Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn một số BIỆN PHÁPGIÁO dục kỹ NĂNG SỐNG CHO TRẺ mẫu GIÁO 5 6 TUỔI ở TRƯỜNG mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.24 KB, 24 trang )

“MỘT SỐ BIỆN PHÁPGIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ MẪU
GIÁO 5 - 6 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON"
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then chốt của giáo dục thế
giới .Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hiệp Quốc như
WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp quốc),
UNESCO ( Tổ chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung
sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “ Bởi lẽ những
thử thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao
hơn là những kỹ năng đọc, viết, tính toán tốt nhất”.
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong
trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu
tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động
giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý
thức sáng tạo. Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban
hành kèm theo thông tư số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009)
có mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục
tiêu trên, nội dung quan trọng cần đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ năng
sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để
kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ nào cũng muốn con mình được
tham gia và trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó
trẻ lĩnh hội được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng
ứng phó với các tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp
một, các bậc phụ huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và
khả năng để theo học thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không.
Đối với giáo viên mầm non: GV thường lo lắng đối với những trẻ có một số vấn
đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến



trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt,
không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không
thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất
nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những KNS cơ bản ở
trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong
sinh hoạt hàng ngày.
Đối với trẻ mầm non: Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị
sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều
kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung
quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với
các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm
kiếm sự giúp đỡ từ người khác….Do đó, việc dạy KNS cho trẻ là rất cần thiết
bởi KNS thúc đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành
vi ứng xử phù hợp ngay từ độ tuổi mầm non.
Với vai trò là tổ trưởng tổ 5 tuổi nhiều năm, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm
sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh
trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi
của trẻ. Một tập thể trẻ có KNS tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận,
vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Vì vậy tôi chọn đề tài một số biện pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuôi ở trường mầm non.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non
Đại Tự, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục KNS
cho trẻ mầm non,“giúp trẻ chuyển tải những gì mình biết( nhận thức), những gì
mình cảm nhận( thái độ), và những gì mình quan tâm( giá trị) thành những khả
năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm như thế nào ( hành vi) trong
những tình huống khác nhau của cuộc sống hàng ngày. Từ đó phát triển toàn
diện nhân cách trẻ.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:



Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ở
trường mầm non Đại Tự.
Nghiên cứu thực tiễn để đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non.
4. Đối tượng nghiên cứu :
Trẻ mẫu giáo5-6 tuổi và các hoạt động giáo dục giúp trẻ có kỹ năng sống tích
cực ở trường Mầm non Đại Tự -Yên Lạc-Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5. 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận .
Phân tích tổng hợp các tài liệu có liên quan đến thực tiễn và công tác giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
* Phương pháp điều tra: Điều tra về mức độ trẻ đạt được các nhóm KNS
Tìm hiểu các biện pháp dạy KNS cho trẻ đạt kết quả cao nhất.
*Phương pháp quan sát : Quan sát các biểu hiện , hành vi, các kỹ năng của trẻ
thông qua ngôn ngữ và hoạt động hàng ngày.
* Phương pháp đàm thoại: Đàm thoại với các đồng nghiệp để trao đổi các kinh
nghiệm hay trong dạy KNS cho trẻ. Đàm thoại với phụ huynh để tìm hiểu đặc
điểm của trẻ khi ở gia đình. Đàm thoại trực tiếp với trẻ trong quá trình thực hiện
các biện pháp giáo dục.
* Phương pháp trực quan: Bao gồm phương pháp làm mẫu, làm gương… giúp
trẻ quan sát và bắt chước thực hành thường xuyên những kỹ năng sống cần hình
thành.
* Phương pháp thực hành:Bao gồm các phương pháp trò chơi, giao việc, trải
nghiệm. Những phương pháp này giúp trẻ bắt chước/ tập thử và tích cực thực
hành thường xuyên các kỹ năng sống GV cần dạy trẻ.
* Phương pháp toán học :Xử lý những số liệu khảo sát, đã đạt được kết quả,
mức độ đạt được, để rút ra kinh nghiệm hay cho vấn đề nghiên cứu.



