em ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng
trong việc hình thành và phát triển cơ sở ban đầu của nhân cách. Các nhà
nghiên cứu giáo dục mầm non đã xem công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ
là khâu chủ yếu của hoạt động trong trường mẫu giáo, là tiền đề cho mọi sự
thành công khác.
1.2. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho trẻ bao gồm một số nội dung về
phát triển ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; phát triển lời nói mạch lạc; chuẩn bị cho
trẻ học đọc, học viết; cảm nhận ngôn ngữ nghệ thuật; giáo dục văn hoá giao
tiếp ngôn ngữ. Một trong những mong đợi kết quả đạt được cuối độ tuổi mẫu
giáo trong việc chuẩn bị học đọc - viết cho trẻ là trẻ biết ‘đọc’ từ trái qua phải,
từ trên xuống dưới, từ đầu sách đến cuối sách; ‘đọc’truyện theo tranh đã biết....

Năng lực đọc chính là nền tảng của việc học, cha mẹ nên nuôi dưỡng
hứng thú đọc của trẻ càng sớm càng tốt, qua đó có thể giúp trẻ hình thành thói
quen đọc. Trẻ có năng lực đọc tốt có quan hệ mật thiết với học hành sau này
của trẻ. Kinh nghiệm đọc của trẻ càng phong phú càng có lợi cho việc học của
trẻ sau này, vì thế cố gắng tạo thói quen đọc cho trẻ từ sớm. Việc cho trẻ đọc
trước hết phải dựa trên kinh nghiệm ngôn ngữ nói của trẻ. Trong quá trình trẻ

1


làm quen với đọc, trẻ có thể khám phá ra cách giải mã chữ viết qua việc học
nhận biết các chữ cái và từ, nhận biết mối quan hệ giữa âm thanh và ký hiệu
chữ viết, hiểu mối quan hệ giữa từ được tạo ra bởi một nhóm chữ cái và nghĩa
của từ.
1.3. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, những
năm gần đây ở trường mầm non việc khai thác, sử dụng các phần mềm trò
chơi, dạy học đã được các nhà giáo dục quan tâm và ứng dụng có hiệu quả
trong giảng dạy. Do đó, trẻ có cơ hội để làm quen, ứng dụng và phát triển các
khả năng về công nghệ thông tin thông qua việc sử dụng các công cụ tin học
trong quá trình học tập. Thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin, trẻ sẽ
được khám phá các ý tưởng, khái niệm, câu hỏi khác nhau, trẻ sẽ được tương
tác với chữ viết, với những âm thanh, hình ảnh sống động. Các hoạt động sử
dụng máy tính và các phần mềm luôn được gắn với phần hướng dẫn của giáo
viên trên lớp cũng như gắn với thế mạnh và nhu cầu của trẻ. Khi trẻ chơi các
trò chơi với máy tính, giáo viên có nhiều cơ hội để phát hiện ra mức tiếp thu
và sự phát triển của trẻ. Những cơ hội này chỉ xuất hiện khi giáo viên biết
quan sát, theo dõi sát sao lúc trẻ đang chơi.
Hiện nay, trong các trường mầm non việc sử dụng phần mềm
HappyKid (Ngôi nhà chữ) đã không còn xa lạ với trẻ. Nhưng khi nói đến
HappyKid, mọi người đều nghĩ rằng, đó là trò chơi và đơn giản chỉ để cho bé

chơi, thư giãn ngoài giờ học. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng HappyKid đơn giản
chỉ là trò chơi thì chưa phát huy hết giá trị của phần mềm. Giáo viên chỉ sử
dụng phần mềm HappyKid cho trẻ học cách phát âm, nhận dạng mặt chữ cái
hoặc tạo ra những bức tranh truyện theo ý thích của trẻ mà chưa nhận thấy
rằng khi trẻ hoạt động với phần mềm này khả năng ngôn ngữ của trẻ trên mọi
phương diện nghe, nói, đọc, viết sẽ phát triển tốt hơn. Khi cho trẻ hoạt động
với phần mềm này giáo viên chưa khai thác hết hiệu quả của phần mềm đối

2


với việc hình thành khả năng đọc của trẻ. Nhiều giáo viên để cho trẻ chơi tự
do, chưa biết sử dụng phần mềm HappyKid như thế nào cho hiệu quả và phù
hợp với trẻ 5- 6 tuổi.
Với lý do trên, chúng tôi lựa chọn thực hiện đề tài “Ứng dụng phần mềm
HappyKid hình thành khả năng đọc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục mầm
non ngày càng được quan tâm. Trong đó, vấn đề cho trẻ làm quen với đọc,
viết trước khi bước vào trường phổ thông là vấn đề thu hút được nhiều sự chú
ý. Đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có ý kiến phản đối việc dạy
cho trẻ biết đọc, viết trước khi vào lớp 1, có ý kiến cho rằng cho trẻ học đọc,
học viết ở lứa tuổi mầm non là cần thiết, nên cho trẻ học cách phát âm, các kỹ
năng đọc, viết. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng việc dạy trẻ học đọc, viết
chỉ có thể diễn ra khi ở trẻ xuất hiện những dấu hiệu của sự sẵn sàng như có
các kỹ năng vận động thành thục của các cơ lớn và cơ nhỏ, khả năng ghi nhớ
có chủ định, khả năng định hướng trong không gian… Quan điểm này coi
trọng việc chuẩn bị cho trẻ những “khả năng sẵn sàng” cho việc đọc và viết
chứ chưa phải là dạy trẻ đọc viết một cách thực thụ.
Khả năng biết đọc, biết viết là một yếu tố vô cùng quan trọng trong

