Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

“Một số phương pháp tạo hứng thú trong việc dạyhọc môn Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.86 KB, 20 trang )

Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ
Môn Giáo dục công dân (GDCD) là một môn học hết sức quan trọng
và cần thiết, nhất là trong thời buổi kinh tế thị trường ngày nay thì môn
GDCD lại càng quan trọng hơn. Trong thời đại ngày nay, đồng tiền đã chi
phối các hoạt động của con người kể cả hoạt động đạo đức, nó đã làm cho
đạo đức nhiều người xuống cấp trầm trọng, làm cho con người không còn
giữ được những phẩm chất đạo đức, truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam ta. Sự xuống cấp đạo đức đó đã len lỏi vào cả trường học và đang
ngày càng làm cho học sinh (HS) chúng ta quên đi những truyền thống đạo
đức quý báu của dân tộc Việt Nam ta. Chính vì vậy mà cần phải đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cho HS để kịp thời uốn nắn các em trở thành một con
người tốt có ích cho xã hội.
Muốn làm được điều đó, chúng ta cần phải xem trọng môn GDCD và
nâng tầm quan trọng của nó lên trong chương trình giảng dạy ở nhà trường
phổ thông. Bởi vì môn GDCD là sự kết hợp giáo dục cho các em đạo đức
và pháp luật để các em sống vừa có đạo đức nhưng cũng vừa phù hợp với
Hiến pháp và Pháp luật của Việt Nam.
Qua thực tế giảng dạy tại trường Trung học cơ sở (THCS), tôi nhận
thấy môn GDCD còn có nhiều bất cập. Việc dạy học còn mang tính chất
thụ động, chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của HS, các em không có
hứng thú khi học môn GDCD vì môn học này mang tính cứng nhắc, khô
khan, nên hiệu quả dạy và học chưa cao chưa đáp ứng yêu cầu và nhiệm
vụ của môn học.
Hiện nay, do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, của những trò
chơi giải trí mang tính bạo lực rất nhiều. Trong khi đó, những trò chơi dân
gian, trò chơi truyền thống mang tính giáo dục cao càng ngày càng mai một
và ít được quan tâm. Cho nên đạo đức của HS ngày càng xuống cấp, các
em hay chơi những trò chơi có tính bạo lực, một số em hay đánh nhau, ăn
1



cắp, hút thuốc, uống rượu…chính vì vậy cần phải làm cho các em thấy
hứng thú khi học môn GDCD để từ đó giáo dục đạo đức, pháp luật cho HS,
uốn nắn các em trở thành những con người có ích cho gia đình, cho xã hội.
Xuất phát từ mục tiêu trên mà phương pháp dạy học môn GDCD
cũng có những yêu cầu đổi mới. Dạy-học môn này không đơn giản chỉ là
truyền thụ tri thức mà còn phải hình thành hành vi, thói quen đạo đức pháp
luật ở mỗi HS. Vì vậy, mấy năm gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chủ
trương đổi mới phương pháp dạy học. Với lý do đó tôi đã nghiên cứu một
vài phương pháp để đổi mới các hình thức học tập cho HS ở lớp mình dạy
nhằm mục đích giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn
GDCD. Từ đó cuốn hút các em say sưa, hứng thú hơn với môn học ngay từ
những năm đầu cấp. Đó cũng chính là những nội dung tôi xin được đề cập
đến trong sáng kiến: “Một số phương pháp tạo hứng thú trong việc dạyhọc môn Giáo dục công dân ở trường Trung học cơ sở”.

Phần thứ hai
2


NỘI DUNG
1. Cơ sở khoa học (lý luận) để đề xuất sáng kiến:
Môn GDCD là một môn học góp phần rất lớn trong việc giáo dục đạo
đức và những kiến thức pháp luật của HS. Là môn học mà các tri thức,
chuẩn mực, kĩ năng của nó đều gắn chặt với thực tế, rất gần gũi với mỗi
HS. Đó là những vấn đề thế giới quan và phương pháp luận khoa học, về
những vấn đề kinh tế gần gũi, về những vấn đề chính trị xã hội, về đạo đức,
pháp luật của đời sống hàng ngày tác động qua lại giữa con người với con
người, giữa con người và các thể chế xã hội. Môn học nhằm giáo dục cho
HS các chuẩn mực của người công dân ở mức độ phù hợp với lứa tuổi, trên
cơ sở đó góp phần hình thành những phẩm chất, nhân cách của con người

Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ
của thời đại.
Vì vậy, để phát huy tính tích cực của HS trong giờ dạy GDCD, người
giáo viên (GV) cần tổ chức hướng dẫn HS hoạt động, tự chiếm lĩnh các tri
thức, tự chiếm lĩnh các giá trị, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật thông qua
việc nắm tri thức, thực hành và rèn luyện trong và ngoài giờ học.
Việc giáo dục đạo đức và pháp luật cho các em không chỉ dừng lại để
các em kiểm tra bằng việc học thuộc lý thuyết mà phải để các em áp dụng
trong cuộc sống, trong giao tiếp, ứng xử của mình hàng ngày. Muốn có
hiệu quả GV cũng cần có những phương pháp dạy phù hợp. Đối với môn
GDCD, có rất nhiều phương pháp giúp các em có thể nhận thấy rõ ràng
những biểu hiện đạo đức và pháp luật trong cuộc sống. Trong nội dung
sáng kiến này, tôi chỉ nêu một vài phương pháp mà tôi thấy rất hiệu quả,
vừa giúp các em hứng thú trong học tập, vừa giúp các em nhận rõ biểu hiện
nhanh chóng nhất mà không cần nói những lý thuyết khô khan.

2. Nội dung cụ thể của sáng kiến:
3


2.1. Phương pháp sử dụng hình ảnh trực quan sinh động:
2.1.1. Khái niệm:
Là phương pháp sử dụng tranh ảnh nhằm giúp các em tái tạo, tái hiện
có sáng tạo những kiến thức trong bài.
2.1.2. Cách thực hiện:
Hình ảnh phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn GDCD là vô cùng đa
dạng, phong phú. GV có thể lấy từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau như: qua
sách vở, báo chí ti vi, mạng Internet, trao đổi với mọi người...
Để thuận lợi cho việc giảng dạy, GV nên phân loại tư liệu, sắp xếp
theo từng chủ đề khác nhau như: chủ đề về An toàn giao thông, phòng

chống tệ nạn xã hội, phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS, Thanh niên, Hôn
nhân gia đình, Hội nhập quốc tế, các chuẩn mực đạo đức...
2.1.3. Một số ví dụ cụ thể:
Ví dụ 1: Khi dạy bài 14: “Thực hiện trật tự an toàn giao thông” –
(GDCD 6), phần vào bài ta có thể đưa ra một vài hình ảnh về một vụ tai
nạn giao thông gần đây nhất để HS quan sát và thấy được sự thiệt hại về
người và tài sản do tai nạn giao thông gây ra.
GV đưa ra các số liệu tai nạn giao thông cho HS nhận xét và đi đến
kết luận tai nạn giao thông là một thảm hoạ của nhân loại. Sau đó GV nêu
câu hỏi: Theo em những nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông là do đâu?
Lúc này đòi hỏi các em phải tự tái hiện những kiến thức trong cuộc
sống, từ đó rút ra rất nhiều nguyên nhân: do lạng lách đánh võng, phóng
nhanh vượt ẩu, đi hàng ba, hàng bốn, uống rượu bia khi điều khiển phương
tiện, do đường xấu…
GV lại đặt câu hỏi: Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân nào
quan trọng nhất?
HS phải tái hiện để sáng tạo, từ đó các em sẽ nhận thấy nguyên nhân
do con người là quan trọng nhất
Ví dụ 2: Khi dạy bài 4: Bảo vệ hòa bình - (GDCD 9), GV giới thiệu
một số bức tranh nói về hậu quả của chiến tranh để khi xem những bức ảnh
4


này HS sẽ hình dung được: Hậu quả to lớn của chiến tranh, hiện nay nhiều
nơi trên thế giới chiến tranh vẫn xảy ra gây đau thương chết chóc cho bao
gia đình, từ đó các em thấy được trách nhiệm của cộng đồng thế giới, mỗi
quốc gia, mỗi con người phải làm gì để ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ hòa
bình.
2.1.4. Tác dụng:
Tranh ảnh, hình ảnh có tác dụng làm tăng tính hấp dẫn đối với nội