5. Giới hạn nghiên cứu:
Nghiên cứu tại lớp mẫu giáo 5-6 tuổi ở trường Mầm non Đại Tự - Yên Lạc
-Vĩnh Phúc.
6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
* Phạm vi : Nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở mẫu giáo 5-6
tuổiở trường mầm non Đại Tự năm học 2012-2013.
* Kế hoạch :
Thời gian thực hiện bắt đầu từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013
- Tháng 6 -7 năm 2012: Nghiên cứu lý luận của đề tài
- Từ tháng 8 đến tháng 9 năm 2012: Nghiên cứu thực trạng và giải pháp giáo
dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo5-6 tuổi ở trường mầm non Đại Tự.
- Từ tháng 9 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013: Đưa các giải pháp đã nghiên cứu
áp dụng vào thực tiễn công tác “giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
ở trường mầm non Đại Tự”.
PHẦN II: NỘI DUNG
1.

Cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.

1.1. Khái niệm về kỹ năng sống:
Là khả năng thích nghi vàhành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó
hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”(Theo định nghĩa
Tổ chức Y tế Thế giới)
1.2.Vai trò của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát triển
nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách
trẻ. Phát triển về các mặt thể chất, tình cảm-xã hội, ngôn ngữ, nhận thức , giúp
trẻ sẵn sàng đi học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là:
- Giúp trẻ được an toàn , khỏe mạnh, khéo léo bền bỉ, có khả năng thích ứng với

thay đổi của điều kiện sống.


- Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với mọi
người xung quanh.
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người khác, có khả
năng giao tiếp tốt với mọi người.
- Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động
học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn thành
nhiệm vụ…
1.3.Những nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non
Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : Kỹ năng nhận thức về bản
thân, kỹ năng quản lý cảm xúc, kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội,kỹ năng học
tập, kỹ năng tương tác…Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các
nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với
mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng
kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt
chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình
huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ
có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức,
phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho
trẻ.
Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã triển khai được một số năm
học, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và chưa đồng đều giữa các trẻ. Nếu
giáo viên thực hiện chuyên sâu và có phương pháp giáo dục phù hợp thì kết quả
trên trẻ sẽ có bước tiến bộ nhanh chóng.
2. Thực trạng dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo5-6 tuổi ở trường mầm non Đại
Tự trong những học vừa qua.
Trường Mầm non Đại Tự là trường đạt chuẩn quốc gia, các phòng học đều mới
xây dựng nên sạch đẹp và kiên cố. Ban giám hiệu nhà trường tích cực bồi dưỡng

cho GV về chuyên môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt
động giáo dục mầm non, tạo mọi điều kiện giúp tôi có đủ những nguyên vật liệu,


tài liệu để làm đồ dùng dạy học và đồ chơi cho trẻ. Sở giáo dục, PGD&ĐT
huyện thường xuyên quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất và các thiết bị đồ chơi phục
vụ việc dạy và học cho các lớp 5-6 tuổi.
Năm học 2012-2013 tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5-6 tuổi tại khu
trung tâm của trường: Là lớp 5-6 tuổi với số cháu 30, trong đó 16 cháu nữ, 14
cháu nam, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng cơ bản.
Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất,
phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, biết cảm thụ cái
hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ.
Một số năm học trở lại đây, riêng nội dung giáo dục trẻ 5 tuổi có ban hành bộ
chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi thông qua 4 lĩnh vực - 28 chuẩn- 120 chỉ số với yêu
cầu GV lồng ghép các chỉ số này vào mục tiêu từng chủ đề sao cho phù hợp để
qua đó dạy trẻ các kiến thức và kỹ năng cần thiết, chuẩn bị về tâm thế và thể
chất cho trẻ 5 tuổi lên lớp một. Đa số GV đã lồng ghép chỉ số vào mục tiêu phù
hợp nhưng một số chỉ số chưa đạt được ở chủ đề trước GV thường bỏ qua mà
không rèn tiếp trẻ hoặc đưa tiếp vào mục tiêu của chủ đề sau cho nên nhiều trẻ
bị bỏ qua các kỹ năng của chỉ số đó.
Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tại trường mầm non. Tôi gặp
những khó khăn và thuận lợi như sau:
2.1. Thuận lợi
Trường, lớp có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần
thiết trong các hoạt động giáo dục.
Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh
hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà
trường, của nhóm lớp.

