Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Báo cáo tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.55 KB, 14 trang )

TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

BÀI BÁO CÁO

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Người thực hiện: Meuangkeo Chidsanai
MSSV: 51403307
Lớp : 14050301
Khoá

: 18


THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÔN ĐỨC THẮNG
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

BÀI BÁO CÁO

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Người thực hiện: Meuangkeo Chidsanai
MSSV: 51403307
Lớp : 14050301
Khoá



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015

: 18


4

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1 –Vị trí và vai trò của đảng cộng sản trong hệ thống chính
trị của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam
1. Khái quát về hệ thống chính trị Việt Nam
1.1 Khái quát về hệ thống chính trị
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện
bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng
chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội hợp pháp được liên kết với nhau
trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để
củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai
cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và thực hiện
đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị mang bản chất giai
cấp của giai cấp cầm quyền.
- Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự
của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của
hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ
chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng.


1.2 Kết cấu của hệ thống chính trị Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam


5

Hệ thống chính trị nói chung là “một cơ cấu bao gồm nhà nước, các đảng phái,
các đoàn thể, các tổ chức chính trị tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật
hiện hành, được chế định theo tư tưởng giai cấp cầm quyền, nhằm tác động vào các
quá trình kinh tế – xã hội với mục đích duy trì và phát triển chế độ đó”. Xuất phát từ
bản chất của chế độ chính trị và những điều kiện lịch sử cụ thể, hệ thống chính trị của
mỗi nước cũng có những đặc thù riêng. Hệ thống chính trị của nước ta hình thành và
phát triển trong quá trình đấu tranh cách mạng, chính thức ra đời từ cách mạng tháng
Tám và ngày càng hoàn thiện.
Theo những qui định trong chương I, Hiến pháp năm 1992, hệ thống chính trị của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước,
Công đoàn, Hội nông dân , Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị-xã hội khác hoạt động trên cơ sở lấy giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản để
thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân..

2. Vị trí, vai trò của Đảng Cộng Sản trong hệ thống chính trị của Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển nhà nước ở nước ta cũng như các nước xã
hội chủ nghĩa đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản. Sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước Đông Âu trước đây đã chỉ ra rằng: “Khi Đảng của
giai cấp công nhân bị mất quyền lãnh đạo nước, thì chính quyền cũng không còn nằm
trong tay nhân dân và chế độ xã hội thay đổi” (Trích văn kiện Đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ VII). Vì thế, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định

việc giữ vững bản chất giai cấp của nhà nước.
Đảng cộng sản là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nhưng Đảng là hạt
nhân của hệ thống đó. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã


6

hội, vị trí hạt nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị lại càng thể
hiện một cách rõ nét và đầy đủ. Đương nhiên để giữ được vị trí và vai trò của mình,
Đảng “phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo” (trích trang 22
– “Đảng cộng sản Việt Nam – Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội “ NXB. Sự thật – 1991). Trong lịch sử Hiến pháp Việt Nam, vị trí, vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và hệ thống chính trị luôn được thể hiện trong
các bản Hiến pháp. Tuy nhiên, cách thể hiện có khác nhau:
Hiến pháp năm 1946 mặc dù thực tế cách mạng vẫn dưới sự lãnh đạo đạo của Đảng,
của giai cấp công nhân nhưng do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chưa đề cập công khai.
Biểu hiện là chế định Chủ tịch nước thể hiện tập trung quyền lãnh đạo của Đảng (Hồ
Chủ Tịch là người sáng lập đồng thời là vị Chủ tịch đầu tiên). Ở đây sự lãnh đạo của
Đảng được đảm bảo bằng người đứng đầu Đảng đồng thời là người đứng đầu bộ máy
nhà nước; thông qua đó mà đường lối, chính sách và quan điểm của Đảng được thực
hiện và trở thành hiện thực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hiến pháp năm 1959 đã thể hiện quyền lãnh đạo của Đảng một cách công khai mặc dù
chỉ trong Lời nói đầu: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh… Nhân dân ta nhất định
xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh…”
Hiến pháp năm 1980 đã thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng một cách cụ thể và
mạnh mẽ hơn (cả trong lời nói đầu và Điều 4 Hiến pháp). Lần đầu tiên, thuật ngữ mới
“Hiến pháp thể chế hóa đường lối của Đảng “được sử dụng.