dung học tập, gây hứng thú học tập ở HS, tạo điều kiện để GV thực hiện
đổi mới phương pháp dạy học, loại trừ khuynh hướng dạy chay làm cho các
giờ học khô khan, mang tính chất lý thuyết, áp đặt đối với HS. Ngoài ra nó
còn là nguồn cung cấp các chất liệu để HS khai thác nội dung học tập một
cách tích cực, tự giác, giúp các em phát triển được óc quan sát, trí tưởng
tượng, khả năng tư duy liên hệ thực tế, nhớ kỹ, hiểu sâu những điều thu
nhận được.
2.1.5. Lưu ý:
Để sử dụng tranh ảnh có hiệu quả, GV cần lưu ý những điểm sau:
Trước hết, GV phải có những am hiểu tình hình chính trị xã hội của
địa phương, đất nước, phải cập nhật thông tin trên đài truyền hình, đài phát
thanh, báo chí, trên mạng Internet để bổ sung những tranh ảnh, bài viết, số
liệu mới đảm bảo tính chính xác, cập nhập của bài giảng.
Cần xác định loại tranh ảnh sử dụng, tác dụng của nó đối với bài
giảng.
Hình ảnh phải “đắt” và phù hợp, phải đảm bảo tính thẩm mĩ.
Tranh ảnh phải được treo hoặc dán ở vị trí HS dễ quan sát, tốt nhất
nên treo trên bảng, phía trước mặt HS.
Trước khi cho HS quan sát, GV cần nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ, gợi ý
các nội dung chính cần tìm hiểu, GV nên mô tả, giải thích những chi tiết
trừu tượng, phức tạp trên tranh ảnh.

5


Cho HS thảo luận, phân tích nội dung, ý nghĩa, nhận xét, đánh giá sự
kiện, tình huống qua tranh ảnh, để rút ra những điều cần thiết liên quan đến
bài học.
Trong một giờ dạy, tránh sử dụng quá nhiều hình ảnh tạo nên sự
nhiễu thông tin của HS hoặc HS quá chú ý đến hình ảnh mà không chú ý

đến nội dung bài học.
2.2. Phương pháp tổ chức trò chơi:
2.2.1. Khái niệm:
Phương pháp tổ chức trò chơi là một phương pháp giáo dục có tính
vận động (cả về trí tuệ và cơ thể), trên cơ sở đó tạo cho các em có một
không khí học tập thực sự sôi nổi, vui vẻ, thoải mái và không bị gò bó, khô
khan, cứng nhắc.
Đây là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hiện những hành
động, những thái độ, những việc làm phù hợp với các chuẩn mực, hành vi
đạo đức đã học thông qua một trò chơi nào đó.
2.2.2. Cách thực hiện:
Tổ chức trò chơi là một phương pháp rất hiệu quả để thu hút sự tham
gia của HS. Trong cuộc chơi mọi người đều bình đẳng và đều cố gắng thể
hiện "hết mình". Vì vậy tổ chức trò chơi không những là biện pháp để tăng
cường hứng thú học tập, nâng cao sự chú ý, thay đổi trạng thái tâm lí mệt
mỏi trong quá trình nhận thức mà còn là biện pháp rèn luyện các kĩ năng
ứng xử, giao tiếp, cũng cố và phát triển khả năng tự tin của các em.
GV có thể sử dụng các trò chơi dân gian có nội dung phù hợp với
yêu cầu nội dung bài học. Cũng có thể dựa trên nội dung bài học để sáng
tạo ra trò chơi mới. Thông qua trò chơi GV gợi ý cho HS thảo luận, khai
thác yêu cầu bài học. Trò chơi có thể sử dụng vào đầu giờ học để giới thiệu
bài mới, hoặc sử dụng cuối mục, cuối bài nhằm hình thành, củng cố kiến
thức mới, hình thành kỹ năng, thái độ...

6


2.2.3. Một số ví dụ cụ thể:
Ví dụ 1: Khi dạy bài 15: “Bảo vệ di sản văn hóa” - (GDCD 7), GV
có thể dẫn dắt HS vào bài với trò chơi “Bông hoa bí mật”

Cách tiến hành: GV dán lên bảng 1 bông hoa có 4 cánh và 1 nhuỵ
hoa. Mỗi cánh hoa tương ứng với 1 câu hỏi, cho HS chọn cánh hoa mà
mình thích, nếu trả lời đúng cánh hoa sẽ được mở ra, bên trong là đáp án.
Sau đây là một số câu hỏi có thể sử dụng trong trò chơi này:
Câu 1: Tên một danh lam thắng cảnh nổi tiếng ở Quảng Ninh? (Đáp
án: Vịnh Hạ Long).
Câu 2: Năm 1911, từ nơi này, Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường
cứu nước? (Đáp án: Bến Nhà Rồng)
Câu 3: Tên một ngôi chùa ở Hà Tây (nay là Hà Nội) có lễ hội dài
nhất trong năm? (Đáp án: Chùa Hương)
Câu 4: Trang phục truyền thống của người phụ nữ Việt Nam? (Đáp
án: Áo dài)
Sau khi HS trả lời xong, GV giới thiệu: Những địa danh như Vịnh Hạ
Long, bến Nhà Rồng, chùa Hương, áo dài ... đó chính là (GV mở nhuỵ hoa
có chữ di sản văn hoá) những di sản văn hoá của đất nước ta. Vậy để hiểu
thế nào là di sản văn hoá, cô và các em cùng tìm hiểu bài hôm nay.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 7 “Đoàn kết, tương trợ” - (GDCD 7), đây là
một bài dạy mà chủ yếu là giáo dục các em về đạo đức, về sự đoàn kết gắn
bó để tạo nên sức mạnh tập thể. Có thể tổ chức một trò chơi có tên gọi là
“Đoàn kết”.
+ Khi Thầy hô “Đoàn kết, đoàn kết” thì các em đáp lại là “Kết mấy,
kết mấy”.
+ Khi Thầy hô “Kết 3, kết 3” thì các em liên kết lại thành 03 người
một nhóm.
+ Khi Thầy hô “Đoàn kết, đoàn kết” thì các em đáp lại là “Kết mấy,
kết mấy”.