năng lực của mỗi học sinh khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đó là cơ sở quan
trọng để học sinh lĩnh hội tri thức, trưởng thành trong học vấn và kinh nghiệm
sống. Trường mầm non không có nhiệm vụ dạy trẻ đọc viết nhưng phải chuẩn
bị những khả năng cho việc đọc, viết của trẻ. Công việc này được tiến hành
trong suốt giai đoạn lứa tuổi mầm non, đặc biệt là giai đoạn 5-6 tuổi.
2.1. Ở nước ngoài
Khoảng những năm 70 – 90 của thế kỉ XIX, các trường mẫu giáo của
Anh, Mỹ cấm việc cho trẻ làm quen với chữ viết và các hoạt động liên quan

3


đến đọc và viết. Nhưng tới những năm 80 của thế kỉ XX, do chất lượng học
tập của học sinh lớp 1 không cao, một số người cho rằng có thể do sự chuẩn
bị chưa tốt các kĩ năng khi học mẫu giáo. Vì vậy, nhiều nơi ở Anh, Mỹ người
ta đã bắt đầu áp dụng chương trình chuẩn bị cho trẻ học đọc, viết ở trường
phổ thông. Trong quá trình thực hiện, họ nhận ra rằng việc cần thiết là xây
dựng cho trẻ một chương trình chuẩn bị khả năng đọc viết phù hợp với lứa
tuổi, sự hứng thú của trẻ và thực hiện mang tính tổng thể hơn là việc cho trẻ
nhận biết từng chữ cái riêng biệt.[24]
Theo Sloan.P, Latham.S – các nhà giáo dục người Úc, chuyên gia về
đọc – viết, Cutting.B – nhà giáo dục người Mỹ, nếu chỉ chú trọng cung cấp
cho trẻ về khía cạnh cấu trúc của ngữ âm học và việc thuộc lòng từng chữ cái
riêng lẻ sẽ tạo cho trẻ thái độ học tập không đúng ví dụ như việc học không
cần phải tư duy, suy nghĩ. Quá trình học của trẻ trở nên thụ động, không sáng
tạo, khô cứng, trẻ không còn hứng thú, say mê trong hoạt động đọc và viết,
chúng chỉ thực hiện khi được yêu cầu.[2]
Hiện nay, đa số các nhà giáo dục Mỹ, Úc đã ủng hộ chương trình đọc
viết được xây dựng trên quan điểm coi đọc và viết là hành vi trí tuệ. Các
nghiên cứu của Lay và Harste, Woodward và Burke (1984) về sự phát triển

đọc viết đã cho rằng sự phát triển đọc viết bắt đầu từ sớm trước khi trẻ bắt đầu
được học một cách chính thức. Marie Clay nhà giáo dục người New Zealand
năm 1996 đã nêu ra thuật ngữ “khả năng tiền đọc viết” để mô tả hành vi của
trẻ nhỏ khi chúng sử dụng sách và các tài liệu dụng cụ đọc viết để bắt chước
các hoạt động đọc viết mặc dù trẻ thực sự không thể đọc và viết theo cách
thông thường. Tiền đọc viết không phải là một số kỹ năng cô lập mà là tập
hợp các kỹ năng của quy trình phát triển mà trẻ coi đó như là phượng tiện để
đạt được mục tiêu đọc viết.[44,tr 60].

4


Dựa trên kết quả đánh giá khả năng đọc, vào năm 1931 ở hạt Winnetka,
Bang Illimois – Mỹ (Morphett & Washburne, 1931, in McGill – Franzen,
1992) người ta thấy rằng thời điểm diệu kì cho sự sẵn sàng học đọc là khi trẻ
được sáu tuổi rưỡi, kết quả này đã được ủng hộ quan điểm chung về sự “sự
sẵn sàng đọc” và ủng hộ quan điểm cho rằng trẻ trong quá trình phát triển tự
nhiên của mình sẽ học đọc. Như vậy, các hoạt động sẵn sàng học đọc và quá
trình dạy chính thức trực tiếp là một phần của các lớp học mầm non. Các hoạt
động này bao gồm các bài tập phân biệt qua thị giác và thính giác, tìm các chữ
cái và âm thanh giống nhau, học tên các chữ cái và tô chữ.
Giáo sư người Pháp, Andrée Girolami Boulimer trong cuốn sách
“Hướng dẫn những bước đầu tiên chuẩn bị đến trường phổ thông” đã khẳng
định khi bước vào ngưỡng cửa của việc đọc, viết trẻ phải có một số khả năng
cơ bản như khả năng phát triển ngôn ngữ, cảm nhận được về nhịp điệu, cường
độ, có khả năng tri giác bền vững, cử động chính xác, có khả năng định
hướng trong không gian và thời gian, có ý niệm về số lượng.[3].
Glenn Doman và Janet Doman nổi tiếng với cuốn sách “Dạy trẻ biết
đọc sớm” đã chứng minh rằng trẻ nhỏ có khả năng học hỏi nhiều hơn cả
những gì chúng ta tưởng tưởng. Cuốn sách đã ghi lại những công trình mà