GV có trình độ chuyên môn đại học, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng
sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng


chuyên môn tại trường, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mầm non.
Tài liệu hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có các chỉ số, hướng
dẫn cách đánh giá trẻ rõ ràng và cụ thể nên việc dạy trẻ các kỹ năng và đánh giá
kết quả trên trẻ rất thuận lợi, chính xác, từ đó biết trẻ nào đạt được và chưa đạt
được để tiếp tục rèn trẻ vào các chủ đề tiếp theo.
2.2. Khó khăn
Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và biện
pháp dạy trẻ các nội dung KNS nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa tương đương với
nhau.
Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số trẻ
lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ
năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ
huynh là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các
anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không
dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ
mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu
cầu trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần đòi mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà
không biết điều đó có phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi
được món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng là một
trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu KNS.
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức
một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy KNS cho
trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên.
2.3. Kết quả khảo sát ban đầu

Trẻ có KNS không đồng đều. Một số trẻ ngoan ngoãn và nhanh trí thì có nhiều
kỹ năng cơ bản tốt, với sự hướng dẫn, động viên của cô giáo trẻ luôn biết phát


huy những kỹ năng tốt đó. Ngược lại , một số trẻ nhận thức còn chậm lại hay
nghịch ngợm nên kết quả dạy KNS của cô trên trẻ đó đạt kết quả thấp.
Giáo viên đã tích cực thực hiện lồng ghép nội dung dạy KNS cho trẻ vào các
hoạt động trong ngày , đã đưa các chỉ số phát triển trẻ 5 tuổi vào mục tiêu của
chủ đề để rèn một số kỹ năng qua các chỉ số đó nhưng tổ chức chưa linh hoạt,
chưa sáng tạo nên chưa kích thích tối đa sự hứng thú của trẻ và sự tham gia nhiệt
tình của phụ huynh.
Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp thì thực hiện các
KNS tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi về nhà được bố mẹ và người thân
chiều chuộng thì trẻ lại không thực hiện một số KNS trẻ có mà luôn phụ thuộc
vào người khác( vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc bất cứ
lúc nào nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ…)
Kết quả khảo sát đầu năm học 2012 - 2013 về các kỹ năng sống của 30 trẻ lớp 5
tuổi A:

Tên kỹ năng

Số trẻ đạt

Trẻ chưa đạt

- Nhóm kỹ năng nhận thức bản thân 18 = 60 %

12 = 40 %

- Nhóm kỹ năng tự tin


20 = 66.6%

10 = 33.4%

17 = 56.6 %

13= 43.3%

- Nhóm kỹ năng học tập

16 = 53.3%

14 = 46.7

- Nhóm kỹ năng hợp tác

21 = 70%

9 = 30%

- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ
xã hội

Mặc dù thực trạng giáo dục KNS cho trẻ ở trường còn nhiều khó khăn, tuy nhiên
tôi đã dần khắc phục, nghiên cứu các giải pháp và thực hiện giáo dục KNS cho
trẻ theo mục tiêu của chương trình giáo dục đã đề ra, chuẩn bị tốt cho trẻ trước
khi bước vào lớp một ở trường phổ thông.



