Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tóm tắt luận văn: Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học nghề điện dân dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.45 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều 24, Khoản 2 của Luật Giáo dục chỉ rõ: : “ Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.”
Những năm vừa qua, chất lượng giáo dục có tiến bộ, nhưng so với yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, so với mong muốn của thầy và trò, của phụ
huynh, của Đảng, Nhà nước và xã hội thì chưa đáp ứng.
Một phương pháp dạy học mới “Bàn tay nặn bột” (BTNB) đã được triển khai áp
dụng ở Việt Nam. Đây là phương pháp dạy học đã gặt hái được nhiều thành công ở các
nước có nền giáo dục tiên tiến như Pháp, Mỹ, Canada. Phương pháp “Bàn tay nặn bột”
là một phương pháp dạy học tích cực, khai thác được khả năng tự tìm tòi, sáng tạo của
học sinh.
Trong chương trình đào tạo nghề ở các trung tâm KTTH - HNDN thì đào tạo
nghề Điện dân dụng có nhiều ứng dụng gắn với thực tiễn nên khi giảng dạy đòi hỏi
người dạy bên cạnh trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản cần hướng dẫn học sinh
rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo. Việc này không chỉ giúp học sinh có những kiến thức lý
thuyết gắn liền với thực tiễn, nâng cao khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức
đã học để giải quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống, sau khi tốt nghiệp ra
trường học sinh có thể hoàn thành tốt công việc được giao tại nơi làm việc mà còn có
thể có những ý tưởng mới có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho các công việc đó, đáp
ứng được các yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Từ những lý do trên, cùng với mong muốn được tìm hiểu và nâng cao tính ứng
dụng của phương pháp BTNB trong dạy nghề điện dân dụng, chúng tôi đã chọn đề tài
“Vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học nghề điện dân dụng”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp bàn tay
nặn bột (BTNB) trong dạy học nghề điện dân dụng ở trung tâm KTTH- HNDN, từ đó
vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột để thiết kế hoạt động dạy học nghề điện dân


dụng góp phần phát huy tính tích cực, khả năng tìm tòi kiến thức, hứng thú học tập của
học sinh.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy và học nghề điện dân dụng của giáo viên và học sinh có sử dụng
phương pháp bàn tay nặn bột ở trung tâm KTTH-HNDN.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp bàn tay nặn bột
- Chương trình nghề điện dân dụng
4. Giả thuyết khoa học
Nếu trong quá trình dạy học môn điện ở trung tâm KTTH-HNDN giáo viên vận
dụng phương pháp bàn tay nặn bột theo một quy trình hợp lý, phù hợp với điều kiện cụ
1


thể thì sẽ phát huy được tính tích cực, độc lập sáng tạo của HS. Qua đó nâng cao chất
lượng dạy học ở trung tâm KTTH - HNDN
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến phương pháp dạy học
BTNB.
- Nghiên cứu thực trạng dạy học và việc đổi mới PPDH nghề điện dân dụng ở
trung tâm KTTH-HNDN.
- Thiết kế hoạt động dạy học nghề điện dân dụng có sử dụng phương pháp bàn
tay nặn bột
- Thực nghiệm sư phạm để xác định tính khả thi của việc vận dụng phương pháp
BTNB trong dạy học nghề điện dân dụng.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích lý thuyết, tổng hợp lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu
về lý luận dạy học, phương pháp bàn tay nặn bột, về tính tích cực học tập. Phân tích

tổng hợp, hồi cứu tư liệu, so sánh… để xác định mục đích nghiên cứu và các nhiệm vụ
của đề tài.
- Phương pháp quan sát sư phạm, điều tra phỏng vấn: Điều tra khảo sát tình hình
dạy học nghề điện dân dụng ở Trung tâm KTTH-HNDN hiện nay để tìm hiểu thực
trạng và kiểm nghiệm đánh giá các đề xuất của đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu hỗ trợ khác: Phương pháp chuyên gia, thực nghiệm
sư phạm, thống kê toán học… để thu thập và xử lí số liệu trong kiểm nghiệm đánh giá
các đề xuất của đề tài.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phục lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp “bàn tay
nặn bột” trong dạy học nghề điện dân dụng.
Chương 2: Vận dụng phương pháp “ bàn tay nặn bột” trong dạy học nghề điện
dân dụng
Chương 3: Kiểm nghiệm, đánh giá
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”
TRONG DẠY HỌC NGHỀ ĐIỆN DÂN DỤNG
1.1 KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1.1. Tình hình nghiên cứu và vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột ở nước
ngoài
Ngay từ khi mới ra đời, BTNB đã được tiếp nhận và truyền bá rộng rãi. Nhiều
quốc gia trên thế giới đã hợp tác với Viện Hàn lâm khoa học Pháp trong việc phát triển
phương pháp này như Brazil, Afghanistan, Bỉ, Campuchia, Chili, Trung Quốc, Thái
Lan, Colombia, Hy Lạp, Malaysia, Marốc, Serbi, Thụy sỹ, Đức…. trong đó có Việt
Nam thông qua Hội Gặp gỡ Việt Nam. Tính đến năm 2009, có khoảng hơn 30 nước
tham gia trực tiếp vào chương trình BTNB.
2



1.1.2. Tình hình nghiên cứu và vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột ở trong
nước
Qua tìm hiểu nội dung, phạm vi của các công trình nghiên cứu cũng như các tài
liệu liên quan đến đề tài, tác giả nhận thấy phương pháp bàn tay nặn bột đã được áp
dụng khá nhiều ở cấp tiểu học và THCS và đang áp dụng ở cấp THPT.
1.2. CÁC KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN
1.2.1. Các khái niệm công cụ
1.2.1.1. Bàn tay nặn bột
“Bàn tay nặn bột” là mô hình giáo dục tương đối mới trên thế giới, có tên tiếng
Anh là “Hands On”,tiếng Pháp là “La main à la pâte”, đều có nghĩa là “bắt tay vào
hành động”; “bắt tay vào làm thí nghiệm”, “bắt tay vào tìm tòi nghiên cứu” [24].
“Bàn tay nặn bột” được hiểu là phương pháp tạo cho học sinh tích cực, chủ động
trong học tập. Học sinh phải tự làm các thực nghiệm để tiếp thu các kiến thức khoa
học. Các em tiếp cận tri thức khoa học như một quá trình nghiên cứu của chính bản
thân [39]
1.2.1.2. Phương pháp bàn tay nặn bột
Phương pháp dạy học "Bàn tay nặn bột" (BTNB), tiếng Pháp là La main à la
pâte - viết tắt là LAMAP; tiếng Anh là Hands-on, là phương pháp dạy học khoa học
dựa trên cơ sở của sự tìm tòi - nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học các môn khoa học
tự nhiên. Phương pháp này được khởi xướng bởi Giáo sư Georges Charpak (Giải
Nobel Vật lý năm 1992). Theo phương pháp BTNB, dưới sự giúp đỡ của giáo viên,
chính học sinh tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua
tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra để từ đó hình thành kiến
thức cho mình [7].
Triết lí căn bản của phương pháp “Bàn tay nặn bột” (BTNB) là dạy học dựa vào
các hoạt động tìm tòi, nghiên cứu, khám phá thực tiễn để chính học sinh tìm ra câu trả
lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống, từ đó rút ra các kiến thức và hình thành
kĩ năng theo yêu cầu dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Với triết lí đó, phương pháp