ông nghiên cứu, khảo sát tại sao trẻ 0-6 tuổi lại học tốt và nhanh hơn hơn
những trẻ có độ tuổi lớn hơn. Cuốn sách đã đưa ra được những kỹ năng cơ
bản giúp trẻ có khả năng đọc thông viết thạo. Ông khẳng định giai đoạn từ 1-5
tuổi là thời kỳ vàng để trẻ học đọc. Ông đã đưa ra 5 bước để tiến hành dạy trẻ
học đọc đó là: đọc các từ riêng lẻ, đọc các từ ghép, đọc cả cụm từ, đọc các
câu, cuối cùng là đọc cả cuốn sách. Đồng thời ông cũng hướng dẫn chi tiết
cách dạy cho trẻ đọc ở các giai đoạn lứa tuổi.[5].
Mới đây nhất, trong cuốn sách “Phương án 0 tuổi - Phát triển ngôn
ngữ từ trong nôi”, Giáo sư Phùng Đức Toàn, cha đẻ của nền giáo dục sớm của

5


Trung Quốc đã rất coi trọng việc dạy chữ sớm cho trẻ. Ông cho rằng không
chỉ chuẩn bị khả năng tiền đọc viết cho trẻ 5- 6 tuổi mà cho trẻ ở mọi lứa tuổi
theo phương thức tự nhiên, công cụ chủ yếu là ngôn ngữ thị giác. Thậm trí,
ông còn cho rằng, tuổi sơ sinh là giai đoạn học chữ tốt nhất, và nên dạy chữ
cho trẻ trước khi trẻ biết nói. Dạy chữ (học đọc, học viết) cho trẻ sớm có ý
nghĩa lớn trong việc khai thác tiềm năng và nâng cao tố chất của con người.
Ông cũng chỉ ra rằng, đối với một đứa trẻ hoàn toàn không cần thiết phải đi
theo con đường cũ học nói trước rồi mới học viết. Mà nên bắt đầu cả hai ngôn
ngữ, đó là con đường đưa trẻ đi đến trí tuệ. Trẻ nhỏ học chữ diễn ra rất tự
nhiên cũng giống như tiếp thu những kích thích khác từ ngoài môi trường và
dần tiến tới việc đọc. Đây là phương pháp tốt để trẻ nắm bắt được công cụ
ngôn ngữ thị giác một cách vô thức. Để cho trẻ học chữ sớm thông qua các trò
chơi sẽ có thể thúc đẩy sự phát triển phẩm chất cá tính của trẻ như: phát triển
khả năng chú ý; rèn luyện khả năng quan sát; bồi dưỡng trí nhớ; phát triển khả
năng tư duy và khả năng tưởng tượng của trẻ; vun đắp tính cách tốt đẹp và bồi
dưỡng niềm yêu thích đọc sách; bồi dưỡng khả năng và thói quen tự học.[31].
Như vậy, các công trình nghiên cứu của các nước có nền giáo dục phát

triển đều cho rằng cần chuẩn bị cho trẻ các kĩ năng của việc đọc viết trước khi
trẻ bắt đầu học đọc viết một cách chính thức. Việc chuẩn bị khả năng tiền đọc
- viết cho trẻ là một nhiệm vụ quan trọng nằm trong chương trình phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
2.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, các nhà giáo dục học, tâm lý học nghiên cứu về giáo dục
mầm non đều phản đối việc dạy cho trẻ 5-6 tuổi học đọc, học viết một cách
thành thục. Họ cho rằng điều quan trọng là cần phải chuẩn bị cho trẻ 5-6 tuổi
trước khi bước vào trường phổ thông. Trong đó nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ
những khả năng tiền đọc viết được quan tâm đặc biệt.

6


Theo PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Tuyết những em bé biết đọc sớm
thường được sống trong môi trường chữ viết, tiếp xúc sớm với chữ. Theo tác
giả, mục đích của việc cho trẻ làm quen với chữ không chỉ nhằm giúp trẻ
nhận biết được mặt chữ để phát âm chính xác khi nói mà còn tạo cho trẻ hứng
thú học tập tiếng Việt, làm tiền đề cho việc học đọc, học viết ở lớp Một.
Nội dung cho trẻ làm quen với chữ bao gồm việc cho trẻ nhận biết và
phát âm đúng chữ cái tiếng Việt; dạy trẻ nhận biết các chữ cái thông qua việc
tri giác bằng âm thanh; dạy trẻ nhận biết các kiểu chữ (in hoa, in thường, viết
thường); dạy trẻ làm quen với cách tách âm, ghép âm thông qua cho trẻ làm
quen với vị trí của các âm trong từ; dạy trẻ làm quen với các kỹ năng ban đầu
về tiền đọc viết: cách ngồi, cách cầm bút, cách đọc, mở sách/ vở,…[33].
Nhiều bài viết khác đề cập tới việc chuẩn bị cho trẻ học đọc, học viết ở
trường phổ thông như: Trần Thị Nga có bài “Khả năng tích hợp của việc dạy
cho trẻ làm quen với chữ viết” trong kỷ yếu Hội thảo khoa học 2003, tác giả
cho rằng việc cho trẻ làm quen với chữ viết phải được tiến hành một cách
thích hợp và tự nhiên, bắt đầu từ những ý tưởng kinh nghiệm gần gũi và có ý