7



+ Khi Thầy hô “Kết 3 trên 2 chân” thì các em liên kết lại thành 03
người một nhóm nhưng phải làm thế nào để 03 người chỉ được đứng trên 2
chân.
+ Tương tự Thầy sẽ hô “Kết 4, 5, 7, 9…” Nhóm nào không làm đúng
theo yêu cầu hoặc thiếu người sẽ bị loại.
Từ một trò chơi đơn giản và dễ chơi như thế, các em sẽ khắc sâu
được kiến thức bài học và tiết học sẽ trở nên sôi nổi và hào hứng hẳn lên.
Các em biết thương yêu nhau, giúp đỡ nhau và hiểu thế nào là đoàn kết,
tương trợ.
Ví dụ 3: Bài 6 “Biết ơn” – (GDCD 6), sau khi hướng dẫn HS rút ra
được khái niệm về biết ơn thì GV có thể tổ chức trò chơi “Tiếp sức”.
GV chuẩn bị sẵn một số bông hoa ghi sẵn những hành vi chỉ nội
dung biết ơn và trái với biết ơn (vô ơn). GV chia bảng làm hai phần, mỗi
phần lại chia thành hai cột: một cột là nội dung biết ơn, một cột là nội dung
vô ơn. Sau đó chia lớp thành 2 nhóm, mỗi nhóm cử mấy bạn đại diện lần
lượt lên bảng tìm những bông hoa mang nội dung biết ơn dán vào ô biết ơn,
những bông hoa mang nội dung vô ơn dán vào ô vô ơn… mỗi lần mỗi đội
chỉ được một bạn lên dán, khi bạn lên bảng dán xong thì bạn khác mới
được lên, cứ tiếp tục như vậy đến khi nào hoàn thành thì thôi. Nhóm nào
dán xong trước và đúng đáp án là thắng. Sau khi kết thúc trò chơi GV tổng
kết, đánh giá và cho điểm từng nhóm.
Ngoài ra còn rất nhiều trò chơi khác mà GV có thể sử dụng như:
Rung chuông vàng, Ai nhanh hơn, Cánh cửa tri thức, Ô chữ bí mật, Ai thế
nhỉ, Mặt cười - mặt khóc, Tập làm phóng viên ...
2.2.4. Tác dụng:
Tổ chức trò chơi đã tạo một không khí vui tươi, sôi nổi, một môi
trường giáo dục “Thân thiện, tích cực” giữa GV và HS, vì khi đã lôi cuốn
được các em vào trò chơi thì khi đó khoảng cách giữa thầy và trò đã được
thu hẹp, các em sẽ thấy thoải mái hơn, gần gũi hơn và cũng sẽ tiếp thu tri


