Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông Chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.17 KB, 83 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục nước ta là đào tạo những con người phát triển toàn
diện, có nhân cách tốt. Đó sẽ là những công dân tương lai của đất nước,
những người lao động mới phát triển hài hòa trên tất cả các mặt: trí, thể, mỹ,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với trường THPT có nhiệm vụ giúp học sinh củng cố và phát triển
những kết quả của giáo dục cơ sở, có những hiểu biết về kỹ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học trung cấp, học nghề và đi vào cuộc sống.
Môn GDCD có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành và
phát triển nhân cách người công dân. Đó là những con người có trí thức khoa
học, đạo đức, năng lực hoạt động thực tiễn và có lý tưởng cách mạng…
Mặc dù có vị trí, nhiệm vụ quan trọng, nhưng từ trước đến nay môn
GDCD bị xã hội, nhà trường, gia đình, học sinh, thậm chí cả GV dạy môn
GDCD coi là môn phụ, là môn học không quan trọng. Chính vì vậy, vệc giảng
dạy, bố trí giáo viên dạy môn học này không phù hợp.Có những giáo viên
không được đào tạo chuyên ngành vẫn được bố trí giảng dạy.Nhiều thầy cô
vẫn sử dụng phương pháp giảng dạy lạc hậu, không hiệu quả, ít chú ý đến
việc hình thành năng lực cho HS.
Trong xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
vào thế giới, vừa đón nhận thời cơ, vừa đương đầu với thách thức. Nhiệm
vụ, sứ mệnh Giáo dục và Đào tạo cần tạo ra những thế hệ con người biết
giữ gìn, phát huy tốt tinh hoa văn hóa dân tộc để đón bắt thời cơ (Bản sắc
dân tộc) và những công dân toàn cầu để giải quyết những vấn đề của thời
đại đặt ra. Muốn vậy, cần phải đổi mới chương trình, nội dung, phương
11


pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá các môn học cho thiết thực và hợp lý,


trong đó có môn GDCD.
Dạy học dựa trên trò chơi là một phương pháp đã xuất hiện ở Việt Nam
từ lâu, nhưng còn khá mới với môn GDCD. Do được tham gia vào trò chơi để
lĩnh hội tri thức và rèn luyện kỹ năng nên HS sẽ hứng thú, tích cực và sáng
tạo, bài giảng sẽ hiệu quả hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn: “Thiết kế và sử dụng trò chơi
trong dạy học môn Giáo dục công dân ở trường Trung học phổ thông
Chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học
giáo dục.
2. Lịch sử nghiên cứu
Phương pháp trò chơi đã được các nhà sư phạm, nhà khoa học trong
nước và quốc tế quan tâm nghiên cứu. Ở trong nước, một số công trình tiêu
biểu có thể kể đến:
“Trò chơi học tập Tiếng Việt 2”, “Trò chơi học tập Tiếng Việt 3” của
Trần Mạnh Hưởng (chủ biên), tác giả đã khẳng định, thông qua trò chơi
học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực, nhân cách, giúp cho
việc học Tiếng Việt thêm nhẹ nhàng và hiệu quả.
Cuốn “112 trò chơi toán lớp 1 và 2” của Phạm Đình Thực đã đưa ra nội
dung và cách thức giúp trẻ học toán qua các trò chơi.
Các cuốn: “Trò chơi học tập môn Đạo đức ở tiểu học” của Lưu Thu Thủy,
“100 trò chơi vận động cho học sinh tiểu học” của Trần Đồng Lâm, “Tổ chức
hoạt động vui chơi cho học sinh tiểu học” của Hà Nhật Thăng; “Tổ chức cho học
sinh tiểu học vui chơi giữa buổi học” của Trần Đồng Lâm (chủ biên)…đã trình
bày một số vấn đề chung về giáo dục đạo đức và dạy học môn đạo đức cho học
sinh tiểu học qua trò chơi; Hướng dẫn tổ chức, nguyên tắc lựa chọn một số trò
chơi cụ thể; Nguồn gốc, phân loại đặc điểm của trò chơi. Phương pháp giảng dạy
trò chơi cho học sinh tiểu học; Một số trò chơi chọn lọc.
22



Các cuốn: “Trò chơi học tập môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1,2,3” của
Bùi Phương Nga; “Học mà vui, vui mà học” của Vũ Xuân Đĩnh; “Sử dụng trò
chơi trong dạy học lịch sử ở trường tiểu học của Nguyễn Thị Hường”; “Trò
chơi học tập môn Lịch sử và Địa lí lớp 4,5” của Nguyễn Tuyết Nga (chủ biên)
đã giới thiệu một số trò chơi và cách sử dụng trò chơi trong dạy học môn Tự
nhiên và Xã hội, lịch sử, địa lý.
Sáng kiến kinh nghiệm: “Một số phương pháp giảng dạy Giáo dục
công dân theo hướng giáo dục tích cực” của Phạm Thị Thúy Phương đã nêu
lý luận về bài soạn một số phương pháp GDCD theo hướng tích cực và biên
soạn cụ thể qua bài 11: “Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học” trong
chương trình GDCD lớp 10. Từ đó đề xuất một số kiến nghị đối với nhà
trường, giáo viên.
Sáng kiến kinh nghiệm: “Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học môn
Giáo dục công dân” của Hoàng Thị Mai Hương đã trình bày thực trạng việc
giảng dạy môn GDCD, từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm tạo hứng thú
trong giờ dạy GDCD. Tác giả đã soạn một giáo án mẫu để áp dụng các biện
pháp đó.
Đề tài nghiên cứu khoa học: “Vận dụng phương pháp trò chơi vào dạy
học môn Giáo dục công dân ở trường THCS Sơn Lâm” của Nguyễn Thị
Thanh đã nêu vai trò của phương pháp trò chơi trong dạy học môn GDCD và
đưa ra phương pháp kiểm tra đánh giá việc áp dụng phương pháp trò chơi vào
dạy học.
Sáng kiến kinh nghiệm: “Vận dụng các trò chơi trong dạy học môn
Giáo dục công dân, gây hứng thú cho học sinh trung học cơ sở” của Nguyễn
Hữu Thảo đã nêu lên thực trạng của vấn đề dạy học môn GDCD, từ đó nêu
một số biện pháp trò chơi trong dạy học môn giáo dục công dân.