nghĩa đối với trẻ. Trần Mạnh Hưởng có bài viết “Góp phần chuẩn bị cho trẻ
mẫu giáo 5 tuổi học tốt môn tiếng Việt ở lớp 1” trong kỷ yếu Hội thảo khoa
học 2003 đã đưa ra một số đề xuất về nội dung, yêu cầu chuẩn bị cho trẻ 5
tuổi học tốt môn tiếng Việt. Ngoài ra, tác giả còn cho rằng nội dung và hình
thức chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi cần tập trung vào yêu cầu làm quen với các kỹ
năng nghe, nói hơn so với các kỹ năng đọc, viết, chú trọng đến các hoạt động
vui chơi hơn là yêu cầu làm quen và nhận biết kiến thức[13]. Lê Thị Ánh
Tuyết có bài “Cho trẻ làm quen với chữ viết – các quan niệm và thực tiễn”
trong tạp chí Giáo dục mầm non số 1-2003 đã tập hợp các ý kiến của các nhà
nghiên cứu về vấn đề cho trẻ làm quen với chữ viết và đưa ra một số định
hướng quanh việc đó như sau:

7


- Vấn đề cho trẻ làm quen với chữ viết, cũng như đối với việc chuẩn bị
học đọc, học viết cho trẻ mầm non cần được xem là một bộ phận của sự phát
triển ngôn ngữ ở trẻ. Cần xác định rõ yêu cầu cần đạt được trong việc cho trẻ
ở mẫu giáo làm quen với chữ viết trong mối quan hệ với sự phát triển các kỹ
năng nghe, nói, tiền biết đọc, tiền biết viết.
- Việc cho trẻ làm quen với chữ viết, hình thành kỹ năng chuẩn bị cho trẻ
đọc, viết bao gồm nhiều quá trình, nhiều hoạt động như: quan sát, tương tác với
người lớn, thực hành…và cần phải có môi trường phù hợp để trẻ hoạt động.
- Việc chuẩn bị cho trẻ làm quen với chữ viết đòi hỏi phải có thiết kế
hoạt động thích hợp. Song, bên cạnh đó cũng cần phải tính đến thời gian cho
trẻ hoạt động có tính chuyên biệt như trẻ trải nghiệm việc đọc, viết theo khả
năng riêng của mình.
- Cần xây dựng các phương tiện, học liệu phù hợp góp phần thúc đẩy
khả năng tiền đọc viết của trẻ như lôtô, bộ chữ, vở tập tô, tập sao chép chữ,…
[34]

Tác giả Đinh Hồng Thái lần đầu tiên ở Việt Nam xác định một nhiệm
vụ quan trọng của phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non là chuẩn bị cho trẻ khả
năng tiền đọc viết. Tiếp thu các quan điểm hiện đại của các học giả nước
ngoài như: Otto Bervelly, Morrow Mandel Desley…(Hoa Kỳ), Amelia
Church, Margett Key…(Australia), Nobuko Uchida (Nhật Bản)… ông đặt vấn
đề việc chuẩn bị khả năng tiền đọc viết ở trường mầm non cần phải bắt đầu
sớm hơn, từ nửa sau của tuổi sơ sinh, và nội dung dạy học cũng phải xác định
đúng hơn. Cần hiểu đúng hơn chuẩn bị khả năng tiền đọc viết cho trẻ không
chỉ quan tâm đến những hành vi bên ngoài mà còn là các hành động trí tuệ:
đọc là hành động để hiểu văn bản, viết là hành động nhằm tạo ra một thông
điệp nào đó. Bài viết gần đây nhất của tác giả trên Tạp chí Giáo dục: Mấy vấn
đề về chuẩn bị khả năng tiền đọc viết tuổi mầm non đã nêu ra những định

8


hướng mới trong việc nghiên cứu và chỉ đạo giáo dục mầm non về vấn đề
này. [39]
Tác giả Phan Lan Anh cho rằng đối với trẻ 5 tuổi để chuẩn bị cho việc
học đọc viết ở lớp 1 tiểu học, trẻ cần phát triển tích cực khả năng tiền đọc
như sau:
- “Đọc” hiểu nội dung các văn bản: “đọc” vẹt các câu chuyện tranh đã
được nghe; kể được câu chuyện theo tranh liên hoàn
- Nhận biết một vài đặc điểm cấu trúc văn bản (nhận ra được cấu tạo
của cuốn sách: bìa sách, trang sách, vị trí tên tác giả, tên sách, biết được trang
mở đầu và trang kết thúc của sách; phân biệt được một số văn bản đơn giản
như thơ, truyện, nhạc, bảng danh sách..); biết giữa mỗi chữ trong văn bản
tương ứng với một âm khi đọc.
- Nhận ra và gọi tên các chữ cái; phân biệt được chữ cái in hoa, chữ cái
in thường, phân biệt chữ cái và từ, số; biết rằng chữ cái cấu tạo nên từ.