BTNB đề cao vai trò chủ thể tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh, đặt học sinh vào
vị trí của một nhà khoa học. Học sinh học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong
hành động, học tập tiến bộ dần bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, trao đổi
với bạn bè, trình bày quan điểm của mình, đối lập với các quan điểm của người khác,
tranh luận tạo ra môi trường học tập tích cực.
Khái niệm LAMAP: LAMAP là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí
nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. LAMAP
chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tòi
nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc
sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra… Với
một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những
hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những
kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức [33].
Phương pháp bàn tay nặn bột (PPBTNB) là phương pháp dạy học tích cực do
Giáo sư Georger Charpak (người Pháp) sáng tạo ra và phát triển từ năm 1995 dựa trên
3


cơ sở khoa học của sự tìm tòi – nghiên cứu. Đây là PPDH được tổng hợp của nhiều
PPDH tích cực khác nhau [23].
1.2.1.3. Nghề điện dân dụng
a) Nghề phổ thông
Trong từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Nghề là công việc chuyên làm theo phân
công lao động trong xã hội. Nghề nghiệp là nghề để sinh sống và để phục vụ xã hội.
Nghề phổ thông là một khái niệm đã được đề cập rất nhiều trong các văn bản
pháp luật thuộc lĩnh vực giáo dục. Tuy nhiên cho đến nay chưa có từ điển nào đề cập
đến khái niệm nghề phổ thông.
Trong luận án tiến sĩ của mình, Nguyễn Toàn có đưa ra khái niệm “ Nghề phổ
thông là nghề phổ biến trong xã hội đã được đưa vào kế hoạch giáo dục của trường phổ
thông, thuộc học vấn phổ thông nhằm dạy HS vận dụng kiến thức phổ thông vào một

lĩnh vực nghề nghiệp và rèn luyện kỹ năng cơ bản của một nghề, tạo điều kiện làm tốt
công tác hướng nghiệp và rèn luyện kỹ năng cơ bản của một nghề, tạo điều kiện làm tốt
công tác hướng nghiệp cho HS phổ thông”.
Trong điều 27, Luật Giáo dục quy định Mục tiêu của giáo dục phổ thông “ Giáo
dục trung học cơ sở nhằm giúp học sinh….Có những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và
hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào đời
sống lao động”, Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp học sinh… có những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để
lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào đời sống lao động”.
Trong quá trình thực hiện giáo dục nghề phổ thông và giáo dục hướng nghiệp,
HS cần được tìm hiểu các lĩnh vực nghề nghiệp phổ biến trong xã hội để định hướng
nghề nghiệp, qua đó cũng thấy rõ sự phù hợp của năng lực bản thân với yêu cầu của
từng nghề cụ thể. Thông qua học nghề, HS vận dụng được kiến thức kỹ năng đã học ở
môn Công nghệ và các môn học khác vào thực tiễn đời sống. Nghĩa là sau khi học
nghề, HS có thể tham gia lao động nghề nghiệp đơn giản tại địa phương hoặc học tiếp
nghề tại các trường chuyên nghiệp. Ở đây quan trọng là HS có thể hiểu về nghề đã học,
hiểu năng lực của bản thân để có sự lựa chọn nghề thích hợp.
b)Nghề điện dân dụng
Nghề điện dân dụng là một nghề phổ thông nên nó cũng có những đặc điểm, tính
chất của nghề phổ thông như:
- Là một nghề phổ biến trong xã hội, mang tính chất học vấn phổ thông, có nội
dung, chương trình thuộc kế hoạch giáo dục phổ thông.
- Mục tiêu của nghề điện dân dụng là cung cấp cho học sinh những tri thức và
hình thành những kỹ năng ban đầu của một số công việc về điện như: An toàn điện, vật
liệu và dụng cụ dùng trong nghề điện, mạng điện sinh hoạt và các đồ dùng điện trong
gia đình.
- Đặc điểm về đối tượng lao động của nghề điện dân dụng là: Nguồn điện một
chiều, xoay chiều điện áp dưới 380. Mạch điện sinh hoạt trong các hộ tiêu thụ, các đồ
dùng điện, các thiết bị đo lường, bảo vệ và điều khiển điện.

4


Từ những đặc điểm và tính chất trên ta có thể khái quát về nghề điện dân dụng
(phổ thông) như sau: Nghề điện dân dụng là một nghề phổ biến trong xã hội được đưa
vào kế hoạch giáo dục trong trường phổ thông, nhằm định hướng nghề nghiệp cho HS
và cung cấp cho HS những kỹ năng kỹ xảo ban đầu về an toàn điện cũng như kỹ năng
kỹ xảo khác về mạng điện sinh hoạt và các thiết bị điện khác trong mạng, làm cơ sở
cho việc tham gia lao động hay tiếp tục học nghề điện ở mức độ cao hơn [5].
1.2.2. Đặc trưng của phương pháp bàn tay nặn bột [23]
Phương pháp bàn tay nặn bột có các đặc trưng sau:
- Nghiên cứu các đồ vật của thế giới thực tế, gần gũi với HS để HS có thể cảm
nhận được dễ dàng.
- Khoa học cũng như các hoạt động khám phá
- Chính HS là người thực hiện các thí nghiệm thực hành, chứ không phải các thí
nghiệm đã được làm sẵn hay thiết kế sẵn.
- GV giúp HS xây dựng nên kiến thức của riêng các em
- Thực hiện trong khoảng thời gian dài liên tục
- HS có một cuốn vở nhật kí học tập của riêng mình với các từ ngữ của riêng
mình
- Chú trọng đến: Đặt câu hỏi, tự chủ, kinh nghiệm
- Cùng nhau xây dựng kiến thức
1.2.3. Nguyên tắc khi sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột [23]
10 nguyên tắc cơ bản của PPBTNB: chia làm 2 nhóm
a) 6 nguyên tắc về tiến trình sư phạm:
- Học sinh quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với
đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó.
- Trong quá trình tìm hiểu, học sinh lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể
thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu chỉ có
những hoạt động, thao tác riêng lẻ không đủ tạo nên.

- Những hoạt động do giáo viên đề xuất cho học sinh được tổ chức theo tiến
trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các
chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho học sinh một phần tự chủ khá lớn.
- Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự
liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt
thời gian học tập.
- Bắt buộc mỗi học sinh phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi
chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em.
- Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật
được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của học sinh.
b) 4 nguyên tắc về những đối tượng tham gia:
- Các gia đình và/ hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của
lớp học.
- Các cơ sở khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu…) giúp các
hoạt động của lớp theo khả năng của mình.
- Các viện đào tạo giáo viên (Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư phạm)
giúp các giáo viên về kinh nghiệm và phương pháp dạy học.
5


- Giáo viên có thể tìm thấy trên internet các website có nội dung về những
môđun kiến thức (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những
giải pháp thắc mắc. Giáo viên cũng có thể tham gia hoạt động tập thể bằng trao đổi với
các đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. Giáo viên là người
chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách.
- Bài học không phải là những nội dung phải học thuộc lòng
1.2.4. Vai trò của giáo viên và học sinh trong việc sử dụng phương pháp bàn tay nặn
bột
1.2.4.1. Vai trò của giáo viên
1.2.4.2. Vai trò của học sinh

1.2.5. Tiến trình dạy học phương pháp bàn tay nặn bột
Tiến trình thực hiện của PPBTNB
Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu của HS

Bước 3: Xây dựng giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm

Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu.
Bước 5: Kết luận, hợp thức hòa kiến thức
Từ bước 2 đến bước 5 là hoàn toàn HS tự làm, GV chỉ giúp đỡ để HS tự xây
dựng kiến thức của riêng mình.
Như vậy, để đạt được mục tiêu của phương pháp BTNB ngoài đòi hỏi HS phải
luôn động não, sáng tạo, hoạt động, thảo luận tích cực để tìm ra kiến thức, thì việc xác
định kiến thức khoa học phù hợp với HS theo độ tuổi là một vấn đề quan trọng đối với
GV. GV phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến thức này không?
Cần thiết giới thiệu kiến thức này vào thời điểm nào? Cần yêu cầu HS tìm hiểu kiến
thức này ở mức độ nào?... Buộc người giáo viên phải năng động, sáng tạo, không theo
một khuôn mẫu nhất định để xác định các kiến thức khoa học xây dựng tình huống
xuất phát cho HS, giáo viên có quyền biên soạn tiến trình dạy học cho riêng mình phù
hợp với từng đối tượng HS và điều kiện nhà trường. [23]
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY
NẶN BỘT
1.3.1. Phương pháp bàn tay nặn bột chính là dạy học tìm tòi - khám phá
Khám phá (chỉ nói riêng trong lĩnh vực khoa học) được dùng để chỉ sự phát hiện
ra cái mới.. Các hoạt động học tìm kiếm kiến thức mới bằng giải quyết xong một
6


nhiệm vụ học tập từ cá nhân HS do trí thông minh hay nghiên cứu các tài liệu từ thảo
luận nhóm… những hoạt động đó của học sinh được gọi là khám phá.