7

Hiến pháp năm 1992 đã có cách thể hiện ngắn gọn hơn, chặt chẽ hơn đồng thời cũng
đúng mức hơn vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 ghi rõ: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật “.
Về thực chất, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là lãnh đạo chính trị
mang tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước và các tổ chức thành viên của hệ
thống chính trị có cơ sở để chủ động sáng tạo trong tổ chức và hoạt động bằng những
công cụ, phương pháp và biện pháp cụ thể cuả mình. Phương pháp để thực hiện
nhữngnhữngquyền lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là những phương pháp dân
chủ, giáo dục, thuyết phục và dựa vào uy tín, năng lực của các Đảng viên và tổ chức cơ
sở Đảng.
So với các Đảng chính trị cầm quyền trong các nhà nước khác, vị trí, vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội có những đặc trưng riêng như:
Quyền lãnh đạo của Đảng được ghi nhận trong Hiến pháp; cơ sở chính trị xã hội của
Đảng rất rộng rãi; sự lãnh đạo của Đảng được tất cả các tổ chức chính trị xã hội thừa
nhận; Đảng là đại biểu trung thành cho quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc… Vì vậy, những chủ trương và quan điểm lớn của Đảng thường
được mọi tầng lớp nhân dân quan tâm, tham gia góp ý kiến từ khi soạn thảo và tích cực
ủng hộ, tổ chức thực hiện trên thực tế.
Những năm vừa qua, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã có
nhiều tiến bộ, tạo tiền đề cho việc kiện toàn và phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của
Nhà nước, xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị, phát huy quyền làm chủ của nhân



8

dân. Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng vẫn chưa được tăng cường đúng mức. Tình trạng
Đảng viên làm thay, can thiệp sâu vào công việc thuộc chức năng của Nhà nước vẫn
còn tồn tại, chưa phát huy hết khả năng của các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống
chính trị và quyền làm chủ của nhân dân. Để khắc phục khuyết điểm này, Đảng ta đã
chủ trương và kiên quyết tự đổi mới và chấn chỉnh, phát huy ở tầm cao hơn bản lĩnh và
sức chiến đấu của Đảng đặc biệt là về năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện, vươn lên
ngang tầm đòi hỏi đối với trách nhiệm lãnh đạo đất nước trong giai đoạn mới.

CHƯƠNG 2 – Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Khái quát về bộ máy nhà nước và nguyên tắc tổ chức hoạt động của bộ máy
nhà nước
1.1.Khái niệm về bộ máy nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1945 đến nay đã trải qua các Hiến pháp 1946,
1959, 1980, 1992, 2013 dựa trên những quan điểm và nguyên tắc nhất định.
Căn cứ Hiến pháp năm 2013, có thể nêu một số các quan điểm và nguyên tắc tổ chức
bộ máy nhà nước như sau:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức; Nhà nước đại diện cho nhân dân thực hiện quản lý thống nhất mọi mặt hoạt
động của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, đối
ngoại.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, hệ thống các cơ quan nhà nước được lập ra. Mỗi cơ
quan nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy nhà nước, đảm nhận những chức



9

năng, nhiệm vụ nhất định của nhà nước, có cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
phù hợp với tính chất các chức năng, nhiệm vụ được giao. Cùng với những chức năng,
nhiệm vụ, nhà nước còn trao cho các cơ quan những thẩm quyền tương ứng. Các cơ
quan nhà nước sử dụng thẩm quyền vào việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình
theo quy định của pháp luật.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, hoạt động của các cơ quan nhà nước đều
hướng tới phục vụ cho thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nhà nước.

1.2.Khái quát về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là những phương hướng mang tính chỉ đạo trong quá trình tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định
trong Hiến pháp.
Những nguyên tắc bao gồm: Đảng cộng sản lãnh đạo nhà nước, Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa các dân tộc, tập trung dân
chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa.

2. Những nguyên tắc Hiến pháp trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
2.1.Nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Đây là nguyên tắc nói lên nguồn gốc quyền lực của nhà nước và bản chất giai
cấp của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Lịch sử hình thành và phát triển các quan diểm lập
hiến của nhà nước ta, từ Hiến pháp 1946 và 1980 và hiện nay là Hiến pháp 1992 (sửa
đổi) có thể thấy tư tưởng nhà nước nhân dân quán triệt trong việc tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Điều 2 của Hiến pháp 1992 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngữ tri thức”.



10

Nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được quán triệt trong việc tổ
chức bộ máy nhà nước. Theo đó, Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực
nhà nước các cơ quan này do nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội được trao quyền lực tối cao trong việc tổ chức và
hoạt động của tất cả cơ quan nhà nước.
Nguyên tắc tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân còn thể hiện ở Điều 2,
Hiến pháp 1992 khi khẳng định “ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”.
Chủ trương của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong việc củng cố, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là triệt để áp dụng phương châm: dân biết
– dân bàn – dân kiểm tra. Thực hiện tốt phương châm này là góp phần thực hiện hóa
nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.