Nhận biết được các ký hiệu quen thuộc trong môi trường sống (ký hiệu
giao thông, ký hiệu các khu vực trong lớp, tên riêng hoặc ký hiệu của mình).
- Thực hiện một vài quy tắc thông thường trong tiếng Việt (cầm sách
đúng chiều khi đọc; lật giở trang sách; đọc văn bản từ trên xuống dưới, từ trái
sang phải của trang sách, ngắt câu khi gặp dấu chấm).
Và theo nghiên cứu của tác giả trò chơi làm tăng khả năng tiền đọc viết
của trẻ. Sự can thiệp của hoạt động vui chơi làm tăng khả năng sử dụng các
tài liệu đọc, viết của trẻ và sự tham gia của chúng vào các hoạt động đọc viết
để đạt được các kiến thức, kỹ năng cụ thể như nhận thức về phát âm, về chức
năng, ý nghĩa, hình thái của ngôn ngữ viết, trải nghiệm các hành vi đọc viết
theo qui tắc thông thường[2].
Dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đinh Hồng Thái, nhiều năm nay đã có
nhiều luận văn thạc sỹ nghiên cứu về lĩnh vưc này như: Phạm Thanh Thủy

9


với “Ứng dụng công nghệ thông tin cho trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với chữ viết”;
Lê Thị Cẩm Hà “Sử dụng truyện tranh để chuẩn bị khả năng tiền đọc viết cho
trẻ 5 - 6 tuổi”; Trần Thị Phượng “Lựa chọn và sử dụng truyện mẫu giáo giúp
trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với đọc sách”; Nguyễn Ngọc Ly “Sử dụng góc thư viện
giúp trẻ 5 -6 tuổi làm quen với đọc sách”….
Đặc biệt trong những năm gần đây tác giả Đinh Hồng Thái tập trung
nghiên cứu việc học đọc, học viết của trẻ mẫu giáo trong trường mầm non.
Tác giả cho rằng đọc (đọc hiểu) là một trong các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ
có vai trò quan trọng trong việc lĩnh hội tri thức văn hóa của mỗi người. Đọc
là một quá trình tâm lý hết sức phức tạp, một hành động trí tuệ đòi hỏi người
đọc không chỉ có sự hiểu biết ngôn ngữ mà còn có tri thức nền, các kiến thức
liên quan đến nội dung văn bản ở nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc vào tính
chất của nhiều loại văn bản. Vì vậy, khả năng này cần được hình thành càng

sớm càng tốt. Và khả năng đọc của trẻ được hình thành qua nhiều quá trình,
thứ nhất là việc học đọc diễn ra càng sớm, càng tốt; thứ hai, hình thành hành
vi có liên quan đến đọc (cầm sách, giở sách, đọc từ trên xuống dưới, đọc từ
trái sang phải...); thứ ba, hiểu được những khái niệm về sách (sách để đọc,
phân biệt đằng trước đằng sau, phía trên, phía dưới, lật giở đúng chiều...); thứ
tư, lĩnh hội văn bản tức là khả năng nghe và ‘đọc hiểu’; thứ năm hình thành
thái độ yêu sách, thích chơi với sách, thích đọc sách [40].
Như vậy, các nhà nghiên cứu ở ngoài nước hay trong nước đều nhìn
nhận rằng khả năng tiền đọc viết là khả năng khởi đầu cho việc đọc viết trước
khi trẻ có thể đọc và viết một cách thực thụ. Nó được coi như là sự cố gắng nỗ
lực đầu tiên của đứa trẻ trong việc thực hiện những hành vi đọc, viết. Khả
năng đọc, viết là nền tảng quan trọng cho sự phát triển các năng lực học tập
của trẻ sau này, giúp trẻ có nhiều thuận lợi hơn trong lĩnh hội các kiến thức.
Tuy nhiên chưa có nghiên cứu riêng về sử dụng công nghệ thông tin đặc biệt
là các phần mềm trò chơi nhằm hình thành khả năng đọc cho trẻ mẫu giáo nói
chung và trẻ 5-6 tuổi nói riêng.

10


3. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất biện pháp sử dụng phần mềm HappyKid hình thành khả năng
đọc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình phát triển ngôn ngữ và khả năng hình thành đọc cho trẻ ở
trường mầm non.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sử dụng phần mềm HappyKid hình thành khả năng đọc cho
trẻ 5- 6 tuổi ở trường mầm non.

5. Giả thuyết khoa học
Nếu có những biện pháp sử dụng phần mềm HappyKid theo hướng tích
cực hóa hoạt động của trẻ với sách truyện điện tử sẽ giúp trẻ 5- 6 tuổi hình
thành khả năng “đọc” và tạo điều kiện thuận lợi cho việc học đọc ở lớp một.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc hình thành khả năng đọc ở trẻ 56 tuổi.
6.2. Nghiên cứu thực trạng việc chuẩn bị đọc cho trẻ 5-6 tuổi trước khi
vào lớp Một.
6.3. Đề xuất biện pháp sử dụng phần mềm HappyKid hình thành khả
năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
6.4. Thực nghiệm sư phạm để chứng minh tính khả thi của các biện pháp.
7. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu: Hoạt động học với phần mềm
HappyKid, hoạt động trong phòng máy và trong hoạt động góc học tập.
7.2. Phạm vi địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường mầm non Bắc Giang tỉnh Bắc Giang.