Phương pháp dạy học khám phá được hiểu là phương pháp mà dưới sự hướng
dẫn của GV, thông qua các hoạt động, HS khám phá ra một tri thức nào đấy trong
chương trình môn học.
Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu là một phương pháp dạy và học
khoa học xuất phát từ sự hiểu biết về cách thức học tập của học sinh, bản chất của
nghiên cứu khoa học và sự xác định các kiến thức khoa học cũng như kĩ năng mà học
sinh cần nắm vững. Phương pháp dạy học này cũng dựa trên sự tin tưởng rằng điều
quan trọng là phải đảm bảo rằng học sinh thực sự hiểu những gì được học mà không
phải đơn giản chỉ là học để nhắc lại nội dung kiến thức và thông tin thu được. Không
phải là một quá trình học tập hời hợt với động cơ học tập dựa trên sự hài lòng từ việc
khen thưởng, dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu đi sâu với động cơ học tập
được xuất phát từ sự hài lòng của học sinh khi đã học và hiểu được một điều gì đó.
Dạy học khoa học dựa trên tìm tòi nghiên cứu không quan tâm đến lượng thông tin
được ghi nhớ trong một thời gian ngắn mà ngược lại là những ý tưởng hay khái niệm
dẫn đến sự hiểu biết ngày càng sâu hơn cùng với sự lớn lên của học sinh.
1.3.2. Phương pháp bàn tay nặn bột về mặt cơ sở khoa học dựa trên thuyết kiến
tạo
Theo thuyết kiến tạo: Học tập là tự kiến tạo tri thức [4]
Tư tưởng nền tảng cơ bản của thuyết kiến tạo là đặt vai trò của chủ thể nhận
thức lên vị trí hàng đầu của quá trình nhận thức. Khi học tập, mỗi người hình thành thế
giới quan riêng của mình. Tất cả những gì mà mỗi người trải nghiệm sẽ được sắp xếp
chúng vào trong “bức tranh toàn cảnh về thế giới” của người đó, tức là tự kiến tạo
riêng cho mình một bức tranh thế giới. Từ đó cho thấy cơ chế học tập theo thuyết kiến
tạo trái ngược với cách học tập cơ học theo thuyết hành vi: thay cho việc HS tham gia
các chương trình dạy học được lập trình sẵn, người ta để cho HS có cơ hội để tự tìm
hiểu. HS phải học tập từ lý trí riêng và có thể làm điều này càng tốt hơn nếu không
phải tuân theo một chương trình giảng dạy cứng nhắc, mà có thể tự mình điều chỉnh rất
nhiều quá tình học tập của chính mình.
1.3.3. Ý nghĩa của phương pháp bàn tay nặn bột [40]
a) Phát triển tri giác cho học sinh

b) Phát triển trí tưởng tượng
c) Rèn luyện kỹ năng, kỷ xảo thực hành và thói quen tự tìm tòi và phát triển ngôn ngữ
khoa học cho học sinh
d) Phương pháp bàn tay nặn bột sẽ hình thành thế giới quan khoa học đúng đắn
1.4 THỰC TRẠNG DẠY HỌC NGHỀ ĐIỆN DÂN DỤNG DƯỚI GÓC ĐỘ
PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
Sau khi tiến hành khảo sát GV và HS tại một số trung tâm KTTH – HNDN, tác
giả nhận thấy:
Nhìn chung một số giáo viên đang có những biến chuyển theo hướng tích cực.
Đã nhận thức được tầm quan trọng của việc vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột để
tạo hứng thú học tập cho học sinh học nghề. Tuy nhiên, đó chỉ là một số ít trong thực tế
hiện nay do nhận thức của cá nhân người giáo viên hoặc do cách quản lý của cơ sở,
7


phòng ban chuyên môn địa phương công tác. Thực tế cho thấy ở các bộ môn hướng
nghiệp nghề giáo viên chưa chú trọng giảng dạy một cách đúng mức, trang thiết bị dạy
học còn thiếu. Trình độ, năng lực đội ngũ giáo viên không đồng đều do đó chất lượng
dạy cũng không đảm bảo. Phần lớn các giáo viên chưa chú ý đến tính tích cực của học
sinh học nghề, ít chú ý đến việc hướng dẫn tự học,tự tìm ra kiến thức mà các giáo viên
chỉ truyền thụ kiến thức một cách thụ động.
Đối với học sinh, qua phiếu điều tra tác giả nhận thấy hầu hết các em đều nhận
thức được ý nghĩa của nghề điện dân dụng trong HĐGDNPT nhưng chưa có tính tích
cực học tập. Việc tích cực và tự bản thân tìm ra tri thức của học sinh đa phần chỉ dừng
lại ở việc học bài cũ, làm bài tập về nhà và thực hiện một số yêu cầu của giáo viên. HS
còn coi nhẹ việc học nghề, coi là môn học phụ. Vì vậy, việc áp dụng các phương pháp
dạy học tăng tính tích cực học tập của học sinh tại các nghề học đặc biệt là việc vận
dụng phương pháp “bàn tay nặn bột” vào HĐGDNPT là rất cần thiết.
Tiểu kết chương 1
Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu việc áp dụng phương pháp dạy học BTNB vào

giảng dạy môn nghề điện dân dụng chúng tôi nhận thấy:
Nhằm phát huy tính tích cực, năng lực sáng tạo của HS thì việc đổi mới phương
pháp là rất cần thiết trong dạy học. Phương pháp BTNB giúp học sinh nâng cao khả
năng tìm tòi, diễn đạt ngôn ngữ, HS được trải nghiệm thông qua thực hành, thí
nghiệm…GV đóng vai trò hưỡng dẫn học sinh trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức.
Phương pháp BTNB có nhiều ưu điểm như: HS làm chủ tri thức, phát triển kỹ năng
làm việc nhóm, phát triển năng lực quan sát, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo thực hành. Với
phương pháp BTNB HS bắt buộc phải có một quyển vở thực hành do các em ghi chép theo
cách thức và ngôn ngữ của chính các em.
Đặc biệt, việc áp dụng phương pháp BTNB vào môn nghề điện dân dụng tạo
cho học sinh một môi trường học tập thân thiện, mà ở đó chính các em làm chủ tri thức,
GV đóng vai trò hỗ trợ khi cần thiết.
Tuy nhiên, HS sẽ lúng túng trong việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới và
đòi hỏi HS phải chủ động trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.Việc đổi mới phương pháp
dạy học là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Chương 2: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT”
TRONG DẠY HỌC NGHỀ ĐIỆN DÂN DỤNG
2.1. NGHỀ ĐIỆN DÂN DỤNG
2.1.1.Vị trí, mục tiêu, chương trình nghề điện dân dụng
2.1.1.1 Vị trí nghề điện dân dụng
2.1.1.2. Mục tiêu nghề điện dân dụng
2.1.1.3. Chương trình nghề điện dân dụng
2.1.2. Đặc điểm nghề điện dân dụng
a) Đối tượng lao động
b) Công cụ lao động
c) Nội dung lao động
d) Điều kiện lao động và những chống chỉ định y học của nghề
8



Nắm vững đặc điểm môn học là cơ sở cho việc lựa chọn hợp lí các phương pháp
và hình thức dạy học.
2.2. QUY TRÌNH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG
DẠY HỌC NGHỀ ĐIỆN DÂN DỤNG.
Dựa theo quy trình chung của phương pháp bàn tay nặn bột, trên cơ sở của
mục tiêu, chương trình và đặc điểm của nghề điện dân dụng sau đây tôi xin đưa
ra quy trình của phương pháp bàn tay nặn bột áp dụng riêng trong hoạt động
giáo dục nghề phổ thông như sau:
Bước 1: Xác định tình huống có vấn đề và nêu câu hỏi
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu về vấn đề cần giải quyết