3. Các giải pháp, kinh nghiệm giáo dục KNS cho trẻ mẫu giáo lớn 5-6 tuổi ở
trường mầm non Đại Tự.
3.1. Nâng cao nhận thức về việc dạy trẻ kỹ năng sống cho giáo viên mầm non.
Trong những năm học trước, giáo viên chủ nhiệm các lớp thường tự tìm hiểu các
kiến thức, phương pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ một cách riêng lẻ nên có một
số giáo viên chưa tích cực tự bồi dưỡng do đó hiểu chưa sâu về sự cần thiết phải
dạy kỹ năng sống cho trẻ, chưa biết cần phải có phương pháp nào để kết quả dạy
là tốt nhất.
Do đó, đầu năm học tôi đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường mua bổ xung 1 số
tài liệu có nội dung giáo dục KNS cho trẻ mầm non cho tất cả giáo viên tổ 5
tuổi( Vd: tài liệu “ Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”….).
Đồng thời, tôi đã tổ chức thảo luận với giáo viên trong tổ,trong trường về thực
trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc dạy trẻ các KNS cần thiết, qua đó giúp
giáo viên hiểu được rằng chương trình học thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các
kiến thức trong suốt năm học, và thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp
cận một cách cân bằng, giáo viên biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức,
cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp
xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn
sàng và có khả năng tập trung vào việc học một cách tốt nhất.
3.2. Xác định những KNS cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn
Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên
lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ
cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ cần được giáo dục
chính là những KNS như:
- Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết , thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với mọi
người.



- Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo nhóm,kỹ
năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
- Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ trước những tình
huống nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân.
- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử phù hợp với người
xung quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng
tuân thủ các quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ.
- Nhóm kỹ năng học tập : Ý thức trách nhiệm, Kỹ năng thiết lập và thực hiện
mục tiêu.
Để xác định được những kỹ năng này tôi cần đọc, nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên cho giáo viên mầm non và các tài liệu khác về giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ do các nhà xuất bản có uy tín phát hành.
3.3. Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
3.3.1. Hình thành kỹ năng tự tin:
- Theo Dale - một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì “Nếu bạn thật
sự tin tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được ước mơ, bạn có thể bước trên
đường bằng phẳng mà người khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong
những kỹ năng đầu tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng
của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như
trong mối quan hệ với những người khác,trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày
tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e ngại. KNS này giúp trẻ nhanh
chóng thực hiện được mong muốn của mình đồng thời có khả năng hòa nhập với
cộng đồng.
- Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
+ Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ đặc điểm
sự tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn thì không
thể có sự tự tin. Do đó , tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng
của trẻ mọi lúc mọi nơi một cách kịp thời.



Ví dụ: khi trẻ xung phong lên hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất
mạnh dạn…để lần sau trẻ muốn và không e ngại khi biểu diễn trước đám
đông…..
+Nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên trẻ một cách
chân thành, không quá lời khen, nghĩ một đường nói một nẻo. Và trong mọi việc
tôi luôn nói “ con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin vào bản thân cho
trẻ.
Ví dụ:Trong giờ thể dục, một sốtrẻ sợ độ cao nên không dám trèo lên xuống
thang, tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt động đó ngay lập tức mà sẽ
khuyến khích trẻ với lời động viên “ con có thể trèo được…”để trẻ tự tin thể
hiện bản thân mình trước các bạn.
+Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ : Tài năng đặc biệt cũng có thể làm tăng
thêm sự tự tin cho trẻ. Tôi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi đắp
sở trường đặc biệt của trẻ.
Ví dụ: trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở lớp để trẻ được thể hiện
sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí lớp cùng cô... Đồng thời trao
đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ ngoại khóa để nâng cao tài năng
cho trẻ….
+Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ không thể
trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai lầm đó để
trao đổi thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai lầm
nhưng điều quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc phải sai lầm
đó nữa. Đồng thời không phê bình hay chê bai trẻ quá thẳng thắn sẽ làm trẻ mất
hứng thú và tự ti về bản thân mình.
Ví dụ: khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại như vậy,
tôi bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với nhau. Sau
đó hỏi 2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là tranh giành nhau không
và giáo dục trẻ lần sau nên chơi đoàn kết với bạn bè ...