11


8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập, đọc, phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa
thông tin trong các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát, ghi chép một số hoạt động của giáo viên và trẻ trong việc sử
dụng phần mềm HappyKid giúp trẻ 5 -6 tuổi hình thành khả năng đọc.
8.2.2. Phương pháp đàm thoại
Đàm thoại, trò chuyện với giáo viên và trẻ để phát hiện thực trạng, giải

thích nguyên nhân, bổ sung thêm các dữ liệu vào kết quả điều tra và kết quả
quan sát.
8.2.3. Phương pháp điều tra bằng phiếu Anket
Sử dụng phiếu điều tra đối với giáo viên, phụ huynh. Thông qua trả lời
của giáo viên và phụ huynh, người điều tra có cơ sở nhận xét về thái độ, cách
thức sử dụng phần mềm HappyKid hình thành khả năng đọc cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi.
8.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Tìm hiểu các cuốn sách được tạo ra trong quá trình trẻ hoạt động với
phần mềm HappyKid.
8.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Tiến hành thực nghiệm để đánh giá hiệu quả của đề tài.
8.3. Nhóm phương pháp xử lý kết quả nghiên cứu
Sử dụng một số công thức toán thống kê được thực hiện trong chương
trình Microsoft Excel 2003. công cụ SPPS 18.0 để xử lý số liệu và phân tích
kết quả nghiên cứu.

12


9. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của đề tài ứng dụng phần mềm HappyKid
hình thành khả năng đọc cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
- Đánh giá thực tiễn sử dụng phần mềm HappyKid trong việc hình
thành khả năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng phần mềm HappyKid hình thành
khả năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
10. Cấu trúc của luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung: Gồm 3 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận có liên quan đến đề tài.
Chương 2: Thực trạng sử dụng phần mềm HappyKid hình thành khả
năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
Chương 3: Một số biện pháp sử dụng phần mềm HappyKid hình thành
khả năng đọc cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
Phần kết luận và kiến nghị

13


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG PHẦN MỀM HAPPYKID
HÌNH THÀNH KHẢ NĂNG ĐỌC CHO TRẺ 5-6 TUỔI
Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Hệ thống khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm “đọc”
Nền văn hóa, kinh nghiệm lịch sử của xã hội loài người được lưu giữ
và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng nhiều con đường khác nhau,
một trong trong những phương thức lưu truyền được con người tiếp nhận một
cách dễ thấy đó là ‘đọc”. Con người biết đọc sẽ nâng khả năng tiếp nhận lên
nhiều lần. Như Vônte quả quyết “Đọc những tác giả viết hay ta sẽ tập được
thói quen lịch sự và văn hóa”
Từ đó học tìm hiểu cuộc sống, nhận thức ra các mối quan hệ trong tự
nhiên, xã hội và có sự đánh giá cuộc sống. Khi con người biết đọc họ có thể
làm chủ được các phương tiện, làm chủ trong giao tiếp và đặc biệt là hiểu
được suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm của những người sống quanh mình. Với sự
hiểu biết lẫn nhau, con người có thể đồng tâm hiệp lực để cùng nhau chinh
phục thiên nhiên, chinh phục xã hội và làm cho đời sống con người ngày
càng phát triển văn minh hơn, tốt đẹp hơn.

Theo quan điểm hành vi, việc đọc được coi là một quá trình nhận thức
ký hiệu bằng văn bản (chữ cái và từ) và sự kết hợp ký hiệu chữ viết với lời
nói (Adam,1990; Gough, 1972)
Theo quan điểm tự nhiên chủ nghĩa, đọc không đơn giản là một sự nhận
diện bản in. Thay vào đó nó là quá trình mà ở đó não bộ mỗi cá nhân chủ
động xây dựng ý nghĩa từ bản in qua cả thông tin hình ảnh và không hình ảnh.

14


Ở góc độ tâm lý, đọc là một quá trình nhận thức, một hoạt động trí tuệ
phức tạp mà cơ sở của việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt
động của cơ quan thị giác để phân biệt các ký hiệu chữ viết trong tập hợp của
nó, qua đó mà hiểu được nghĩa, biết được nội dung.
Ở góc độ ngôn ngữ, đọc là một hoạt động ngôn ngữ, là quá trình
chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (hình
thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành
các đơn vị nghĩa không có âm thanh (hình thức đọc thầm)[12].
Theo từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê đọc là “phát thành lời những
điều được viết ra, theo đúng trình tự”, là sự “tiếp nhận nội dung của một tập
ký hiệu chữ viết trong tập hợp của nó, qua đó hiểu được nghĩa, biết được nội
dung. Đọc có thể được phát âm hoặc không phát âm. Như vậy, biết đọc tức là
hiểu được ý nghĩa, nội dung của tập hợp các ký hiệu chữ viết thông qua sự
nhận biết, phân biệt bằng mắt các ký hiệu này.[27].
Trong cuốn “Kỹ năng đọc hiểu văn” của tác giả Nguyễn Thanh Hùng
coi “Đọc không phải chỉ là tái tạo âm thanh từ chữ viết mà còn là qúa trình
thức tỉnh cảm xúc, qúa trình tri giác và nhuần thấm tín hiệu để giải mã ngôn
ngữ, mã nghệ thuật, mã văn hóa đồng thời với việc huy động vốn sống, kinh
nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý nghĩa
vốn có của tác phẩm”. “Đọc là hoạt động của con người. Đọc không phải chỉ