Bước 3: Đề xuất cách giải quyết vấn đề và tiến hành tìm tòi nghiên cứu

Bước 4: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức
Bước 1: Xác định tình huống có vấn đề và nêu câu hỏi
Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do giáo viên
chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải
ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với học sinh. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu
hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu
vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp không nhất thiết phải có tình huống
xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường
hợp cụ thể).
Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học (hay môdun kiến thức mà học sinh sẽ
được học). Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn
nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của học sinh nhằm chuẩn bị
tâm thế cho học sinh trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. Giáo viên phải dùng câu hỏi
mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu
vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của
giáo viên càng dễ thực hiện thành công.
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu cần giải quyết

Hình thành biểu tượng ban đầu là bước quan trọng, đặc trưng của phương pháp
BTNB. Bước này khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của
mình trước khi được học kiến thức. Hình thành biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể
yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài
học. Khi yêu cầu học sinh trình bày biểu tượng ban đầu, giáo viên có thể yêu cầu nhiều
hình thức biểu hiện của học sinh, có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân),
bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ.
Bước 3: Đề xuất cách giải quyết vấn đề và tiến hành tìm tòi nghiên cứu
9


Từ việc xác định được biểu tượng ban đầu về vấn đề cần giải quyết GV gợi ý,
hướng dẫn HS đề xuất cách giải quyết vấn đề bằng cách giáo viên nêu câu hỏi cho học
sinh, đề nghị các em đề xuất thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các
câu hỏi đó. Các câu hỏi có thể là: "Theo các em làm thế nào để chúng ta tìm câu trả lời
cho các câu hỏi nói trên?"; "Bây giờ các em hãy suy nghĩ để tìm phương án giải quyết
các câu hỏi mà lớp mình đặt ra!"…
- Tùy theo kiến thức hay vấn đề đặt ra trong câu hỏi mà học sinh có thể đề xuất
các phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu. Các phương án thí nghiệm mà học sinh
đề xuất có thể rất phức tạp và không thể thực hiện được nhưng giáo viên cũng không
nên nhận xét tiêu cực để tránh làm học sinh ngại phát biểu. Nếu ý kiến gây cười cho cả
lớp, giáo viên cần điềm tĩnh giải thích cho cả lớp hiểu cần tôn trọng và lắng nghe ý
kiến của người khác.
- Nếu ý kiến của học sinh nêu lên có ý đúng nhưng ngôn từ chưa chuẩn xác
hoặc diễn đạt chưa rõ thì giáo viên nên gợi ý và từng bước giúp học sinh hoàn thiện
diễn đạt. Giáo viên cũng có thể yêu cầu các học sinh khác chỉnh sửa cho rõ ý. Đây là
một vấn đề quan trọng trong việc rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh.
- Trường hợp học sinh đưa ra ngay thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu đúng nhưng
vẫn còn nhiều phương án khác khả thi thì giáo viên nên tiếp tục hỏi các học sinh khác
để làm phong phú phương án tìm câu trả lời. Giáo viên có thể nhận xét trực tiếp nhưng

yêu cầu các học sinh khác cho ý kiến về phương pháp mà học sinh đó nêu ra thì tốt
hơn. Phương pháp BTNB khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến của nhau hơn là
của giáo viên nhận xét.
- Sau khi học sinh đề xuất phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, giáo viên
nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án thí nghiệm đã chuẩn bị sẵn.
Trường hợp học sinh không đưa ra được phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu
thích hợp, giáo viên có thể gợi ý hoặc đề xuất cụ thể phương án nếu gợi ý mà học sinh
chưa nghĩ ra.
- Lưu ý rằng phương án thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu ở đây được hiểu là các
phương án để tìm ra câu trả lời. Có nhiều phương pháp như quan sát, thực hành - thí
nghiệm, nghiên cứu tài liệu… (xem thêm phần Các phương pháp thí nghiệm - tìm tòi
nghiên cứu).
Sau khi đề xuất được cách giải quyết vấn đề GV cho HS tiến hành phương án đã
đưa ra. Ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không
thể tiến hành thí nghiệm trên vật thật có thể làm cho mô hình, hoặc cho học sinh quan
sát tranh vẽ. Đối với phương pháp quan sát, giáo viên cho học sinh quan sát vật thật
trước, sau đó mới cho học sinh quan sát tranh vẽ khoa học hay mô hình để phóng to
những đặc điểm không thể quan sát rõ trên vật thật (xem thêm phần Phương pháp quan
sát).
Khi tiến hành thực hiện thí nghiệm, giáo viên nêu rõ yêu cầu và mục đích thí
nghiệm hoặc yêu cầu học sinh cho biết mục đích thí nghiệm chuẩn bị tiến hành để làm
gì? Lúc này giáo viên mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt
động. Sở dĩ như vậy là vì, nếu để các vật dụng thí nghiệm sẵn trên bàn học sinh sẽ
nghịch các đồ vật mà không chú ý đến các đồ vật trong lớp; hoặc học sinh tự ý thực hiện
thí nghiệm trước khi lệnh thực hiện của giáo viên ban ra; hoặc học sinh sẽ dựa vào đó để
10


đoán các thí nghiệm cần phải làm (trường hợp này mặc dù học sinh có thể đề xuất thí
nghiệm đúng như ý đồ dạy học của GV không đạt)

Tiến hành thí nghiệm tương ứng với môđun kiến thức. Làm lần lượt các thí
nghiệm nếu có nhiều thí nghiệm. Mỗi thí nghiệm thực hiện xong nên dừng lại để học
sinh rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng).
Giáo viên lưu ý học sinh ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí
nghiệm (mô tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết
luận sau thí nghiệm vào vở thí nghiệm. Phần ghi chép này giáo viên để học sinh ghi
chép tự do, không nên gò bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp mới
làm quen với phương pháp BTNB. Đối với các thí nghiệm phức tạp và nếu có điều
kiện, giáo viên nên thiết kế một mẫu sẵn để học sinh điền kết quả thí nghiệm, vật liệu
thí nghiệm. Ví dụ như các thí nghiệm phải ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm
ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau…
Khi học sinh làm thí nghiệm, giáo viên bao quát lớp, quan sát từng nhóm. Nếu
thấy nhóm hoặc học sinh nào làm sai theo yêu cầu thì giáo viên chỉ nhắc nhỏ trong
nhóm đó hoặc với riêng học sinh đó, không nên thông báo lớn tiếng chung cho cả lớp
vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các nhóm học
sinh khác.
Giáo viên chú ý yêu cầu học sinh thực hiện độc lập các thí nghiệm trong trường
hợp các thí nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân. Nếu thực hiện theo nhóm thì
cũng yêu cầu tương tự như vậy. Thực hiện độc lập theo cá nhân hay nhóm để tránh
việc học sinh nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi
cho giáo viên phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm
nghiên cứu, đặc biệt là các thí nghiệm được thực hiện với các dụng cụ, vật liệu thí
nghiệm giống nhau nhưng nếu bố trí thí nghiệm không hợp lý sẽ không thu được kết
quả thí nghiệm như ý.
Bước 4: Kết luận, hợp thức hóa kiến thức
Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được
giải quyết, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa
chuẩn xác một cách khoa học. Giáo viên có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại
để học sinh ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung,
giáo viên nên yêu cầu một vài ý kiến của học sinh cho kết luận sau khi thực hiện thí

nghiệm (rút ra kiến thức của bài học). Giáo viên khắc sâu kiến thức cho học sinh
bằng cách cho học sinh nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (biểu tượng ban
đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá
trình thí nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, chính học sinh tự phát hiện ra mình sai hay
đúng mà không phải do giáo viên nhận xét một cách áp đặt. Chính học sinh tự phát
hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động.
Những thay đổi này sẽ giúp học sinh ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.
2.3. MỘT SỐ BÀI SOẠN MINH HỌA
* Bài soạn 1
BÀI 7: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MÁY BIẾN ÁP
I. MỤC TIÊU BÀI DẠY
1, Kiến thức:
11


- Biết được khái niệm chung về máy biến áp.
- Nêu được công dụng, cấu tạo và nguyên lý làm việc của máy biến áp.
2, Kỹ năng:
- Sử dụng các máy biến áp đúng cách, hợp lý
- Hiểu được công dụng cấu tạo, nguyên lý làm việc, phân loại và các số liệu
định mức của máy biến áp.
- Có kỹ năng thảo luận nhóm, trình bày ý kiến bằng ngôn ngữ, sơ đồ hình vẽ…
3, Thái độ:
Có ý thức học tập nghiêm túc và chủ động.
II. CHUẨN BỊ
- Máy biến áp.
- Một số hình ảnh về MBA, nhà máy phát điện, đường dây truyền tải, trạm tăng
và hạ áp, hộ tiêu thụ điện.
- Các lá thép và dây quấn.
- Nguồn điện xoay chiều, 2 cuộn dây, bóng đèn, ampe kế, vôn kế…