33



Sáng kiến kinh nghiệm: “Phương pháp thảo luận nhóm và tổ chức trò
chơi trong giảng dạy môn GDCD ở lớp 6” của nhóm giáo viên môn GDCD,
Trường THCS Đông Lĩnh, Đông Hưng, Thái Bình đã nêu cách kết hợp
phương pháp thảo luận nhóm và tổ chức trò chơi trong môn GDCD lớp 6, các
bước thực hiện và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả học môn GDCD.
Các công trình, bài viết trên ít nhiều đã đề cập đến vấn đề nghiên cứu
của đề tài, tất cả đều có giá trị tham khảo tốt. Tuy nhiên nội dung đề cập mang
tính chất chung chung. Cho đến nay, chưa có một chuyên luận nào nghiên
cứu: “Thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học môn giáo dục công dân ở
trường Trung học phổ thông Chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ ”. Luận văn
đi sâu nghiên cứu cơ sở khoa học của đề tài; Quy trình, điều kiện thiết kees và
sử dụng trò chơi; Thực nghiệm sử dụng trò chơi trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương
pháp trò chơi trong dạy học GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương.
Luận văn đưa ra quy trình, điều kiện thiết kế và sử dụng trò chơi. Từ đó tiến
hành thực nghiệm sư phạm, đánh giá kết quả thực nghiệm, đề xuất giải pháp,
kinh nghiệm và kiến nghị.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học
môn Giáo dục công dân ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Chủ yếu tập trung vào việc ứng dụng, sử dụng các trò
chơi.
+ Không gian: Trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ trong
những tiết ôn tập và tổng kết ở môn GDCD lớp 12.

44



+ Thời gian: Nghiên cứu thực trạng thiết kế và sử dụng trò chơi trong
dạy học ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ những năm gần
đây và thực nghiệm sư phạm năm 2015.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
- Cơ sở khoa học của việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học
môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
- Quy trình, điều kiện và thực nghiệm thiết kế và sử dụng trò chơi trong
dạy học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
5.2. Đóng góp mới của tác giả
- Làm rõ cơ sở lí luận của việc việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong
dạy học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
- Làm rõ thực trạng việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy học môn
GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
- Nêu được quy trình, điều kiện thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy
học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc nghiên cứu và dạy học môn GDCD lớp 12.
6. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân
tích tổng hợp tài liệu, phương pháp trao đổi kinh nghiệm, phương pháp điều
tra cơ bản, đặc biệt là phương pháp thực nghiệm sư phạm và phương pháp
phân tích số liệu thống kê…
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết:

55



Chương 1: Cơ sở khoa học của việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong
dạy học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
Chương 2: Quy trình, điều kiện thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy
học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Thực nghiệm sử dụng trò chơi trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.

66


NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG TRÒ CHƠI
TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD Ở TRƯỜNG THPT
CHUYÊN HÙNG VƯƠNG, TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Cơ sở lý luận của việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy
học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
1.1.1. Khái niệm về trò chơi và phương pháp trò chơi trong dạy học
môn GDCD ở trường THPT
1.1.1.1. Khái niệm về trò chơi
* “Trò chơi”
Hiện nay, có một số quan niệm khác nhau về khái niệm trò chơi như sau:
Một số nhà tâm lý – giáo dục học theo trường phái sinh học như
K.Gross, S.Hall, V.Stern ... cho rằng, trò chơi là do bản năng quy định, chơi
chính là sự giải tỏa năng lượng dư thừa.
Còn G.Piagie cho rằng, trò chơi là hoạt động trí tuệ thuần túy là một
nhân tố quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ.
Trên quan điểm macxit, các nhà khoa học Xô Viết đã khẳng định rằng,
trò chơi có nguồn gốc từ lao động và mang bản chất xã hội. Trò chơi được

truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác chủ yếu bằng con đường giáo dục.
Theo Từ điển Tiếng Việt (1992), Viện KHXH Việt Nam, Trung tâm từ
điển ngôn ngữ Hà Nộithì trò chơi là "Hoạt động bày ra để vui chơi, giải trí".
Từ những quan niệm trên, chúng tôi thấy rằng, trò chơi là hoạt động
vui chơi mang một chủ đề, một nội dung nhất định, có tổ chức của nhiều
người tham gia (từ 2 người trở lên) và có những quy định, những luật lệ buộc
người tham gia phải tuân theo.