+ Quy định hành vi : Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù hợp với lớp học
nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho trẻ.
Yêu cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và làm
việc có kế hoạch cho trẻ trong lớp
Ví dụ : Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhìn lên lịch xem hoạt động đầu
tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ cùng chuẩn bị hoạt động đó với cô...
+ Tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của trẻ :
Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì? Khi con tự tin
con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc sử dụng
những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như “ con hãy kể những việc con muốn tự
làm, Con học cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm, Khi tự
làm con cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp trẻ hiểu rằng
khi trẻ tự tin là khi trẻ mạnh dạn nói , làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của
mình với mọi người. Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ sẽ đạt
tốt hơn.
Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân mình
càng nhiều càng tốt( Vd: tự lấy đồ dùng học tập, hoặc dạy trẻ cách nhờ 1 người
bạn khác giúp đỡ mình 1 việc gì đó..)
3.3.2. Hình thành kỹ năng hợp tác:
- Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi trẻ
mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có người
khác giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh
chóng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh
để chia sẻ công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ.
- Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm
việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.



Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1 đối
tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những
quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn
khác.
- Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
+ Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “Con và
bạn đã cùng nhau làm những việc gì?Trò chơi nào con thích hơn khi có bạn
cùng chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được việc
này không? Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trò chuyện giúp
trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi
làm việc.
+ Trò chơi “ đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đôi với nhau. Các
đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng ngồi xuống hoặc cùng đứng
lên mà không buông tay nhau ra.
+ Trò chơi “ Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh 1 cái bàn
và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau.
Nhiệm cụ của trẻ là xếp những khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt.
+ Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng chơi, làm việc
với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó.
+ Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong chương trình giáo
dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”( có các cảnh mọi người hợp tác với nhau
để nhổ được củ cải)…Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo truyện “đôi
bạn tốt”…
3.3.3. Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân :
- Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm tích
cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá nhân
có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản
thân trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì? Điểm
mạnh và sở thích của mình là gì để kết nối chúng vào những lĩnh vực liên quan



và phát huy chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp trẻ
dự đoán được những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách khắc
phục khó khăn đó.
- Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau:
+Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi như: Con là
ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào? Con thích gì và không thích gì?
Con có mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những
điểm gì khác với bạn?.....
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn tôn
trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục để
hạn chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn
trọng tất cả các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn
lớp mình.
Ví dụ: Trong lớp có một cháu bị khuyết tật, trẻ trong lớp không chơi cùng với
bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng bạn đó có rất nhiều điểm tốt như
ngoan, chăm đi học, bạn hát hay…các con cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với
bạn. Đồng thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng , yêu thương , tôn trọng
trẻ đó để trẻ trong lớp noi theo.
+Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục tiêu đó: Tôi
luôn đặt yêu cầu cao cho tất cả các trẻ trong lớp, Với sự hướng dẫn của tôi, từng
trẻ đã có khả năng tham gia hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động nào
tôi cũng khuyến khích để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ chứ không ép
buộc mọi trẻ phải tham gia. Tôi gợi ý để trẻ thử thách với chính mình. Thay vì
cạnh tranh với trẻ khác, tôi khuyến khích trẻ cạnh tranh với chính mình.
Ví dụ: Nhảy xa sử dụng thước dây, xếp hình bằng đồng hồ bấm giây…lần sau
tốt hơn lần trước…
+ Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công là một
trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân. Trẻ ở
lứa tuổi này cần trải qua thành công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm giác