III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Tổ chức và ổn định lớp
2. Kiểm tra bài cũ
GV kiểm tra bài cũ:
1) Hãy nêu các dụng cụ để đo điện áp, dòng điện, công suất của 1 mạch điện ?
2) Dụng cụ đo phối hợp cả ba loại dụng cụ đo: Ôm kế, ampe kế và vôn kế là gì?
3. Các hoạt động dạy học
Hoạt động 1: Tìm hiểu khái niệm chung về máy biến áp
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung
I. Khái niệm chung về MBA:
1. Công dụng của MBA:
GV cho học sinh quan sát một số hình - Để biến đổi điện áp của dòng điện
ảnh:Về nhà máy phát điện, trạm biến áp xoay chiều từ điện áp cao xuống
tăng áp, đường dây truyền tải, trạm biến điện áp thấp hoặc ngược lại từ điện
áp hạ áp, hộ tiêu thụ. (?) Hãy cho biết áp thấp lên điện áp cao ta dùng
MBA có những công dụng nào?
MBA.
? Yêu cầu HS quan sát hình 7.1 và cho - MBA là khâu không thể thiếu
biết vai trò của MBA trong truyền tải và trong quá trình truyền tải và phân
phân phối điện năng.
phối điện năng.
(?) GV nêu định nghĩa MBA
2. Định nghĩa MBA:
- MBA là thiết bị điện từ tĩnh, làm
việc theo nguyên lý cảm ứng điện
từ, dùng để biến đổi điện áp của
dòng điện xoay chiều nhưng vẫn giữ
nguyên tần số.
- Kí hiệu: hình 7.2

GV: Cho học sinh quan sát một số máy 3. Các số liệu định mức của MBA:
biến áp thật.
- Dung lượng hay công suất định
GV yêu cầu HS đọc SGK trả lời các câu mức Sđm
12


hỏi sau:
- Điện áp sơ cấp định mức
1) Em hãy cho biết ký hiệu, ý nghĩa, đơn - Điện áp thứ cấp định mức
vị công suất máy biến áp?
- Dòng điện sơ cấp I1đm và thứ cấp
định mức I2đm
Sđm = U1đm.I1đm = U2đm.I2đm
- Tần số định mức fđm.
(?) Dựa vào công dụng người ta phân 4. Phân loại MBA:
MBA ra thành những loại nào?
Dựa vào công dụng MBA phân
HS: Trả lời
thành các loại sau:
(?) Hãy nêu công dụng của các loại biến - MBA điện lực.
áp?
- MBA tự ngẫu.
HS: Nêu công dụng của các loại MBA
- MBA công suất nhỏ.
GV: Phân tích làm rõ công dụng của các - MBA chuyên dùng.
loại biến áp.
- MBA đo lường.
- MBA thí nghiệm.
Hoạt động 2: Tìm hiểu cấu tạo của MBA

GV chia mỗi bàn thành một nhóm
II. Cấu tạo của MBA:
(chưa sử dụng sách giáo khoa)
MBA gồm 3 bộ phận chính:
GV: Theo em MBA có cấu tạo như thế - Lõi thép tạo thành mạch từ khép
nào?
kín.
GV: Phát cho mỗi nhóm 1 máy biến áp tự - Bộ phận dẫn điện (dây quấn sơ
ngẫu và máy biến áp cảm ứng
cấp và thứ cấp).
HS: Tháo rời và tìm hiểu, quan sát cấu tạo - Vỏ máy.
bên ngoài và bên trong
Lõi thép:
(?) Lõi thép có công dụng gì?
- Dùng làm mạch dẫn từ, đồng thời
HS Trình bày công dụng của lõi thép.
làm khung quấn dây.
(?) Vì sao các lá thép phải mỏng và ghép - Lõi thép của MBA thường được
cách điện nhau?
chia làm hai loại là kiểu lõi và kiểu
HS: Nghiên cứu trả lời
bọc.
GV kết luận
- Lõi thép gồm nhiều lá thép mỏng
dầy 0,3; 0,35; 0,5 mm ghép cách
điện vơi nhau.
(?) Dây quấn biến áp có đặc điểm gì?
Dây quấn MBA:
HS: Nêu các đặc điểm của dây quấn
Thường được làm bằng dây đồng

GV kết luận
tráng men hoặc bọc sợi cách điện,
mềm có độ bền cơ học cao, cách
điện tốt.
Hoạt động 3: Tìm hiểu nguyên lý làm việc của máy biến áp
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Nội dung
GV chia lớp thành 3 nhóm ( chưa sử III. Nguyên lý làm việc của MBA
dụng sách giáo khoa nghề điện dân dụng)
GV: Theo các em, MBA sẽ làm việc như
thế nào?
HS: làm việc cá nhân ghi vào phiếu học
13


tập, sau đó làm việc cả nhóm để ghi kết
quả chung cho cả nhóm vào bảng phụ.
Các nhóm cử đại diện trình bày
Từ những ý kiến ban đầu của HS do
nhóm đề xuất, GV tập hợp thành các
nhóm biểu tượng ban đầu rồi hướng dẫn
HS so sánh sự giống và khác nhau giữa
các nhóm
GV: Các em có thắc mắc về nguyên lý
làm việc của MBA không?
HS tự đặt câu hỏi vào phiếu học tập (câu
hỏi em đặt ra) như: Có hiện tượng gì xảy
ra khi máy biến áp làm việc? Tại sao có
hiện tượng cảm ứng điện từ? MBA vận
hành với nguồn điện xoay chiều hay một

chiều?...
GV nêu: GV chốt lại những câu hỏi HS
đặt ra.
GV: Dựa vào câu hỏi em hãy dự đoán kết
quả và ghi vào phiếu học tập ( kết quả dự
đoán: MBA làm việc sẽ xuất hiện dòng
điện cảm ứng, MBA vận hành với nguồn
điện xoay chiều….)
- Các nhóm thảo luận ghi vào giấy A0.
- Đại diện nhóm trình bày, các nhóm
nhận xét.
GV: Để kiểm tra kết quả dự đoán của
mình các em phải làm thế nào?
HS đề xuất các cách làm để kiểm tra kết
quả dự đoán (ví dụ: Thí nghiệm, mô
hình, tranh vẽ, quan sát, trải nghiệm...,)
GV: HS thí nghiệm để kiểm tra kết quả
dự đoán
GV tổ chức cho HS thảo luận, đề xuất
thí nghiệm nghiên cứu
Thí nghiệm nhóm 1: dụng cụ gồm 2 cuộn
dây N1, N2; nguồn điện xoay chiều U1;
vôn kế, khóa k
Thí nghiệm nhóm 2: dụng cụ gồm 2 cuộn
dây N1, N2; nguồn điện xoay chiều U1;
bóng đèn, khóa k
Thí nghiệm nhóm 3: dụng cụ gồm 2 cuộn
dây N1, N2; nguồn điện xoay chiều U1;
ampe kế, khóa k
14