là hoạt động nhận thức nội dung ý nghĩa từ văn bản mà còn là hoạt động trực
quan sinh động giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong nếm trải
của con người. Đọc văn còn là hành động mang tính chất tâm lí, một hoạt
động tinh thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa từng người”. “Qua đọc
hiểu, năng lực và tri thức văn hoá của từng người được bộc lộ rõ, đồng thời
làm xuất hiện kinh nghiệm văn hoá đọc và làm biến đổi cách thức, chất lượng
và tầm văn hoá đọc”[12].

15


Tác giả Trần Đình Sử quan niệm dạy học đọc (hiểu) tác phẩm văn
chương khá toàn diện. “Đó là một quá trình bao gồm việc tiếp xúc với văn
bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được
vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông
điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả các giá trị tự thân của
hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc
trực tiếp với các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu
nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch
văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải
những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong
ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, học sinh sẽ biết cách đọc để tích
luỹ kiến thức, đọc để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện.[46].
Theo tác giả Đinh Hồng Thái: đọc được hiểu theo hai nghĩa: Đọc (văn
bản) thành tiếng và đọc hiểu văn bản (có thể đọc thành tiếng hoặc đọc thầm).
Khái niệm chúng ta đang bàn ở đây theo nghĩa thứ hai: đọc hiểu văn bản.[40].
Jenne M.Machado, trong cuốn “Những kinh nghiệm của trẻ mầm non
trong nghệ thuật ngôn ngữ” cho rằng đọc là một phần của quá trình giao tiếp.
Đọc được xem là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau,
đó là việc sử dụng một bộ phận có hai phương diện. Phương diện thứ nhất đó

là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách
trung thành những dòng văn bản, ghi lại lời nói âm thanh. Quá trình này gọi là
quá trình đọc thành tiếng. Phương diện thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng
tình cảm, sử dụng bộ mã chữ -nghĩa, tức là mối quan hệ giữa các ký hiệu chữ
viết và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu nội dung
những gì được đọc. Quá trình này được gọi là quá trình đọc hiểu.[22]
Đọc là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình thức âm thanh để
người đọc và người nghe hiểu được những điều mà tác giả đã nói qua chữ viết.

16


Đọc là một quá trình nhận thức, một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở của
việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác
để phân biệt các ký hiệu chữ viết trong tập hợp của nó mà qua đó hiểu được
nghĩa, biết được nội dung.
Thuật ngữ “đọc” được sử dụng trong nhiều nghĩa: Theo nghĩa hẹp, là
việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh; theo nghĩa rộng, “đọc”
được hiểu là sự vật chất hóa bên trong nghĩa là hiểu được ý nghĩa, nội dung
của văn bản thông qua sự nhận biết, phân biệt các ký hiệu chữ viết.[12]
Theo Durkin hầu hết các chương trình đọc viết được xây dựng trên cơ
sở của một trong hai quan điểm sau về đọc:
Một là: Đọc được miêu tả như một hành vi thị giác nhằm giải mã các ký
hiệu, nhận biết và nói âm các chữ cái cấu tạo nên từ, đánh vần và tạo từ từ các chữ
cái đó, người đọc áp dụng các luật về cú pháp và ngữ nghĩa học để hiểu nghĩa.
Hai là: Đọc được định nghĩa là một hành vi trí tuệ nhằm hiểu, nắm bắt,
rút được nghĩa trong văn bản. Theo quan điểm này, trong quá trình đọc bằng
cách kiểm chứng lại những giả định về nghĩa của các ký hiệu chữ viết, người
đọc sử dụng kiến thức đã có về ngôn ngữ của bản thân để đọc văn bản.[25]
Theo tác giả Trần Thị Nga, đọc phải được xem như là một hành vi trí

tuệ và nhiệm vụ chính của chương trình đọc viết, là giúp trẻ hiểu được ý
nghĩa của những gì trẻ đọc. Hoạt động đọc viết phải được xem như các thành
phần cấu thành của ngôn ngữ trọn vẹn.[25].
Trong cuốn “Phương pháp đọc diễn cảm”, tác giả Hà Nguyễn Kim
Giang viết: Trẻ em đọc cái mình không thể tự hiểu, đọc bằng chữ viết và câu
văn với những sắc thái biểu đạt thẩm mỹ riêng của nó nên việc đọc của các
em cần nhờ sự giúp đỡ của người lớn và mang tính tập thể.[8]
Như vậy đọc được xem như là một hoạt động có các thành tố tiếp nhận
dạng thức chữ viết của từ, chuyển dạng thức chữ viết thành nghĩa có âm thanh