2.2.Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước có theo đúng những định hướng, mục tiêu và phản ánh được bản chất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa hay không. Theo Điều 4, Hiến pháp 2013:“Đảng Cộng
sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện:
- Đề ra cương lĩnh xây dựng phát triển đất nước, để ra đường lối chủ trương, chính
sách về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng để trên cơ sở đó
nhà nước xây dựng chiến lược và kế hoach hoạt động.

- Định hướng việc củng cố và hoàn thiện tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước.


11

- Giới thiệu những cán bộ có phẩm chất, năng lực để nhân dân lựa chọn vào những vị
trí quan trọng của bộ máy nhà nước.
- Tuyên truyền, giáo dục nhân dân tích cực thực hiện nhiệm vụ đối với nhà nước, tham
gia quả lý nhà nước; Đảng giáo dục đảng viên gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện
các chủ trương của nhà nước.

2.3. Nguyên tắc Bình đẳng và đoàn kết dân tộc
Điều 5 Hiến pháp 1992 quy định "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trong đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm
cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn
hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mọi mặt, từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số".
Thực hiện nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đòi
hỏi, tất cả các dân tộc phải có đại diện của mình trong các cơ quan nhà nước đặc biệt
trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Các cơ quan nhà nước phải xuất phát từ
lợi ích của nhân dân, của các dân tộc, bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa
các dân tộc. Nhà nước có chính sách ưu tiên giúp đỡ để các dân tộc ít người mau đuổi
kịp trình độ phát triển chung của toàn xã hội.
Bên cạnh đó, nhà nước nghiêm trị những hành vi miệt thị gây chia rẽ, hằn thù
giữa các dân tộc cũng như bất cứ hành vi nào lợi dụng chính sách dân tộc để phá hoại
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng,
nhà nước ta.


2.4.Nguyên tắc Tập trung dân chủ


12

Tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước", quy định đa dang hơn về
thực hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm chủ
của Nhân dân.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có tầm quan trọng trong việc tổ chức, hoạt động
của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nguyên tắc này thể hiện hai yêu cầu sau:
- Tạo được sự thống nhất ý chí của tất cả cơ quan, tổ chức; các cán bộ, công
chức trong bộ máy nhà nước để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của nhà
nước; đảm bảo sự phục ctu2ng của cấp dưới với các mệnh lệnh của cấp trên; sự tuân
thủ của địa phương đối với các chỉ đạo, điều hành thống nhất của trung ương; đây vốn
là những yêu cầu cơ bản của nền hành chính.
- Bảo đảm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc đề
xuất ý kiến, trình bày quan điểm về những vấn đề quan trọng nảy sinh trong xã hội.
Dân chủ còn thể hiện ở việc các ngành, các địa phương có quyền vận dụng sáng tạo,
linh hoạt trong việc thực thi các chủ trương, mệnh lệnh của cấp trên trong khuôn khổ
cho phép và được qui định bởi pháp luật.

2.5.Nguyên tắc phân công và phối hợp quyền lực
Do tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vì thế quyền lực nhà nước là
luôn luôn thống nhất, không “tam quyền phân lập” vì nếu phân chia quyền lực thì sẽ
dẫn đến kiềm chế và triệt tiêu lẫn nhau, làm cho quyền lực của nhân dân bị phân tán,
không bảo đảm được tính thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất quyền lực nhà
nước phải tập trung vào cơ quan đại diện quyền lực nhà nước duy nhất và cao nhất do

nhân dân bầu ra đó là Quốc hội. Về mặt pháp lý, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất do nhân dân bầu ra thông qua phổ thông đầu phiếu bình đẳng, trực tiếp


13

và bỏ phiếu kín. Bằng cuộc bầu cử dân chủ như vậy, nhân dân trao cho Quốc hội thực
hiện quyền lực nhà nước của mình.
Tuy quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công rành mạch và
phối chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, trong đó sự thống nhất là nền tảng, sự phân công và phối hợp là
phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực.
Sự phân công quyền lực giữa các cơ quan nhà nước thể hiện ở sự phân định
chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình cơ quan nhà nước. Sự phân định này càng rõ
ràng, cụ thể thì hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước càng được nâng
cao, không một cơ quan nhà nước nào có thể thâu tóm toàn bộ quyền lực nhà nước vào
tay mình.


14

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (Dùng trong các
trường đại học, cao đẳng), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012.Đảng Cộng

sản Việt Nam: Website Đảng cộng sản Việt Nam .
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Website Đảng Cộng Sản Việt Nam
23. Giáo trình Giáo dục Quốc phòng – An ninh (2 tập), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà
Nội, 2012Võ Thị Kim Huệ (2000), Nghiên cứu chẩn đoán và điều trị bệnh…,


Luận án Tiến sĩ y khoa, Trường đại học y Hà Nội, Hà Nội.



×