GV phát đồ dùng thí nghiệm cho các
nhóm.
Các nhóm HS nhận đồ dùng thí nghiệm
gồm: nguồn điện xoay chiều, cuộn dây,
bóng đèn, ampe kế, vôn kế, khóa k…
HS nêu các bước thí nghiệm
HS tự thực hiện thí nghiệm
Ví dụ các bước thực hiện của nhóm 1:
-Bước 1: Nối nguồn điện xoay chiều U1
với cuộn dây N1, nối vôn kế với cuộn dây
N2
-Bước 2: Tiến hành thay đổi khoảng cách
giữa 2 cuộn dây N1, N2 và đọc trị số vôn
kế ghi vào phiếu học tập
HS quan sát và rút ra kết luận điền vào
phiếu học tập
GV quan sát các nhóm.
GV tổ chức cho các nhóm báo cáo kết
quả sau khi thí nghiệm
? GV: Qua thí nghiệm em rút ra được kết
luận gì? ( có dòng điện trong cuộn dây
thứ N2, và giá trị dòng điện thay đổi khi
khoảng cách 2 cuộn dây thay đổi)
GV yêu cầu HS làm việc cá nhân ghi
vào phiếu học tập (Kết luận của HS),
nhóm tổng hợp ghi giấy A4.
GV hướng dẫn HS so sánh kết quả thí
nghiệm với các suy nghĩ ban đầu của

mình có gì khác nhau.
GV kết luận hệ thống kiến thức cho HS
ghi vào vở

* Lưu ý: GV chỉ nhận xét nhóm nào
trùng, nhóm nào không trùng ý kiến ban
đầu; không nhận xét đúng, sai.
HS theo dõi và ghi vào vở về hiện tượng
cảm ứng điện từ và nguyên lý làm việc
của MBA
15

1. Hiện tượng cảm ứng điện từ:
- Cho dòng điện biến đổi đi qua một
cuộn dây dẫn điện sẽ sinh ra một từ
trường biến đổi.
- Nếu đặt cuộn dây dẫn điện thứ hai
trong từ trường của cuộn thứ nhất
thì trong cuộn dây thứ hai sẽ sinh ra
sức điện động cảm ứng và dòng
điện cảm ứng. Dòng điện cảm ứng
này cũng biến đổi tương tự như
dòng điện sinh ra nó và tồn tại trong
suốt thời gian từ thông biến đổi
được duy trì.
Hiện tượng đó được gọi là hiện
tượng cảm ứng điện từ.
Hai cuộn dây đặt càng sát nhau thì
mức độ cảm ứng điện từ càng mạnh.
Mức độ đó tăng lên rất mạnh khi

quấn cả hai cuộn dây trên cùng một
lõi thép, đặc biệt trên cùng một
mạch từ khép kín.
Nguyên lý làm việc của máy biến áp
dựa trên hiện tượng cảm ứng điện từ
này.
2. Nguyên lý làm việc: (vẽ hình 7.5)
Khi nối dây quấn sơ cấp vào nguồn
điện xoay chiều có điện áp U1 sẽ có
dòng điện I1 chạy trong cuộn sơ cấp


và sinh ra trong lõi thép từ thông
GV trình bày mối quan hệ giữa điện áp biến thiên. Do mạch từ khép kín nên
đầu vào và đầu ra từ đó giải thích hệ số từ thông móc vòng gây ra suất điện
biến áp k.
động cảm ứng E2 trong cuộn thứ cấp
HS suy nghĩ, trả lời
tỉ lệ với số vòng dây N2.
GV nhận xét, bổ sung, kết luận
Đồng thời từ thông đó cũng sinh ra
trong cuộn sơ cấp một suất điện
động E1, tỉ lệ với N1.
Nếu bỏ qua tổn thất điện áp, ta có:
U1 ≈ E1 và U2 ≈ E2
U1

E1

N1


Do đó: U = E = N = K
2
2
2
k > 1 máy biến áp giảm áp.
k <1 máy biến áp tăng áp.
- Công suất MBA nhận từ nguồn và
công suất biến áp cho phụ tải là:
S1 = U1.I1 và S2 = U2.I2
Bỏ qua hao tổn ta có:
S1 = S2
U1I1=U2I2
U

I

1
2
Hoặc U = I = k
2
1
Nếu dòng điện tăng k lần thì điện áp
giảm k lần và ngược lại.

IV. Củng cố
Yêu cầu HS nhắc lại:
- Khái niệm chung về máy biến áp
- Công dụng, cấu tạo và nguyên lý làm việc của máy biến áp
- GV yêu cầu học sinh về nhà tìm hiểu trước về cách tính toán, thiết kế MBA 1 pha

và tìm một MBA công suất nhỏ.
- GV yêu cầu HS về nhà làm bài tập 1,2,3 trang 43 SGK
Một số hình ảnh minh họa về thí nghiệm ảo:

16


Kết luận: Ở bài học hày tác giả đã vận dụng phương pháp BTNB ở phần nguyên
lý làm việc của máy biến áp giúp học sinh có quá trình học tập tích cực, chủ động, sáng
tạo trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Thông qua làm thí nghiệm học sinh hiểu được
bản chất của thí nghiệm về hiện tượng cảm ứng điện từ và nguyên lý làm việc của
MBA. Ở phần IV tác giả đã ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng thí nghiệm ảo,
từ đó vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột giúp HS nhìn rõ về hiện tượng xảy ra,
phân tích các thành phần khi thực hiện thí nghiệm và giúp học sinh tự tin khi đứng
trước lớp thuyết trình thí nghiệm và lĩnh hội tri thức mới
* Bài soạn 2
* Bài soạn 3
Tiểu kết chương 2
Qua quá trình nghiên cứu và vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào hoạt
động dạy học nghề điện dân dụng ở trung tâm KTTH – HNDN cụ thể như sau:
Kết hợp với những kết quả nghiên cứu ở chương I, chúng tôi đề xuất quy trình
dạy học theo phương pháp BTNB. Quy trình gồm 4 bước:
Bước 1: Xác định tình huống vấn đề và nêu câu hỏi
Bước 2: Bộc lộ biểu tượng ban đầu về vấn đề cần giải quyết
Bước 3: Đề xuất cách giải quyết vấn đề và tiến trình tìm tòi nghiên cứu
Bước 4: Kết luận, hợp thức hòa kiến thức
Qui trình này được xây dựng nhằm giúp giáo viên có cơ sở để xây dựng các kế hoạch
dạy môn nghề điện dân dụng có vận dụng phương pháp BTNB để tạo thuận lợi cho
giáo viên trong công tác giảng dạy.
Để góp phần minh chứng cho thực tế của việc vận dụng qui trình này để xây

dựng các bài học vận dụng phương pháp BTNB cũng như sử dụng chúng trong quá
trình dạy học, luận văn đã thiết kế 3 kế hoạch bài học có vận dụng phương pháp BTNB
theo nội dung chương trình nghề điện dân dụng.
Về điều kiện cơ sở vật chất trong lớp học hiện nay bàn ghế được bố trí theo dãy
không thuận lợi cho việc tổ chức dạy học theo nhóm, dụng cụ thiết bị dùng cho thực
hành chưa đảm bảo, chưa đồng bộ và thiếu tính chính xác. Nguồn tài liệu bổ trợ cho
hoạt động tìm tòi khám phá của học sinh còn hạn chế.
17


Chất lượng của việc xây dựng và sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong
hoạt động dạy nghề điện dân dụng đã được kiểm nghiệm và đạt kết quả tương đối tốt.
Vấn đề này chúng tôi đã nêu ở chương 3.
CHƯƠNG 3. KIỂM NGHIỆM ĐÁNH GIÁ
3.1. MỤC ĐÍCH CỦA KIỂM NGHIỆM ĐÁNH GIÁ
Thực nghiệm sư phạm nhằm mục đích kiểm nghiệm tính khả thi và tính hiệu
quả của biện pháp sư phạm được đề xuất của đề tài.
Thu thập thông tin, số liệu để đánh giá mức độ phù hợp của các bài dạy được
thiết kế khi vận dụng quy trình phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học nghề điện
dân dụng.
3.2.1. Phương pháp chuyên gia
3.2.1.1. Nội dung và tiến trình thực hiện
a, Đối tượng
Xây dựng phiếu xin ý kiến chuyên gia, tác giả đã xin ý kiến của các chuyên gia là
các giáo viên dạy nghề tại cácTrung tâm KTTH-HNDN Hà Nội.
b, Nội dung kiểm nghiệm
Sau khi thiết kế quy trình phương pháp bàn tay nặn bột vào bài dạy cụ thể của
nghề Điện dân dụng 11 trong dạy học nghề điện dân dụng, tác giả đã thực hiện phương
pháp chuyên gia bằng cách trao đổi, giới thiệu, xin ý kiến đánh giá của các chuyên gia
thông qua phiếu xin ý kiến chuyên gia, để thử nghiệm tính đúng đắn của giả thuyết