tự tin rằng mình làm được những điều tốt. Thực tế , có một số trẻ sợ thất bại đến
nỗi không dám thử một hoạt động nào đó, lúc này tôi sẽ giúp trẻ đạt được thành
công trong việc đó từng bước một đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm
tự tin vào mình. Trẻ sẽ tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy
rằng cô tự hào về trẻ.
+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho trẻ:
Ví dụ: Hoạt động “ soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình dáng của
mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác như làm
điệu, đội mũ, mặc quần áo…. . lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong
gương, người trong gương có dáng yêu không?
Hoạt động “Hái hoa dân chủ”:Trẻ chọn 1 bông hoa theo ý thích trong đó có nội
dung “ Hãy nói cho chúng tôi về….”( có thể là gia đình, đồ chơi bạn thích, món
ăn bạn thích…) và tôi sẽ đọc to câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói về
điều đó theo hiểu biết của mình.
Hoạt động “ Tôi có thể vẽ”:Tôi tạo ra 1 tờ giấy lớn và dán lên tường. Tôi cổ vũ
trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm được vào đó để trẻ cả lớp tạo thành
bức tranh tổng hợp lớn. Với hoạt động này trẻ sẽ thấy được sự phát triển tiến bộ
của bản thân qua từng giai đoạn.
Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về cái tên
của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều làm trẻ
hứng thú. Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ
về điều này, sau đó tôi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có thể vẽ lại
điều đó vào bức tranh và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực hiện xong có
thể cho trẻ diễn tả lại ý nghĩa của bức tranh mà trẻ đã vẽ.
3.3.4. Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
- Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời : học cách làm
chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như
của người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới rộng



lớn xung quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào khoảng 6
tuổi thì trẻ có thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống sau này
- Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ. Yêu cầu trẻ biết
ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối quan hệ cũng như tương tác với
cảm giác thoải mái với những người khác đồng thời biết điều chỉnh hành vi phù
hợp với hoàn cảnh. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi thực hiện 1 số biện
pháp sau:
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:
Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến của
người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa
đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ
thấy những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận,
sợ hãi, còn nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh
thần thoải mái, vui vẻ…
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý do vì sao lại
như vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ bằng lời nói về sự việc đó. Sau
đó giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau
chơi đoàn kết với bạn hơn.
+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp phải sẽ có
tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm cách giải
quyết vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận dụng
cho trẻ quan sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh chóng và
hiệu quả nhất.
Ví dụ: khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gậm tủ mà tay không với tới được, tôi gợi ý
để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…
+Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ tương
tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử trong
xã hội. Vì vậy, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong lớp

như tổ chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt động


góc…để các trẻ được làm việc theo nhóm với nhau. Trong quá trình hoạt động
luôn khuyến khích trẻ giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi,biểu lộ mong
muốn một cách thích hợp, biết giúp đỡ bạn trong khi chơi.
+ Tổ chức 1 số trò chơi :
Giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói. Ví dụ: Hoạt động“ điện thoại bạn
bè”: Cho 2 trẻ chơi gọi điện cho bạn ( 2 bạn ở gần nhau). Theo dõi quá trình trò
chuyện của trẻ. Sau đó hỏi trẻ : Hai người cùng nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì
không? Khi nào con nghe thấy tiếng bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được,
khi không nghe được?
Giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác. Ví dụ: Hoạt động“ chúc bạn
chóng khỏe”: Nếu trong lớp có 1 trẻ bị ốm không đến lớp được, Tôi sẽ tổ chức
cho trẻ cả lớp làm 1 tấm thiệp để gửi lời thăm hỏi và chúc bạn nhanh khỏe rồi
gửi tới bạn bị ốm…
3.3.5. Hình thành kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng nhưng có
vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở trường phổ
thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác định cụ thể
mục tiêu, hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ trao đổi
cách thực hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình, đồng
thời tôi cũng khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ, giúp đỡ
những trẻ thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao với tâm trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ ngôi nhà (theo đề tài ). Tôi cho trẻ quan sát
và nhận xét 1 số tranh vẽ ngôi nhà đã chuẩn bị trước để gợi ý cách vẽ cho trẻ.
Trong quá trình trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có
sáng tạo như biết vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức tranh, đồng thời giúp đỡ
những trẻ chưa biết cách thực hiện hoàn thành sản phẩm của mình.



Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập và thực
hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động học có chủ
đích.
3.5. Giúp trẻ phát triển các KNS qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi,
lành mạnh trong nhà trường.
Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong
đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một
cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ
chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù
hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt
động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ.
Cụ thể như sau:
* Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên thi làm đồ
chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm
non.
* Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác phù
hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia
hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã
hội, cá nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước
cho trẻ. ( Ví dụ:tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt
động ngoài trời vào các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được
xem các kịch bản rối qua các câu chuyện cổ tích, giao lưu hỏi đáp giữa các trẻ
về nội dung các câu chuyện)
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
- Tổ chức cho học sinh lớp 5-6 tuổi thi góc chơi “khám phá khoa học” theo chủ
đề bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan,
những trải nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ .



- Tổ chức cho trẻ đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo từng tổ, từng
nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ
phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại
gia đình.
- Tổ chức cho trẻ tham quan các công trình công cộng ( như trạm y tế, nhà tưởng
niệm Bác Hồ…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê hương
đất nước con người.
- Tổ chức ngày hội “ Bánh chưng, bánh giày” lồng ghép giáo dục qua câu
chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh giày”. Hoạt động vui chơi giải trí này
còn dành thời gian cho học sinh khối 5 tuổi thực hành chuyên đề “Bé tập làm
nội trợ”qua hội thi gói bánh chưng ngày tết.
- Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ tại các góc chơi với chủ đề “ Bé
hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa xuân,
trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay….
- Tổ chức cho trẻ lớp 5 tuổi tham quan, vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp
đầu xuân như: Đập heo, lò cò, cướp cờ tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã,
giúp trẻ có dịp đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những điều mơ ước cho
mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia trực
tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng
hợp tác với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát
triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
3.5. Tạo môi trường thuận lợi để dạy trẻ KNS
Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ. Có môi
trường trong lớp và môi trường ngoài lớp học. Môi trường trong lớp như các góc
hoạt động, đồ dùng học tập… có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và một số
kỹ năng. Môi trường ngoài lớp như góc thiên nhiên, vườn cây…giúp trẻ phát
triển tình cảm xã hội. Để có môi trường dạy kỹ năng sống tốt cho trẻ tôi thực

hiện như sau:


* Tôi đã thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép hàng
ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi
chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh
giá cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ. Cũng từ biện pháp này, tôi
có dữ liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các
biện pháp giáo dục từng trẻ vì mỗi trẻ rất khác nhau và giúp trẻ sớm hình thành
các kỹ năng sống.
* Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa
phần lớn cha mẹ thừơng lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã
trang bị các bảng thông tin dành cho phụ huynh, dán các nội dung cần phối hợp
với phụ huynh vào đó để các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng
giúp nhà trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con
mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những
vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại
các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi
với giáo viên.
*. Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách
cho con trẻ. Tại lớp, tôi đã trang trí, sắp xếp góc thư viện và văn học, để nơi dễ
hoạt động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư viện trường mầm
non”; “tủ sách gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa
trái bốn mùa”; thiết kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa
tầm với của trẻ. Vận động cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho góc thư viện của
trẻ tại trường, tại lớp và ngay ở gia đình.
*. Tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc
nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ
lời hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo”
bằng chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình

ảnh đẹp của các trẻ hiếu động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi,
giúp trẻ thể hiện bản thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố
gắng của trẻ.