77


Trò chơi được cấu trúc từ những yếu tố: Cốt trò, Đề trò, Luật trò,
Thưởng-phạt.
Có thể minh hoạ bằng sơ đồ 1: Cấu trúc của trò chơi.
Trò chơi

Cốt trò

Đề trò

Luật trò

Thưởng, phạt

Cốt trò là “bộ xương” của trò chơi, là cái tạo nên trò chơi, là mục tiêu
mà trò chơi muốn đạt được.
Đề trò là hình thức thể hiện trò chơi, là bước dẫn dắt trò chơi, là tình
huống nhằm thu hút, lôi cuốn, kích thích cho người chơi tham gia một cách
tích cực.
Luật trò là những quy định, quy tắc mà bất cứ người chơi nào cũng phải

tuân thủ. Luật trò phải được phổ biến trước khi chơi để những người chơi nắm
được mà thực hiện đúng luật, tránh vi phạm trong khi chơi.
Thưởng, phạt: Trò chơi bao giờ cũng có kẻ thắng, người thua và đi kèm
có thưởng cho người (hoặc nhóm) thắng cuộc và có phạt cho người (hoặc
nhóm) nào thua cuộc. Tuy nhiên, thưởng và phạt ở đây chỉ mang tính tượng
trưng đơn giản, vui vẻ, khích lệ.
* “Trò chơi học tập”
Trò chơi học tập là loại trò chơi có chứa nội dung dạy học, được trình
bày ra để thông qua việc chơi mà học.
A.I Xôrôkina đã đưa ra một luận điểm vô cùng quan trọng về đặc thù
của trò chơi học tập: “Trò chơi học tập là một quá trình phức tạp, nó là hình
thức dạy học và đồng thời nó vẫn là trò chơi…Khi các mối quan hệ chơi bị
xóa bỏ, ngay lập tức trò chơi biến mất và khi ấy, trò chơi biến thành tiết học,
đôi khi biến thành sự luyện tập”.
88


Sách giáo viên môn Khoa học viết: Trò chơi học tập là Trò chơi có nội
dung gắn với hoạt động học tập của học sinh[6].
Như vậy, các nội dung học tập được thể hiện vào trong trò chơi và
thông qua trò chơi học sinh nắm được nội dung mà GV cần truyền đạt.
Trần Thị Ngọc Trâm trong “Thiết kế và sử dụng trò chơi học tập nhằm
phát triển khả năng khái quát hoá của trẻ Mẫu giáo lớn” Tạp chí Giáo dục số
36. Bộ GD&ĐT cho rằng: “Trò chơi học tập là một trong những phương tiện
có hiệu quả để phát triển các năng lực trí tuệ, trong đó có khả năng khái quát
hóa là một năng lực đặc thù của khả năng con người” [37].
Trò chơi, khi đưa vào giờ học thì nhất thiết phải là một bộ phận của nội
dung bài học, phải góp phần vào việc hình thành các kiến thức cơ bản hoặc
rèn luyện kỹ năng cơ bản của triết học. Việc thiết kế các trò chơi trong quá
trình dạy học là một nghệ thuật sư phạm trong dạy học và việc tổ chức trò

chơi lúc này được xem như là một phương pháp dạy học thực sự - một
phương pháp sư phạm tích cực.
1.1.1.2. Phương pháp trò chơi trong dạy học môn GDCD ở trường THPT
- Phương pháp được hiểu là cách thức, con đường phương tiện để đạt
tới mục đích, để giải quyết những nhiệm vụ nhất định.
- Theo Nguyễn Thị Bích Hồng trong “phương pháp sử dụng trò chơi
trong dạy học ” cho rằng: Phương pháp dạy học là cách thức hoạt động phối
hợp thống nhất của người dạy và người học dưới sự chỉ đạo của người dạy
nhằm thực hiện tối ưu mục đích và nhiệm vụ dạy học. Khái niệm “Phương
pháp dạy học” thường được hiểu trên ba cấp độ:
+ Cấp độ 1(nghĩa rộng): PPDH là sự định hướng tổ chức hoạt động
dạy học.
+ Cấp độ 2 (PPDH cụ thể): PPDH là cách thức tiến hành hoạt động dạy
học tạo phong cách riêng của từng GV.

99


+ Cấp độ 3 (mặt kỹ thuật): PPDH là những hành động, thao tác thực
hiện theo tiến trình nhằm đảm bảo sự thành công của phương pháp [20].
- Có những quan niệm khác nhau về trò chơi dạy học. Theo lý luận dạy
học, tất cả những trò chơi gắn với việc dạy học như là phương pháp, hình thức
tổ chức và luyện tập... không tính đến nội dung và tính chất của trò chơi thì
đều được gọi là trò chơi dạy học. Do những lợi thế của trò chơi có luật được
quy định rõ ràng (gọi tắt là trò chơi có luật), trò chơi dạy học còn được hiểu là
loại trò chơi có luật có định hướng đối với sự phát triển trí tuệ của người học,
thường do giáo viên nghĩ ra và dùng nó vào mục đích giáo dục và dạy học.
Trò chơi dạy học có nguồn gốc trong nền giáo dục dân gian, trong những trò
chơi đầu tiên của mẹ với con, trong các trò vui và những bài hát khôi hài làm
cho đứa trẻ chú ý đến những vật xung quanh, gọi tên các vật đó và dùng hình