khoa học và tính khả thi của đề tài
c, Quy trình kiểm nghiệm
Phương pháp chuyên gia được thực hiện như sau:
- Trao đổi, giới thiệu chung với chuyên gia về ý tưởng thực hiện đề tài
- Gửi phiếu đánh giá (Phụ lục 3) để xin ý kiến chuyên gia về quy trình phương
pháp bàn tay nặn bột khi vận dụng vào các bài dạy cụ thể trong dạy học nghề điện dân
dụng.
- Tổng hợp các phiếu, xử lý kết quả, đánh giá chung về tính đúng đắn của giả
thuyết khoa học và tính khả thi của đề tài.
3.2.1.2. Kết quả nhận được qua phương pháp chuyên gia
a, Đánh giá định tính
Sau khi trao đổi trực tiếp và tổng hợp phiếu xin ý kiến chuyên gia tác giả nhận
thấy:
- Các chuyên gia đều thống nhất với thực trạng dạy và học của nghề điện dân
dụng tại các Trung tâm KTTH-HNDN, việc đưa ra các biện pháp dạy học nhằm hình
thành và phát triển năng lực dạy học vào các bài, các nghề là rất cần thiết và khả thi.
- Việc dạy và học các nội dung của các nghề trong dạy học nghề điện dân dụng
xây dựng dựa trên vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột sẽ tạo hứng thú học tập và
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
b, Đánh giá định lượng
Căn cứ vào kết quả thống kê của phiếu xin ý kiến chuyên gia, các ý kiến đánh
giá cho thấy những đề xuất của đề tài là khả thi và nâng cao chất lượng dạy học nghề
18


điện dân dụng, đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học của ngành giáo
dục.
3.2.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
3.2.3.1. Nội dung và tiến trình thực hiện
3.2.3.2. Kết quả nhận được qua phương pháp thực nghiệm sư phạm

a, Kết quả kiểm tra
Khi thực hiện các bài kiểm tra đều do một giáo viên chấm theo thang điểm
chung (Phụ lục 1). Sau khi kiểm tra, chấm bài kết quả của các bài kiểm tra được thống
kê như sau:
Bảng 3.4. Bảng phân phối kết quả kiểm tra sau khi dạy xong
bài (Một số vấn đề chung về máy biến áp)
Số học sinh đạt điểm Xi
Trường
Đối tượng
Sĩ số
4
5
6
7
8
9
10
THPT Phúc Thọ

11A4 TN

45

0

5

7

10


14

7

2

THPT Phúc Thọ

11A6 ĐC

43

3

7

10

13

8

2

0

Bảng 3.5. Bảng phân phối kết quả kiểm tra sau khi dạy xong
bài (Quấn máy biến áp một pha)
Trường

Đối tượng
Sĩ số
Số học sinh đạt điểm Xi
4 5 6 7 8 9
10
THPT Phúc Thọ

11A4 TN

45

0

6

7

11 13

7

1

THPT Phúc Thọ
11A6 ĐC
43
1 8 9 15 7 3
0
b, Xử lý kết quả thực nghiệm
Kết quả bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng được xử lý theo

phương pháp thống kê toán học.
Từ các số liệu, có thể vẽ được các đường tần suất và tần suất hội tụ lùi của 2 lớp
ĐC và TN như sau:

% số HS đạt điểm Xi trở xuống

Hình 3.1: Đồ thị biểu diễn đường tích lũy bài kiểm tra sau khi học xong bài
(Một số vấn đề chung về máy biến áp)

19


% số HS đạt điểm Xi trở xuống

Hình 3.2: Đồ thị biểu diễn đường tích lũy bài kiểm tra sau khi học xong bài
(Quấn máy biến áp một pha)

Bảng 3.9: Bảng giá trị các tham số đặc trưng
Bài
dạy
Bài 1
Bài 2

Đối
tượng
TN
ĐC
TN
ĐC


7,38
6,51
7,24
6,65

S2

S

3
3.56
2.38
3.78

1.73
1.88
1.54
1.94

%
23.44
28.88
21.27
29.17

ε
0.26
0.29
0.23
0.3


* Phân tích định tính:
- Ở lớp đối chứng: HS hoàn toàn thụ động nghe ghi chép bài. Khả năng tư duy
của HS còn thấp, đa số ngại trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra, HS có tâm lý sợ bị
gọi lên bảng trả lời, trong giờ học chưa tập trung chú ý nghe giảng, ngại giao tiếp và
không chủ động trong quá trình lĩnh hội tri thức.
- Ở lớp thực nghiệm: HS rất sôi nổi, hứng thú tham gia vào các hoạt động học
tập, HS tự tìm tòi kiến thức, nâng cao khả năng sáng tạo, nắm vững kiến thức hơn, vận
dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề nhanh hơn ở lớp đối chứng
* Phân tích định lượng:
- Tỉ lệ yếu kém trung bình, khá và giỏi: Qua kết quả thực nghiệm sư phạm được
trình bày ở bảng 3.12 cho thấy chất lượng học tập của HS lớp thực nghiệm cao hơn lớp
đối chứng, thể hiện:
+ Tỉ lệ % học sinh yếu, kém, trung bình của lớp đối chứng luôn cao hơn lớp thực
nghiệm.
+ Tỉ lệ % học sinh khá, giỏi lớp thực nghiệm luôn cao hơn lớp đối chứng.
- Đường tích lũy: Đồ thị đường tích lũy của lớp thực nghiệm luôn nằm bên phải
và phía dưới đường tích lũy của lớp đối chứng. Điều này cho thấy chất lượng lớp thực
nghiệm tốt hơn lớp đối chứng.
- Giá trị các tham số đặc trưng:
+ Điểm trung bình cộng của HS lớp hực nghiệm cao hơn lớp đối chứng.
20


+ Dựa vào bảng 3.13 thì giá trị S và V của lớp thực nghiệm luôn thấp hơn lớp
đối chứng, chứng tỏ chất lượng của lớp thực nghiệm tốt hơn và đều hơn lớp đối chứng.
+ V nằm trong khoảng 10 ÷ 30%, vì vậy kết quả thu được đáng tin cậy.
Những kết quả trên đây cho thấy hướng nghiên cứu của đề tài là phù hợp với thực tiễn
của quá trình dạy học góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Tiểu kết chương 3

Trong chương này tác giả đã trình bày quá trình kiểm nghiệm và đánh giá gồm:
- Thực nghiệm sư phạm, đánh giá và xử lý kết quả thực nghiệm sư phạm tại
Trung tâm KTTH-HNDN Phúc Thọ.
- Xin ý kiến của một số giáo viên về việc xây dựng và và vận dụng phương pháp
bàn tay nặn bột trong dạy học nghề điện dân dụng.
Qua đợt thử nghiệm, dựa trên các kết quả thu được cho phép kết luận rằng việc
vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học nghề điện dân dụng có tác dụng
nâng cao chất lượng dạy và học cụ thể là:
- Các giờ học trở nên sinh động, hấp dẫn, thực sự lôi cuốn và gây hứng thú cho
HS tạo ra môi trường học tập mới giúp các em năng động hơn, tự tin hơn. Điều đó rất
phù hợp và cần thiết trong dạy học nghề điện dân dụng
- Khắc sâu được kiến thức cho học sinh.
- HS được rèn luyện kĩ năng mềm (thuyết trình trước đám đông, hợp tác nhóm,
sáng tạo trong quá trình học tập…) và một số kĩ năng khác hữu ích cho việc tích cực
hóa quá trình học tập và rèn luyện.
- Một số lưu ý về kỹ thuật dạy học và rèn luyện cho học sinh khi vận dụng
phương pháp BTNB
Dành cho GV
+ Liệt kê các bài học có thể áp dụng phương pháp BTNB.
+ GV cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn.
+ Vận dụng tối đa những nguyên vật liệu sẵn có, dễ kiếm.
+ Sử dụng công nghệ thông tin cho bài dạy áp dụng phương pháp BTNB đúng lúc,
đúng chỗ, hợp lí.
+ Với một số thí nghiệm đơn giản, GV có thể giao việc cho HS bằng những phiếu
giao việc, tự HS chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của mình.
Xây dựng tiết học theo các gợi ý
+ Mục tiêu bài học
+ Hoạt động có thể áp dụng phương pháp BTNB
+ PP thí nghiệm sử dụng
+ Thiết bị cần có