3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục KNS cho trẻ:
Để việc giáo dục KNS gây hứng thú và đạt hiệu quả hơn cho trẻ tôi đã tìm và sử
dụng các hình ảnh trong quá trình giáo dục cho trẻ qua sát, (Vd: hình ảnh một
bạn cõng bạn bị khuyết tật đi học…để trẻ biết giúp đỡ người khác.), sử dụng
những bài học có hình ảnh ngộ nghĩnh về các hành vi, các kỹ năng cơ bản cần
dạy trẻ, các câu truyện, đoạn phim có nội dung giáo dục các kỹ năng sống cho
trẻ xem và trò chuyện với trẻ về nội dung các câu truyện đó.
3.7. Tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ để thực hiện dạy trẻ các KNS.
Trước hết, cha mẹ và người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.Ví dụ: Hướng dẫn và nhắc nhở trẻ
đội mũ bảo hiểm khi đi trên xe máy mỗi buổi đến trường, khi tham gia giao
thông.
Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi, tạo các tình huống mở để trẻ khám phá
và giải quyết. Ví dụ: Có thể giới thiệu với trẻ về một số hiện tượng tự nhiên qua
tranh ảnh, bài hát, hoạt động vui chơi hay các tình huống thực gặp trong
ngày( trời mưa, cầu vồng…Từ đó giáo dục trẻ biết cách tránh mưa…)
Tạo mối liên kết với bạn bè cho trẻ khi ở gia đình: Có thể thấy, trẻ thường dễ
dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của riêng chúng hơn là chơi
trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo viên thấy rằng, một số trẻ có khó
khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình
thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha
mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các
mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi?
Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với
một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách

dễ dàng hơn.
Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe : Người lớn nên đọc sách
cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động góc ở một nhóm
nhỏ, hoặc đọc truyện cho trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ.


Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức
cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu
thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo
lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Ví
dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” tôi đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con
khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của
truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v….Trong gia đình, cha mẹ
luôn phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe, hoặc thống nhất giờ đọc sách
của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều đọc sách, báo hoặc
đọc một thứ gì đó của mình.
Khuyến khích trẻ nói lên sở thích, quan điểm của trẻ: Nói chuyện với các thành
viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cố
gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự
kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động xã
hội và các buổi thảo luận sau này.
Ví dụ: Như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì tôi, cha mẹ có
thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh
để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở
góc nhỏ trong nhà.
Cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống: Dạy trẻ biết cách sử dụng
các đồ dùng ăn uống. Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng
ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình. Cụ thể: Trẻ được làm quen với
những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch
sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ

dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải
mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố
trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn
là kỹ năng sống tự lập sau này.


4. Kết quả
Từ khi áp dụng những sáng kiến, kinh nghiệm trên cùng với sự cố gắng nỗ lực
của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm, sự ủng hộ tích cực của
các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy trẻ lớp mình
các KNS cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
4.1. Kết quả trên trẻ:
100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy
tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 5
tuổi được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường tiểu học sau này.
100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ
năng nhận thức; kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động
hàng ngày trong cuộc sống của trẻ; ngoài ra có 85% trẻ được rèn luyện kỹ năng
vận động tinh, kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin
thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục Aerobic.
100 % trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được
bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển.
Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần đạt từ 98% trở lên, trẻ chăm ngoan đạt
từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ,
trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, bát, thìa
….trong các giờ ăn, tự xếp chăn và gối trước và sau khi ngủ ...
Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn thành công việc
của mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày.
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng các giải pháp đạt được cụ thể như sau:
Các kỹ năng được khảo

sát

Trước khi áp dụng
Trẻ đạt

- Nhóm kỹ năng nhận 18 =
thức bản thân

60 %

Trẻ

chưa

đạt
12 = 40 %

Sau khi áp dụng
Trẻ đạt

Trẻ

chưaSo sánh

đạt

28=

2=


93.3%

6.7%

33.3%


10 =

- Nhóm kỹ năng tự tin

20
66.6%

Tác
giả:
=
Nguyễn
Thị Toan MN
Tự -*-

Đại



×