thức đó để dạy con, những trò chơi đó có chứa đựng các yếu tố dạy học.
Cần lưu ý rằng, cách gọi tên trước đây là trò chơi học tập, thật ra chưa
chính xác, bởi vì học sinh không xây dựng và thiết kế chúng, ý tưởng và mục
tiêu của trò chơi không phải do học sinh đề ra, học sinh cũng không tiến hành
trò chơi mà là tham gia trò chơi. Đó là một loại hoạt động giáo dục do GV
tiến hành để dạy học là một “trò” của GV chứ không phải trò của học sinh.
- Vậy phương pháp trò chơi học tập là phương pháp tổ chức hoạt động
học tập của học sinh mà trong đó học sinh lĩnh hội được các kiến thức cần
thiết nhờ tham gia tích cực vào các hoạt động của trò chơi.
Dạy học dựa trên trò chơi là một phương pháp gây nhiều hứng thú cho
người học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo của người dạy.
1.1.2. Các bước tổ chức trò chơi trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT
1.1.2.1. Một số yêu cầu khi lựa chọn, tổ chức trò chơi trong dạy học
môn GDCD ở trường THPT
Trò chơi trong dạy học chính là phương pháp tổ chức hoạt động học tập
cho học sinh. Trong lúc chơi, học sinh sẽ không ý thức được mình là đang học
10


mà các em sẽ thúc đẩy bằng động cơ vui chơi: Cố gắng làm nhanh, làm đúng
để thắng cuộc. Vì vậy, để sử dụng phương pháp trò chơi một cách có hiệu
quả, cần phải đạt được những yêu cầu sau:
- Trò chơi phải là một thành tố hữu cơ của bài dạy, trò chơi phục vụ
chủ yếu cho chủ đề của bài học.
- Trò chơi phải phục vụ thiết thực việc lĩnh hội, củng cố kiến thức bài
học cho HS. Ví dụ: Sử dụng trò chơi “Tìm sự kiện” nhằm thi đua để kiểm tra
kiến thức cơ bản của bài học.
- Các trò chơi được sử dụng trong bài học phải bảo đảm tính khoa học,
tính chất và mức độ của trò chơi phải phù hợp với lứa tuổi, với đặc điểm tâm

sinh lý của trẻ em, phù hợp với đặc điểm giới tính của trẻ.
- Khi tiến hành trò chơi, có thể kết hợp với một số phương pháp khác
để làm nổi bật lên mấu chốt của bài học, làm sao gây được hứng thú cho HS,
tránh tẻ nhạt và đơn điệu.
- GV phải nắm thật vững mục đích của trò chơi, cách thức tổ chức
hướng dẫn HS chơi và phải tổng kết, kết luận để làm rõ kiến thức cần lĩnh
hội.
- Khi tiến hành trò chơi, GV phải theo dõi sát tiến trình và kết quả của
trò chơi tức là phải có được thông tin phản hồi từ phía HS để nhận định đánh
giá khen chê đúng lúc, kịp thời động viên khích lệ để HS ngày càng mạnh dạn
tham gia tích cực hơn.
1.1.2.2. Cách xây dựng một trò chơi trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT
Khi xây dựng trò chơi học tập GV cần tuân thủ những bước sau
Bước 1: Lựa chọn trò chơi
- Phân tích yêu cầu cần đạt được của bài học.

11


- Chọn thử trò chơi nào đó để phân tích nội dung bài học và khả năng
ứng dụng của trò chơi đó.
- Đối chiếu khả năng giáo dục của trò chơi (vừa chọn thử) với yêu cầu
của bài học (nếu thấy không phù hợp thì cần trở lại việc chọn thử trò chơi).
Bước 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi
- GV thiết kế giáo án chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng phục
vụ cho trò chơi.
- Chuẩn bị thực hiện giáo án.
Bước 3: Giới thiệu và giải thích trò chơi GV nêu tên trò chơi, cách thức
chơi, những thao tác cần thiết, cố gắng thật ngắn gọn, rõ ràng làm sao để HS

hiểu rõ cách thực hiện trò chơi.
Bước 4: Điều khiển, nhận xét, đánh giá
1.1.2.3. Một số lưu ý khi xây dựng trò chơi trong dạy học môn GDCD
ở trường THPT
Khi xây dựng trò chơi học tập GV cần chú ý tới:
- Phải thể hiện được tính thi đua giữa các cá nhân và các nhóm.
- Có quy định về sự thưởng phạt rõ ràng.
- Có cách chơi cụ thể (bao gồm cả thời gian).
- Có cách tính điểm.
Như vậy, để xây dựng một trò chơi học tập, GV cần lựa chọn từ các
hoạt động đảm bảo được các nhân tố cơ bản trên.Ngoài các trò chơi trong
SGK, GV có thể bổ xung các trò chơi hợp lí với bài học và trình độ nhận thức
của HS.
1.1.2.4. Các bước tổ chức một trò chơi trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT
Khi tổ chức một trò chơi học tập, GV cần tiến hành theo các bước sau:

12


Bước 1: Giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và
phổ biến luật chơi.
Bước 2: Cho HS chơi thử nhằm giúp HS có biểu tượng về trò chơi.
Bước 3: Chơi thật.
Bước 4: Nhận xét kết quả trò chơi (có thể thưởng phạt người thắng
hoặc người thua). Nhận xét thái độ của người chơi và rút kinh nghiệm.
Bước 5: Kết thúc: GV hỏi xem HS đã học được gì qua trò chơi hoặc
GV tổng kết lại những gì cần học thông qua trò chơi này.
1.1.3. Các hình thức trò chơi trong dạy học môn GDCD ở trường THPT
1.1.3.1.Phân loại trò chơi học tập ở phổ thông:

Trò chơi học tập có thể phân loại theo số người tham gia: trò chơi tập
thể, trò chơi cá nhân.
Hoặc phân theo tính chất: trò chơi với đồ vật, trò chơi vận động, trò
chơi trí tuệ, trò chơi kết hợp (vận động và trí tuệ)
Hoặc phân loại theo các môn học: trò chơi toán học, trò chơi tìm hiểu
lịch sử... Trong các môn học lại được phân ra theo các mạch kiến thức, phân
theo chủ đề học tập.
Trò chơi vận động: Trò chơi vận động là loại hình trò chơi vận động
cơ bắp của cơ thể, hầu hết HS đều thích loại trò chơi này.
Trò chơi với đồ vật: Trong trò chơi với đồ vật, HS sử dụng đồ vật để
minh hoạ, tưởng tượng nhân hoá... cho những vấn đề, sự vật mà chúng đã biết
và muốn hướng tới.
Trò chơi theo chủ đề: Loại trò chơi này rất đa dạng, cũng như cuộc
sống muôn hình muôn vẻ. Bởi vì mỗi một kỳ học là một chủ đề khác nhau, vì
vậy mỗi một chủ đề có những trò chơi học tập khác nhau.
Ví dụ: Chủ đề triết học, chủ đề về pháp luật, kinh tế ...

13


Trò chơi trí tuệ: Đây là trò chơi hoàn toàn dựa trên cơ sở hoạt động
sáng tạo của HS. Nội dung của trò chơi này là sự thi đấu về một hoạt động trí
tuệ nào đó: sự nhanh trí, trí nhớ, sức tưởng tượng sáng tạo, các hoạt động phát
minh, đố vui, khám phá...
1.1.3.2.Trò chơi học tập trong môn GDCD:
Trò chơi học tập trong môn GDCD là các trò chơi trong đó có chứa
các nội dung kiến thức của phân môn GDCD.Nó có thể bao gồm tất cả các
loại như đã nêu và được thể hiện ở một khâu nào đó trong việc dạy học (đầu
tiết, giữa tiết, cuối tiết hoặc trong giờ luyện tập, ngoại khoá...) nhằm mục
đích: dẫn dắt, hình thành kiến thức mới, hay củng cố, ôn luyện nội dung kiến

thức đã học cho học sinh.
Nói cách khác, GV chuyển nội dung kiến thức của bài học GDCD
thành các nhiệm vụ học tập thông qua trò chơi và cách thức chơi để lĩnh hội
tri thức của bài học.
Phân loại và cách sử dụng trò chơi trong dạy học phân môn GDCD:
Trong dạy học phân môn GDCD có thể sử dụng một số loại trò chơi
chủ yếu như : Đóng vai, ô chữ; Ai nhanh, ai đúng, Điền chỗ trống ...
Kết hợp với hoạt động Đội hoặc “bắt chước” các phương tiện truyền
thông đại chúng, ta có các trò chơi: “Trò chơi âm nhạc”, “ Nhà sử học nhỏ
tuổi”; “ Đuổi hình bắt chữ”; “Đến thăm Văn Miếu - Quốc Tử giám”; “Rung
chuông vàng”; “Hành trình văn hoá”, “Đối mặt”...
Về tên gọi trò chơi có thể có một số cách gọi khác nhau. Giáo viên hay
học sinh cũng có thể sáng tạo ra trò chơi và tên gọi mới, miễn sao phù hợp với
tiến trình dạy học và nội dung kiến thức cần lĩnh hội. Ví dụ: Ca-rô đoán bão,
Hoạ thơ, Nhìn tranh kể chuyện, Hướng dẫn viên du lịch...
Ví dụ:
* Trò chơi Trò chơi ô chữ hay đi tìm mảnh ghép

14


Trò chơi ô chữ là loại hình trò chơi biến tấu từ trò chơi trong các
chương trình “Đường lên đỉnh Ôlympia” hay trong chương trình “Chiếc nón
kỳ diệu”. Trò chơi này phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh.
Học sinh buộc phải huy động vốn kiến thức, sự hiểu biết và sự nhanh trí để
điền đúng từng ô chữ gắn với một thông tin về kiến thức nhất định để tham
gia vào trò chơi.
Bước 1:
- GV hướng dẫn cách chơi: Giáo viên đưa ra các hình thức thực hiện
pháp luật và những mảnh ghép có từ gợi ý tương ứng. Tất cả được thiết kế

trên Power Point.Yêu cầu học sinh nhìn lên màn hình, sau đó hãy lắp ghép
các hình thức thực hiện pháp luật với mảnh ghép đúng của nó.Nếu học sinh
thực hiện chính xác sẽ dành một phần quà.
- Thời gian chơi: 8-10 phút
Bước 2: Cho HS chơi thử nhằm giúp HS có biểu tượng về trò chơi.
Bước 3: Chơi thật. Sau khi phổ biến luật chơi, cho HS chơi thử để HS
hình dung rõ cách chơi.Sau đó GV tổ chức cho HS chơi thật.GV vừa là người
điều khiển trò chơi vừa là trọng tài.
Nội dung các hình thức thực hiện pháp luật:
+ Tuân thủ pháp luật (1)
+ Áp dụng pháp luật (2)
+ Sử dụng pháp luật (3)
+ Thi hành pháp luật (4)
Nội dung của các mảnh ghép tương ứng:
+ Cảnh sát giao thông xử lý vi phạm những trường hợp không đội mũ
bảo hiểm (mảnh ghép 1)
+ Nhà máy không xả chất thải chưa qua xử lý ra môi trường (mảnh
ghép 2)

15


+ Thanh niên thực hiện nghĩa vụ quân sự. (mảnh ghép 3)
+ Ông A mở cửa hàng bán xe ô tô. (mảnh ghép 4)
Bước 4: Nhận xét kết quả trò chơi.
Đáp án: (2) – mảnh ghép 1, (1) – mảnh ghép 2, (3) – mảnh ghép 4, (4) –
mảnh ghép 3.
- Trò chơi Trò chơi âm nhạc
Bước 1:
- GV giới thiệu tên trò chơi: Trò chơi âm nhạc