+ Những thí nghiệm có thể thực hiện
Tổ chức lớp học:
+ Sắp xếp bàn ghế cho phù hợp với số HS.
+ Chia nhóm từ 4-6 em/nhóm.
+ Có chỗ dành riêng để vật liệu lớp học.
Trong quá trình giảng dạy
+ Lưu ý khi lựa chọn quan niệm ban đầu để đưa ra thảo luận:
21


+ Tuyệt đối không bình luận hay nhận xét gì về tính đúng sai của các ý kiến ban
đầu
+ Chọn vị trí thích hợp đề gắn các bài vẽ của học sinh…
+ Không nên sử dụng SGK khi học bằng phương pháp BTNB.
+ Lựa chọn hoạt động phù hợp với phương pháp BTNB để vận dụng, không nhất
thiết hoạt động nào cũng vận dụng phương pháp.
+ Lưu ý về kĩ thuật thảo luận nhóm
Lựa chọn phương pháp thí nghiệm phù hợp:
+ PP quan sát tranh ảnh, quan sát vật thật
+ PP mô hình
+ PP nghiên cứu tài liệu
+ PP thí nghiệm trực tiếp
+ Sử dụng phương pháp thường xuyên để rèn thói quen cho HS. Rèn cho học sinh
kĩ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn để đảm bảo thời gian. Sưu tầm tài liệu, sách, tranh
ảnh …. phục vụ cho bài học.
Trong quá trình thực nghiệm do thời gian và điều kiện hạn chế nên số lượng
chuyên gia xin ý kiến chưa nhiều và chưa có ý kiến của các lãnh đạo, các nhà quản lý
giáo dục. Nhưng với kết quả trên đây đã chứng minh tính đúng đắn của giả thuyết khoa
học mà đề tài đã đặt ra. Việc vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học
nghề điện dân dụng đã có hiệu quả bước đầu nhằm phát huy tính tích cực học tập của

HS và góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình dạy học nghề điện dân dụng hiện
nay
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu lí luận và thực tiễn vấn đề xây dựng và vận dụng phương
pháp bàn tay nặn bột trong dạy học nghề điện dân dụng nhằm tích cực hóa hoạt động
học tập của HS, chúng tôi rút ra những kết luận như sau:
1.1. Vấn đề tích cực hóa học tập của HS trong dạy học nghề điện dân dụng có
tầm quan trọng đặc biệt, việc làm này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển trí tuệ cho HS,
kích thích tư duy của các em, nâng cao hứng thú học tập . Trong số những phương
pháp dạy học tích cực hóa, phương pháp bàn tay nặn bột được xem là một trong những
phương pháp dạy học nhằm thu hút HS nâng cao tính chủ thể và tự giác, tạo tính tò
mò, ham khám phá, yêu và say mê khoa học của HS. HS tự tìm tòi khám phá tri thức
mới, giúp các em sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức mới cũng như thực hành vận
dụng những kinh nghiệm, những tri thức đã học… để góp phần nâng cao chất lượng
hoạt động giáo dục nghề phổ thông.
Việc vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học nghề điện dân dụng
có rất nhiều tác dụng, tuy nhiên khi sử dụng nó không nên quá lạm dụng, chỉ sử dụng
trong tùy theo từng nội dung bài học cho phù hợp và kết hợp phương pháp bàn tay nặn
bột với các phương pháp dạy học tích cực khác một cách linh hoạt.
1.2. Tính tích cực học tập của HS học nghề trong học tập nghề điện dân dụng
hiện nay chưa cao. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do vẫn còn hiện tượng HS
học “đối phó” coi đó là môn phụ, HS chưa hứng thú với nghề học nhiều vì khối lượng
kiến thức thường dài, khá trừu tượng làm cho HS dễ bị thụ động. Bên cạnh đó, HS
22


trong lớp quá đông, GV khó tạo được mối quan hệ tương tác giữa thầy và trò dẫn đến
tình trạng mệt mỏi, chán ngán ở HS, các em cảm thấy bị gò bó, ép buộc khi phải thực
hiện các nhiệm vụ học tập. Đã có một số GV chưa biết vận dụng linh hoạt các phương

pháp dạy học trong quá trình dạy học nhưng nhìn chung việc sử dụng các phương
pháp dạy học này còn đơn điệu do GV vẫn chưa đầu tư nhiều, hình thức tổ chức chưa
phong phú, hấp dẫn nên đôi khi chưa thu hút, lôi cuốn được tất cả HS tham gia học tập.
1.3. Chúng tôi đã xây dựng được một quy trình phương pháp bàn tay nặn bột
phù hợp với nghề điện dân dụng, đó là những gợi ý cơ bản trong dạy học nghề điện
dân dụng. GV cần vận dung linh hoạt phương pháp bàn tay nặn bột với các phương
pháp dạy học tích cực khác tùy theo điều kiện dạy học tại Trung tâm và phù hợp với
phong cách giảng dạy của bản thân cũng như theo đúng tình huống dạy học cụ thể.
1.4. Kết quả thực nghiệm cho phép khẳng định việc vận dụng phương pháp bàn
tay nặn bột trong dạy học nghề điện dân dụng giúp cho HS chủ động tham gia vào quá
trình học tập, tự họ tìm tòi nghiên cứu khám phá, làm cho họ thực sự trở thành chủ thể
của hoạt động học đã chứng minh được tính đúng đắn của giả thuyết khoa học mà đề
tài đặt ra.
Kết quả thực nghiệm được xử lý toán học và kiểm định thống kê phù hợp với
tính chất của dữ liệu thu được. Đồng thời kết quả thực nghiệm cho thấy tính tích cực
và kết quả học tập của HS được cải thiện phần nào nhờ vận dụng phương pháp bàn tay
nặn bột trong dạy học nghề điện dân dụng.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với HS
- HS phải có đủ tài liệu (SGK, tài liệu tham khảo) để học tập, nghiên cứu nghề
học.
- HS phải luôn có tinh thần ham học hỏi, yêu thích khám phá, tham gia tích cực
trong các hoạt động dạy và học
2.2. Đối với giáo viên
- Giáo viên trong tổ cần thường xuyên sinh hoạt chuyên môn hơn để trao đổi,
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong việc vận dụng các phương pháp dạy học khác nhau
nhằm tích cực hóa quá trình học tập của HS.
Ngoài ra, GV cần nghiên cứu tùy theo số lượng HS, nội dung bài học, điều kiện
cơ sở vật chất để vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột sao cho hợp lý
Trong quá trình dạy học, GV cần yêu cầu HS nghiêm túc trong học tập và

thường xuyên kiểm tra công tác chuẩn bị học tập của HS ở nhà, phải chuẩn bị các
phiếu theo dõi quá trình học tập của HS làm cơ sở cho quá trình kiểm tra đánh giá
được khách quan hơn, tạo động cơ học tập tốt cho HS.
- GV cần liệt kê các bài học có thể vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột, cần
chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn. Vận dụng tối đa
những nguyên vật liệu sẵn có, dễ kiếm GV có thể sử dụng công nghệ thông tin cho các
bài dạy áp dụng phương pháp bàn tay nặn bột nhưng phải đúng lúc, đúng chỗ, hợp lý.
Ngoài ra GV rất phải lưu ý về cách tổ chức lớp, về lựa chọn biểu tượng ban đầu để đưa
ra thảo luận, lựa chọn phương pháp thí nghiệm phù hợp, kỹ thuật thảo luận nhóm…
2.3. Đối với trung tâm
23


- Trung tâm cần tổ chức thường xuyên bồi dưỡng cho GV về các phương pháp
dạy học, khuyến khích GV sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong đó có
phương pháp bàn tay nặn bột.
- Trung tâm cần trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy học theo
xu hướng hiện nay như các phòng chức năng, máy móc thiết bị, nguồn tài liệu bổ trợ
cho hoạt động tìm tòi khám phá mua các phần mềm bản quyền về dạy học tương tác,
có chính sách động viên cho cán bộ, GV thiết kế các phương tiện dạy học mới để phục
vụ tốt cho giảng dạy.

24



×