17


hoặc không có âm thanh và thông hiểu những gì được đọc. Trẻ không tự đọc
hiểu, đọc bằng chữ viết với những câu văn có sắc thái biểu cảm riêng mà cần
có sự giúp đỡ của người lớn.
1.1.2. Khái niệm “khả năng đọc”
Văn hoá đọc, với tư cách văn hoá hành vi của mỗi cá nhân con người,
biểu hiện ở khả năng lựa chọn sách, kỹ năng đọc và lĩnh hội sách cũng như
cách thức ứng xử với sách báo, là sự thể hiện rõ ràng nhất đặc điểm tâm lý và
nhân cách của mỗi cá nhân, được hình thành từ lứa tuổi ấu thơ và phát triển
trong suốt cuộc đời con người.
Trẻ em được coi là giai đoạn đầu tiên của cuộc đời con người, giai đoạn
chuẩn bị các phẩm chất và năng lực cần thiết để tham gia lao động xã hội.
Việc tạo dựng thói quen tốt cho trẻ mầm non (từ 1-6 tuổi) là một việc làm
quan trọng để từ đó hình thành nhân cách cho trẻ em. Một trong những thói
quen có ảnh hưởng sâu sắc đối với sự phát triển tư duy, đạo đức, lối sống,..
của trẻ em đó là thói quen đọc sách.
Theo từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê, khả năng là cái có thể xuất hiện,
có thể xảy ra trong điều kiện nhất định [28]. Định nghĩa khác cho thấy, khả

năng là cái vốn có về vật chất hoặc tinh thần để có thể làm được việc gì đó.
Như vậy có thể nói rằng khả năng là tiềm năng vốn có của một cá nhân giúp
cho người đó thành công trong việc thực hiện một công việc, một hoạt động
nào đó.
Khả năng biết đọc, biết viết là một yếu tố vô cùng quan trọng trong năng
lực của mỗi học sinh khi ngồi trên ghế nhà trường, nó là cơ sở quan trọng để học
sinh lĩnh hội tri thức, trưởng thành trong học vấn và kinh nghiệm.
Một trào lưu giáo dục sớm đã xuất hiện nhiều nước trên thế giới, trong
đó có quan niệm mới là dạy trẻ đọc sớm của Glenn Doman, Phùng Đức Toàn.
Việc dạy trẻ đọc sớm sẽ kích hoạt tiềm năng kỳ diệu của bộ não trẻ. Và như

18


vậy không có nghĩa là chúng ta lấy đi tuổi thơ của trẻ bằng cách bắt trẻ học
sớm mà là “giáo dục tố chất” “khai mở tiềm năng của bộ não trẻ”.
Trong lĩnh vực đọc - viết ở tuổi mầm non thì có nhiều khái niệm như
“làm quen với đọc”, “chuẩn bị khả năng tiền đọc viết”, “phát triển khả năng
đọc”...Như vậy, làm quen mới chỉ là bắt đầu tiếp xúc để biết, để sử dụng. Một
trong những người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ khả năng tiền đọc, viết là
Marie Clay, nhà nghiên cứu giáo dục người New Zealand. Tác giả quan tâm
đến các hành vi của trẻ khi chúng sử dụng sách và tài liệu, dụng cụ đọc viết
để bắt chước các hoạt động đọc và viết mặc dù trẻ thực sự không thể đọc viết
theo cách thông thường. Tiền đọc – viết không phải là một số kỹ năng cô lập
mà là một tập hợp các kỹ năng của quy trình phát triển mà trẻ coi đó như là
một phương tiện để đạt được mục tiêu đọc, viết. Theo Sulzby khả năng tiền
đọc viết được coi là những hành vi đọc viết xuất hiện trước tiên làm nền tảng
cho phát triển thành khả năng đọc viết thông thường [41, tr 149].
Theo Vugotxki khả năng tiền đọc viết của trẻ cũng được phát triển dựa
theo những hành vi mẫu và được người lớn hỗ trợ thông qua việc khuyến

khích trẻ thay đổi và chon lọc những ý tưởng của bản thân để làm cho nó phù
hợp với quan điểm thông thường.[41, tr 150].
Khái niệm về khả năng tiền đọc – viết còn được nhà tâm lí giáo dục học
Katheleen A, tạp chí Young children 8/2003 định nghĩa là “đọc viết được xuất
hiện ban đầu ở trẻ, trẻ được phát triển trong sự phát triển của ngôn ngữ nói,
qua giao tiếp và trò chuyện”. Khả năng đó được coi là sự cố gắng thể hiện đầu
tiên của một đứa trẻ để tạo ra và sử dụng chữ viết theo chiều hướng có ý
nghĩa.[41, tr 154].
Như vậy, khả năng tiền đọc viết là khả năng khởi đầu cho việc đọc viết
trước khi trẻ có thể đọc viết một cách thực thụ. Nó được coi như sự cố gắng
đầu tiên của đứa trẻ trong việc thực hiện hành vi đọc. Khả năng tiền đọc viết

19


×