- Phổ biến luật chơi: Giáo viên đưa ra 8 ô số, sau mỗi ô số có một từ
là các thành viên trong gia đình, bảng số thăm thứ tự theo danh sách của
học sinh,…
- Thời gian chơi: 18-20 phút
- Hướng dẫn cách chơi: Cả lớp cùng chơi. Giáo viên sẽ bốc ngẫu nhiên
một lá thăm có số thứ tự bên trong, học sinh nào có số thứ tự đó sẽ được chọn
ô số trên màn hình, sau đó học sinh phải hát một bài hát có từ vừa được lật ra.
Nếu thực hiện tốt, học sinh sẽ được một phần quà.
Bước 2: Cho HS chơi thử nhằm giúp HS có biểu tượng về trò chơi.
Bước 3: Chơi thật.
- GV là người điều khiển trò chơi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi.
- Nội dung sau các ô số: cha, mẹ, ông, bà, anh, chị, em, cháu.
Bước 4:
- GV nhận xét kết quả trò chơi (có thể thưởng phạt người thắng hoặc
người thua).
- Nhận xét thái độ của người chơi và rút kinh nghiệm.
Bước 5: Kết thúc: GV hỏi xem HS đã học được gì qua trò chơi hoặc
GV tổng kết lại những gì cần học thông qua trò chơi này.

16


Qua trò chơi, Gv nhắc lại cho HS nhớ lại kiến thức về quyền bình đẳng
của của công dân.
* Xét về mục đích phục vụ dạy học nói chung, trò chơi có thể phân ra thành:
- Trò chơi dẫn dắt, hình thành tri thức mới.
- Trò chơi củng cố khái niệm, kiến thức.
- Trò chơi ôn tập, luyện tập, rèn luyện tư duy ( Đây là dạng trò chơi
thường được tổ chức vào các giờ luyện tập, ngoại khóa).
- Trò chơi về tính toán, trí nhớ.

- Trò chơi về luyện trí thông minh.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc thiết kế và sử dụng trò chơi trong dạy
học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
1.2.1. Đặc điểm trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
Khả năng vận dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn GDCD ở
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
Trường Trung học phổ thông chuyên Hùng Vương là trường trung học
phổ thông công lập nằm ở thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.Là một trong
những trường trung học phổ thông chuyên đầu tiên của cả nước và duy nhất
của tỉnh Phú Thọ.
Với tiền thân là lớp chuyên toán của tỉnh đặt tại trường Trung học phổ
thông Hùng Vương (Thị xã Phú Thọ). Từ năm 1966, tháng 9 năm1982 hệ
thống này được tách ra thành lập phân hiệu chuyên với 6 lớp chuyên toán và
chuyên văn gồm 133 học sinh (năm học 1982-1983) và 21 cán bộ giáo viên.
Ngày 22/8/1986 UBND Tỉnh ký quyết định chính thức thành lập trường
và được đặt tên là Trường THPT chuyên Hùng Vương với số lượng 180 học
sinh của 6 lớp chuyên toán và chuyên văn (năm học 1985-1986). Tổng số giáo

17


viên và cán bộ công nhân viên là 32 người, trong đó có 23 giáo viên. Trường
có học sinh giỏi Quốc gia đầu tiên năm học 1982-1983.
Ngày 1/9/1994 Trường được Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh
Phú (nay là Phú Thọ và Vĩnh Phúc) ký quyết định cho chuyển về xây dựng tại
Phường Tân Dân, Thành phố Việt Trì trên cơ sở một phần diện tích
của Trường dự bị Dân tộc Trung ương.
Năm học 1994 – 1995 nhà trường chính thức có hệ không chuyên.Năm
học 2001-2002, Trường có 2161 học sinh của 44 lớp học (năm học có đông
học sinh nhất).

Trường là nơi cung cấp chủ yếu HS cho đội tuyển của tỉnh tham dự kì
thi học sinh giỏi quốc Gia và Quốc tế. Số lượng học sinh tham dự kì thi học
sinh giỏi Quốc gia chiếm trên 90% số lượng toàn tỉnh, nhiều năm liền hoàn
toàn là học sinh của trường. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc Gia đều
diễn ra tại trường và hầu hết do giáo viên của nhà trường phụ trách.
Năm học 2007 – 2008, Trường có 118 cán bộ quản lý và giáo viên trực
tiếp giảng dạy với 1472 học sinh của 40 lớp (30 lớp chuyên và 10 lớp không
chuyên). Trong đó 91 người có trình độ đại học và 25 người có trình độ trên
đại học. Một đội ngũ các cựu học sinh của trường đã quay trở lại về trường
giảng dạy và công tác.
Hiện nay ở mỗi khối 10,11,12 nhà trường đều có mười một lớp chuyên
(Toán, toán-tin, tin, vật lý, hóa học, sinh hoc, văn, lịch sử, địa lý, tiếng anh và
tiếng pháp) và mỗi khối có từ 2-3 lớp không chuyên. Năm học 2007-2008 nhà
trường có 30 lớp chuyên và 10 lớp không chuyên.

18


Do đạt được nhiều thành tích trong quá trình dạy và học nên nhà trường
đã được nhận nhiều danh hiệu, cờ khen của tỉnh và nhà nước trao tặng.[44]
Và là trường chuyên duy nhất của tỉnh, nên cơ sở vật chất kỹ thuật - cơ sở
hạ tầng của trường khá là tốt.Nhu cầu phục vụ cho việc nâng cao chất lượng
giảng dạy các môn học rất được quan tâm.Đặc biệt trong đó có môn GDCD.Việc
vận dụng phương pháp trò chơi vào trong dạy học môn GDCD rất được khuyến
khích và đề cao. Đội ngũ giáo viên dạy bộ môn GDCD (3 GV) đều có chuyên
môn nghiệp vụ tốt. Bên cạnh đó, học sinh của trường chủ yếu là những em
ngoan và có học lực khá trở lên. Việc tiếp thu phương pháp học mới – vận dụng
phương pháp trò chơi vào trong dạy bộ môn GDCD được một cách dễ dàng.
Từ đó có thể nâng cao hiệu quả việc dạy và học môn GDCD.
1.2.2. Thực trạng việc thiết kế và sử dụng phương pháp trò chơi trong

dạy học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
1.2.2.1. Thực trạng dạy học môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng
Vương, tỉnh Phú Thọ
* Về phương pháp dạy học
- Tổ chức khảo sát thực trạng
+ Mục đích khảo sát: Xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc thiết kế và sử
dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn GDCD ở trường THPT chuyên
Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
+ Đối tượng khảo sát và mẫu khảo sát: 3 GV dạy môn GDCD của
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ.
+ Phương pháp khảo sát: Bằng phương pháp quan sát (thông qua dự
giờ, thăm lớp).
+ Thời gian khảo sát: tháng 4 và tháng 5 năm 2015

19


Qua khảo sát dự giờ, tôi thấy phần lớn giáo viên vẫn dạy học môn
GDCD bằng hệ thống phương pháp cũ, chủ yếu là giảng giải hỏi đáp. Một số
giáo viên đã cố gắng tổ chức hoạt động nhóm, sử dụng một số trò chơi.Song
phần lớn các câu hỏi, lệnh học tập, cách chơi nặng về hình thức, chưa thực sự
tác động, kích thích tư duy và tạo được hứng thú cho học sinh.
Nội dung một số bài giảng GDCD khô khan, nhàm chán đối với học
sinh. Chất lượng học tập không cao, tỉ lệ đạt khá và giỏi thấp hơn các bộ môn
văn hoá khác.
Giáo viên chưa vận dụng phương pháp dạy học hiện đại vào giảng dạy
môn GDCD một cách phù hợp, chưa tích cực sử dụng phương tiện dạy học để
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Về cơ bản GV chưa sử dụng
các trò chơi trong dạy học môn GDCD.
* Về hình thức dạy học

Phần lớn các giáo viên vẫn sử dụng hình thức lớp - bài (hình thức tổ
chức dạy học mà thời gian học tập được quy định một cách xác định và ở một
địa điểm riêng biệt)trong dạy học.
Các hình thức dạy học hiện đại như: Nhóm, dạy học hiện trường, tham
quan thực tế, sưu tầm tư liệu liên quan đến kinh tế - xã hội… đặc biệt là hình
thức tổ chức các loại hình trò chơi học tập trong môn GDCD vẫn còn ít và
trình diễn (chủ yếu xuất hiện trong các giờ thao giảng)
Nguyên nhân của tình trạng trên là: Cơ sở vật chất, trang thiết bị còn
thiếu, không gian lớp học chưa thuận lợi cho việc tiến hành trò chơi học tập,
giáo viên ngại áp dụng vì sợ lớp ồn, ảnh hưởng đến các lớp khác. Kinh phí
dành cho chuyên môn rất hạn chế, tài liệu tham khảo ít hoặc không có. Nhiều
giáo viên chưa nắm vững kiến thức GDCD, thiếu kỹ năng đặc trưng để dạy bộ
môn cũng là trở ngại đáng kể khi sử dụng hình thức và phương pháp trò chơi.
* Về việc kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học

20


Ở trường THPT chuyên Hung Vương, tỉnh Phú Thọ, đại đa số GV sử
dụng các hình thức kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết, kiểm tra
định kì để đánh giá HS. Nguyên tắc kiểm tra, đánh giá là :
- HS không phải học thuộc lòng mà trình bày nội dung bài học bằng
chính ngôn ngữ của mình một cách chính xác và sinh động dưới hình thức :
nói, viết…
- Bài làm của HS cần có sự phân tích, tổng hợp, khái quát, … nhưng
chỉ ở mức độ đơn giản. Ví dụ : HS có thể tìm ra một, hai đặc điểm tiêu biểu
nhất của một vấn đề.
- GV đánh giá kết quả học tập của HS;đồng thời khuyến khích HS đánh
giá lẫn nhau và HS tự đánh giá bản thân.
Trong thực tế, ít GV dám cho điểm qua theo dõi hoạt động học tập của

HS. Khi tổ chức trò chơi học tập, các GV cũng thường chỉ dám cho điểm
mang tính động viên theo kiểu tính điểm trong cuộc chơi. Điều này kéo theo
sự hạn chế trong cách thức tổ chức lớp học, chưa khuyến khích cao nhất sự
tham gia của HS vào trò chơi.
* Về thời lượng môn học
Do hạn chế về thời lượng cho phân môn này (1 tiết/tuần) nên việc thiết
kế và sử dụng phương pháp trò chơi vào trong dạy học môn GDCD vẫn còn
hạn chế.
1.2.2.2. Thực trạng sử dụng trò chơi trong dạy học học môn GDCD ở
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
Tôi đã sử dụng phiếu điều tra kết hợp với trò chuyện, phỏng vấn các
CBGV dạy môn GDCD ở trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọvà
thu được kết quả như sau :
* Nhận thức của giáo viên về trò chơi và sử dụng trò chơi trong dạy
học GDCD

21


Bảng 1.1: Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết đưa trò chơi vào
dạy học môn GDCD
TT
1
2
3

Các mức độ nhận thức
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết


Số phiếu
65
27
5

Tỷ lệ %
67,0
27,8
5,2

Biểu đồ 1.1: Nhận thức của giáo viên về sự cần thiết đưa trò chơi
vào dạy học môn GDCD

Từ kết quả điều tra khảo sát được thể hiện qua biểu đồ 1.1 cho thấy, đa
số giáo viên đánh giá cao tầm quan trọng và sự cần thiết của việc tổ chức trò
chơi cho học sinh trong quá trình dạy học môn GDCD. 65% giáo viên cho
rằng tổ chức trò chơi cho học sinh trong quá trình dạy học GDCD là rất cần
thiết và quan trọng.
Trò chơi học tập giúp học sinh lĩnh hội những tri thức và kỹ năng khác
nhau mà không có chủ định từ trước. Đồng thời, giúp người học cảm nhận
được một cách trực tiếp kết quả hành động của mình, từ đó thúc đẩy tính tích
cực, mở rộng, củng cố và phát triển vốn hiểu biết của người học.
Từ ý kiến của các giáo viên ta khẳng định mức độ cần thiết của việc
sử dụng trò chơi cho học sinh trong dạy học môn GDCD ở trường THPT
chuyên HV.
Bảng 1.2: Nhận thức của giáo viên về vai trò của việc tổ chức trò
chơi trong dạy học môn GDCD
TT


Vai trò tích cực và hạn chế

22

Số

Tỉ lệ


1

Nâng cao hiệu quả giờ dạy

phiếu
97
100

2

Kích thích hứng thú học tập của học sinh

87

89,6

3

Giờ học sinh động hơn sôi nổi hơn

90


90,0

4

Phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh

92

92,8

5

Lớp học ồn ào lộn xộn kém hiệu quả

17

17,5

6

Chuẩn bị công phu mất nhiều thời gian

25

25,8

7

Ảnh hưởng đến quy trình dạy của giáo viên


5

5,2

8

Kìm hãm sự phát triển tư duy trừu tượng của học sinh

12

12,4

Biểu đồ 1.2: Nhận thức của giáo viên về vai trò của việc tổ chức trò
chơi trong dạy học môn GDCD
Số liệu trên cho thấy giáo viênđánh giá cao vai trò, tác dụng của trò chơi
trong dạy học môn GDCD. Từ 89,6% đến 100% ý kiến của GV cho rằng việc sử
dụng trò chơi cho học sinh cho phép nâng cao hiệu quả giờ dạy, kích thích hứng
thú học tập của học sinh; Giờ học sinh động hơn sôi nổi hơn và phát huy tính
tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh.
* Tình hình sử dụng trò chơi trong dạy học môn GDCD ở trường
THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ
Qua khảo sát, ta thấy mức độ không thường xuyên sử dụng trò chơi
trong dạy học môn GDCD là phổ biến.
Bảng 1.3: Mức độ sử dụng trò chơi cho học sinh của giáo viên
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ trong quá trình dạy học
môn GDCD
TT

Mức độ


Số phiếu

23

Tỷ lệ %


1

Thường xuyên

22

22,7

2

Thỉnh thoảng (chỉ sử dụng khi có dự giờ)

42

43,3

3

Không tổ chức

33


34,0

24


Biểu đồ 1.3: Mức độ sử dụng trò chơi cho học sinh của giáo viên
trường THPT chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ trong quá trình dạy học
môn GDCD

Từ số liệu trên ta thấy, số giáo viên thường sử dụng trò chơi cho học
sinh trong quá trình dạy học môn GDCDcòn ít (chiếm tỷ lệ 22,7%). Có 43,3%
giáo viên tỉnh thoảng tổ chức nhưng chỉ tổ chức khi có người dự giờ. Trong
khi đó có 34,0% giáo viên không tổ chức cho học sinh trong quá trình dạy học
môn GDCD.
Như vậy, việc nhận thức và sử dụng trò chơi của giáo viên ở trường rất
khác nhau. Đa số giáo viên nhận thức được vai trò quan trọng của việc tổ
chức trò chơi trong dạy học môn GDCD nhưng thỉnh thoảng hoặc không tổ
chức trò chơi cho học sinh.
Cá biệt có GV còn chưa biết cách tổ chức trò chơi cho học sinh trong
quá trình dạy học. Một số giáo viên chưa nắm vững cách thức, quy trình nên
tuy có tổ chức nhưng hiệu quả chưa cao, giờ học ồn ào, ảnh hưởng đến tiến
trình các bước lên lớp tiếp theo (Xem thêm bảng 1.2.).
Qua thực trạng sử dụng trò chơi trong dạy học môn GDCD ở trường THPT
chuyên Hùng Vương, tỉnh Phú Thọ, chúng tôi thấy nổi lên mấy vấn đề sau:
Mặc dù phần lớn giáo viên của trường đánh giá cao vai trò của việc tổ
chức trò chơi cho học sinh trong giờ học môn GDCD nhưng ít khi sử dụng
hoặc không sử dụng.
Chất lượng học tập môn GDCD còn hạn chế, học sinh học tập chưa tích
cực và chủ động, không ít GV sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu, chưa
hiệu quả.


25


×