8


thức nhanh hơn, mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn, tạo cho các em một
cảm giác, một suy nghĩ “Mỗi ngày được đến trường là một ngày vui”.
Đồng thời phương pháp này cũng là một trong những cách phục hồi
những trò chơi dân gian của dân tộc, đưa vào trong HS, để từ đó giáo dục
các em biết yêu quí, gìn giữ và tôn trọng, phát huy những truyền thống quí
báu của dân tộc.
Khi tham gia trò chơi, HS được rèn luyện những kỹ năng, những
thao tác hành vi đạo đức giúp các em thể hiện được hành vi một cách đúng
đắn, tự nhiên, làm tăng khả năng giao tiếp cho bản thân. Bên cạnh đó, các
em sẽ vận dụng kiến thức đã học vào việc lựa chọn cho mình cách giải
quyết, ứng xử tình huống đúng đắn, phù hợp. Giúp HS rèn luyện được kỹ
năng sống cho bản thân và hình thành năng lực quan sát, được rèn luỵêṇ kỹ
năng nhận xét, đánh giá hành vi của người khác là phù hợp hay không phù
hợp với chuẩn mực đạo đức, pháp luật.
Bằng trò chơi, việc luyện tập hành vi đạo đức được tiến hành một
cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán, HS được lôi cuốn
vào quá trình học tập một cách tự nhiên làm nâng cao hứng thú học tập,
giúp các em giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập.
Như vậy, khi sử dụng phương pháp trò chơi cũng như các phương
pháp dạy học tích cực khác đã phát huy một cách tốt nhất tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng năng lực tự học, tự khám
phá, tự tìm hiểu, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn ở học
sinh. Không chỉ thế, nó còn tác động trực tiếp đến tình cảm, thái độ đem lại
niềm vui, sự hứng thú học tập cho các em, làm cho các em cảm thấy thích
thú học tập, yêu môn học, yêu trường lớp hơn.
2.2.5. Lưu ý:
Trong giảng dạy GDCD không nhất thiết giờ nào cũng bắt buộc áp

dụng phương pháp này, tùy từng bài, từng phần, từng điều kiện dạy học của
nhà trường, khả năng của học sinh và năng lực sở trường của GV để mà lựa
chọn trò chơi phù hợp.
9


Phải nắm rõ mục đích của trò chơi: để giới thiệu bài, để khởi động
(hâm nóng), để thư giãn hay là để truyền tải một kiến thức nào đó.
Phải hướng dẫn HS nắm được quy tắc chơi, tôn trọng luật chơi và
khống chế thời gian.
Nội dung trò chơi phải phù hợp với bài đạo đức, pháp luật HS đang
học, đảm bảo tính vừa sức, đủ thông tin kiến thức HS đã nắm được, không
dễ quá và cũng không khó quá, phù hợp với cuộc sống thực tế của HS, giúp
các em dễ vận dụng vào thực tiễn.
Khi lựa chọn HS tham gia trò chơi, chú ý lần lượt HS đều được tham
gia, đặc biệt là những học sinh nhút nhát, ít phát biểu.
Sau khi chơi, cần hướng dẫn HS đánh giá việc thực hiện trò chơi: trò
chơi có được thực hiện đúng quy tắc không, có phù hợp với nội dung bài
học không, có thể rút ra bài học gì qua trò chơi này? GV nhận xét, đánh giá
chung và tuyên bố nhóm (hay cá nhân) thắng cuộc (nếu có), khen thưởng,
động viên kịp thời.
Trong quá trình chơi, GV cần bao quát lớp học, tránh tình trạng một
số HS không được chơi hay một số HS cá biệt trong lớp lợi dụng trò chơi
để nghịch ngợm.
2.3. Phương pháp sắm vai:
2.3.1. Khái niệm:
Đóng vai là phương pháp GV tổ chức cho HS thực hành làm thử một
số cách ứng xử trong một tình huống đạo đức hoặc pháp luật giả định.
Đây là phương pháp giúp HS thể hiện được năng khiếu của mình
bằng cách sắm vai theo nhân vật trong một tình huống nào đó. Việc đóng

vai giúp HS liên hệ đến các vấn đề liên quan một cách cụ thể để các em
phát huy vốn kinh nghiệm sống của bản thân để phân tích, lí giải, tranh
luận các tình huống, các sự kiện thực tế từ đó các em rút ra bài học và khắc
sâu kiến thức.

10


2.3.2. Cách thực hiện:
Trong môn GDCD, bài nào cũng có thể vận dụng phương pháp này
được. Phương pháp đóng vai có thể thực hiện dưới dạng hoạt cảnh tình
huống để giới thiệu bài hay để tìm hiểu phần đặt vấn đề, hoặc cũng có thể
dựng thành tiểu phẩm để củng cố bài học. Nghĩa là ở mỗi phần của bài học
chúng ta đều có thể sử dụng phương pháp đóng vai tùy theo nội dung và
mục đích của bài dạy.
Để phương pháp đóng vai thực sự có hiệu quả, cần tiến hành theo
các bước sau:
- Bước 1: GV giới thiệu tình huống có thể đóng vai một cách tương
đối đơn giản, không quá phức tạp (giới thiệu vào cuối tiết học trước để HS
chuẩn bị).
- Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công
sắm vai.
- Bước 3: Thứ tự các nhóm lên thể hiện kịch bản (tình huống).
- Bước 4: Các HS khác theo dõi, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu
cần).
- Bước 5: GV chốt lại, nêu sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm.
Khi HS đã quen với phương pháp này, GV không cần đưa ra tình
huống có sẵn yêu cầu các em sắm vai theo nữa, mà chỉ cần đưa ra đề tài để
các em tự soạn tình huống và sắm vai theo tình huống các em soạn.
2.3.3. Một số ví dụ cụ thể:

Ví dụ 1: Khi dạy bài 16: “Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo” (GDCD 7), GV cho HS đóng vai tình huống: Hoà và An đang tranh luận
với nhau về vấn đề tín ngưỡng, mê tín dị đoan. Hoà bảo: Nhà mình có bàn
thờ tổ tiên và thờ thần mặt trời, đó là tín ngưỡng đấy. Nhưng An bảo:
Không phải đâu, việc thờ cúng đó là mê tín dị đoan, chứ tín ngưỡng gì vì
trên đời này làm gì có thần thánh, ma quỷ. Vậy để biết được ý kiến của Hoà
hay An đúng, chúng ta cùng tìm hiểu bài mới.

11


Ví dụ 2: Khi dạy bài 6: “Tôn sư trọng đạo” - (GDCD 7), GV đưa
tình huống: “Giờ trả bài tập làm văn, Huy bị điểm kém. Vừa nhận được bài
từ tay cô giáo, Huy đã vò nát và đút vào ngăn bàn”. Sau đó yêu cầu 2 nhóm
thảo luận và sắm vai thể hiện cách giải quyết của mình. Sau khi các nhóm
diễn xong, GV cho HS kết luận được: Việc làm của Huy thiếu sự tôn trọng
thầy cô giáo, các em cần phải có cách cư xử như thế nào để bày tỏ sự “Tôn
sư trọng đạo”.
Ví dụ 3: Bài 1: “Tôn trọng lẽ phải” – (GDCD 8), sau khi nắm nội
dung khái niệm, để giúp HS xử lý những vấn đề có thể xẩy ra trong cuộc
sống đúng với lẽ phải, GV có thể đưa ra tình huống như sau và cho HS thảo
luận nhóm nêu cách xử lí và lên đóng vai.
Tình huống: Hai bạn HS tham gia giao thông đường bộ, chẳng may
bạn đi xe đạp đâm vào bạn đang đi bộ, cả hai bạn không ai nhận là mình
sai, nên cãi nhau. Em là người chứng kiến lúc hai bạn cãi nhau. Hãy nêu
cách xử lý của em.
Sau đó từng nhóm lên thể hiện cách xử lí của riêng mình.
Với cách học có chen vào những mục đóng vai thế này thì HS rất
hứng thú học tập và các em cảm thấy việc vận dụng chuẩn mực đạo đức
trong cuộc sống thật nhẹ nhàng thoải mái. Em nào cũng biết lựa chọn điều
tốt đẹp hợp với đạo làm người để giải quyết việc xẩy ra một cách bình tĩnh,

khéo léo.
Ngoài các tình huống có thể đóng vai trong các bài học cụ thể, còn
có thể cho HS đóng vai trong các tiết với nội dung thực hành ngoại khoá
các vấn đề của địa phương và các nội dung đã học...
2.3.4. Tác dụng:
Sử dụng phương pháp đóng vai trong bộ môn GDCD sẽ có những tác
dụng sau:
Gây được hứng thú và sự chú ý cho HS.
Rèn cho HS tính mạnh dạn, tự tin khi đứng trước đông người.

12


Đóng vai giúp HS thực hành những kĩ năng trong môi trường an
toàn, được giám sát trước khi xảy ra các tình huống thực.
Khích lệ thay đổi thái độ, hành vi của HS theo hướng định trước. Ta
có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai
diễn.
Phương pháp đóng vai buộc GV và HS phải dành thời gian để chuẩn
bị bài trên lớp, điều đó sẽ nâng cao được hiệu quả giờ dạy, học bộ môn.
2.3.5. Lưu ý:
Để thực hiện được phương pháp sắm vai tốt, GV và HS cần có sự
chuẩn bị chu đáo từ trước.
Trong quá trình thực hiện cần thực hiện đúng quy trình thống nhất
theo một số bước như trên.
2.4. Phương pháp thảo luận nhóm:
2.4.1. Khái niệm:
Phương pháp thảo luận nhóm là GV tổ chức chia HS thành các nhóm
nhỏ (từ 5 đến 8 HS) để thảo luận những vấn đề của bài học dưới sự hướng
dẫn của GV.

Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi nhằm giúp HS tham gia
một cách chủ động vào quá trình học tập, HS có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý
kiến hay để giải quyết một vấn đề, một tình huống đạo đức, pháp luật nào
đó. Giúp cho HS chủ động tham gia vào quá trình học tập và hiểu sâu sắc
nội dung được học. Nó giáo dục tính năng động sáng tạo, biết phê phán biết
lắng nghe, biết tỏ thái độ lập trường.
2.4.2. Cách thực hiện:
Quy trình tổ chức thảo luận nhóm gồm 5 bước:
- Bước 1: GV nêu chủ đề thảo luận, chia nhóm, phân công vị trí ngồi
thảo luận cho các nhóm.
- Bước 2: GV giao câu hỏi, yêu cầu thảo luận cho mỗi nhóm, quy
định thời gian thảo luận.

13


- Bước 3: Các nhóm tiến hành thảo luận. Nhóm trưởng điều hành
cuộc thảo luận và thư ký có nhiệm vụ ghi chép kết quả thảo luận.
- Bước 4: Đại diện các nhóm trình bày kết quả, Các nhóm khác lắng
nghe, chất vấn, trao đổi, bổ sung ý kiến.
- Bước 5: GV tổng hợp và rút ra kết luận về nội dung cần đạt được.
2.4.3. Một số ví dụ cụ thể:
Ví dụ 1: Bài 12: “Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em” –
(GDCD 6), GV có thể phát cho các nhóm những tờ tranh khác nhau của 4
nhóm quyền và cho các em thảo luận nhận định về bức tranh thuộc nhóm
quyền nào sau đó lên dán ở vị trí nhóm mình. Có thể có những tranh một
hình ảnh nhưng nó thuộc nhiều nhóm quyền. GV cứ để cho HS tranh luận
sau đó kết luận lại. Như vậy qua việc thảo luận theo nhóm GV sẽ luyện tập
cho HS có các thói quen nhìn nhận một sự kiện, sự việc dưới nhiều góc độ
khác nhau và biết cách giải quyết. Cách tổ chức lớp học áp dụng theo

phương pháp này HS tiếp thu bài tốt, hiểu bài và lớp học sôi nổi, các em rất
hứng thú học tập.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 9: “Làm việc có năng suất, chất lượng hiệu
quả” - (GDCD 9), sau khi cho HS tìm hiểu truyện đọc trong phần đặt vấn
đề, GV chia HS thành 3 nhóm thảo luận 3 câu hỏi sau:
Nhóm 1: Em có nhận xét gì về việc làm của giáo sư Lê Thế Trung?
Nhóm 2: Em hãy tìm những chi tiết trong chuyện chứng tỏ giáo sư
Lê Thế Trung là người làm việc có năng suất chất lượng hiệu quả?
Nhóm 3: Việc làm của giáo sư Lê Thế Trung được nhà nước ghi
nhận như thế nào? Em học tập được điều gì ở ông?
Sau khi HS các nhóm thảo luận khai thác phần đặt vấn đề, GV cho
HS khái quát tìm hiểu nội dung bài học.
Với 3 câu hỏi này từng nhóm sẽ tập trung thảo luận và đưa ra ý kiến,
đại diện cho nhóm sẽ trình bày trước lớp, GV làm trọng tài và kết luận
thông qua ý kiến của các em.

14


2.4.4. Tác dụng:
Cách tổ chức lớp học áp dụng theo phương pháp này giúp HS tiếp
thu bài tốt, lớp học sôi nổi, các em rất hứng thú học tập. Nhờ không khí
thảo luận cởi mở nên HS, đặc biệt những em nhút nhát trở nên bạo dạn
hơn. Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác của HS được phát triển.
Phương pháp này sẽ làm giảm bớt tính chủ quan, phiến diện làm tăng
tính khách quan khoa học cho HS. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ
nhớ và nhớ nhanh hơn, không khí lớp học thoải mái, HS tự tin hơn trong
việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe, phê phán ý kiến của các
thành viên khác. Ngoài ra còn phát huy tính tích cực của các em.
2.4.5. Lưu ý:

Khi sử dụng phương pháp này GV cần lưu ý một số vấn đề sau:
Chủ đề thảo luận phải sát với nội dung bài học và với trình độ HS.
Cách chia nhóm phải hết sức linh hoạt, luôn thay đổi để tạo điều kiện
cho mỗi HS được giao lưu với tất cả HS trong lớp, tránh chỉ giới hạn trong
một nhóm cố định.
Kết quả thảo luận nhóm phải được trình bày dưới nhiều hình thức:
bằng lời, viết lên phiếu học tập bằng giấy hoặc bản trong... do một người
thay mặt nhóm trình bày.
Cử “Nhóm trưởng”, “Thư ký” cũng nên luân phiên, để từng HS đều
được rèn luyện các kỹ năng cần thiết.
Cần khích lệ mọi HS cùng tham gia đóng góp ý kiến không nên chê
bai một ý kiến nào.
Khi giới thiệu chủ đề thảo luận GV cố gắng tạo ra không khí, hứng
thú cho HS vào nội dung cuộc thảo luận. Trong quá trình thảo luận GV
phải quan sát và gợi ý cho HS khi các em gặp khó khăn.
Khi HS trình bày kết quả của nhóm, GV phải phát huy tinh thần tích
cực của các nhóm khác để các em nhận xét, bổ sung, đồng thời đóng vai trò
trọng tài để tránh tình trạng trạng áp đặt hoặc tình trạng vô tổ chức và nói
lan man không đúng trọng tâm...
15


Cuối cùng, kết quả thảo luận nhóm phải được giáo viên nhận xét,
đánh giá (có thể cho điểm hoặc không). Phải rút kinh nghiệm về tinh thần,
thái độ làm việc của từng nhóm, từng thành viên.
Trong một tiết học không nên đưa quá nhiều hoạt động nhóm vì sẽ
làm cho hoạt động lớp học bị rối, do HS không giữ được trật tự chung.
2.5. Phương pháp kể chuyện nêu gương người thật, việc thật:
2.5.1. Khái niệm:
Là phương pháp kể những câu chuyện về cách ứng xử của nhân vật

trong một tình huống cụ thể (thường là gương tốt), để từ đó GV hướng dẫn
HS phân tích. Nó giúp cho bài học GDCD đến với HS một cách tự nhiên,
nhẹ nhàng, sống động.
2.5.2. Cách thực hiện:
Có nhiều cách kể khác nhau:
- Kể diễn cảm.
- Kết hợp giữa lời kể của GV biểu diển minh hoạ của HS.
- Có thể kể chuyện với kết cục để mở và yêu cầu HS tự hoàn thiện
phần kết.
- Có thể kể chuyện theo nhóm (bắt đầu bằng một HS rồi những em
khác kể tiếp cho đến em cuối cùng kết thúc câu chuyện)….
2.5.3. Một số ví dụ cụ thể:
Ví dụ 1: Khi dạy bài 8 “Năng động sáng tạo” - (GDCD 9), GV có
thể kể cho học sinh nghe câu chuyện về “Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký” dù
bị liệt cả hai tay, phải viết bằng chân nhưng đã vượt qua khó khăn, vượt
qua số phận để trở thành “Nhà giáo ưu tú”. Hoặc câu chuyện về “Thần đèn
Nguyễn Cẩm Lũy” chỉ học hết tiểu học nhưng có “biệt tài” di dời các công
trình. Từ đó giúp học sinh có ý thức vươn lên trong cuộc sống, biết vượt
qua khó khăn, năng động, sáng tạo trong công việc vươn tới thành công, có
đóng góp cho xã hội.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 6 “Hợp tác cùng phát triển” - (GDCD 9), có
thể kể về tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam và vai trò của Bác Vũ
16


Khoan và Bác Trương Đình Tuyển trong công tác đàm phám. Việc gia
nhập WTO có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với Việt Nam. Khẳng định vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế và trên con đường hội nhập.
2.5.4. Tác dụng:
Qua các câu chuyện người thật, việc thật đã giúp HS có ý thức vươn

lên trong cuộc sống, biết vượt qua khó khăn, năng động, sáng tạo trong
công việc vươn tới thành công, có đóng góp cho xã hội.
Những câu chuyện ấy sẽ là phương tiện minh hoạ chân thực nhất,
sống động nhất góp phần làm cho bài giảng thêm hấp dẫn, tác động trực
tiếp đến tâm tư, tình cảm của HS. Thông qua những câu chuyện thực tế GV
bồi dưỡng cho HS những quan điểm đúng đắn, các em biết yêu ghét rõ
ràng; biết bênh vực những việc làm, hành động đúng; biết đấu tranh với
những hành động, việc làm sai trái, vi phạm nội qui trường lớp, vi phạm
pháp luật.
2.5.5. Lưu ý:
Để thu hút, hấp dẫn được HS, trước hết GV phải nắm vững nội dung
truyện, có xúc cảm với truyện.
Khi kể, GV phải biết nhấn mạnh vào những chi tiết chủ yếu của
truyện, giọng kể phải khoan thai, rõ ràng, truyền cảm.
Lựa chọn câu chuyện phù hợp với nội dung bài dạy.
3. Hiệu quả của sáng kiến:
Thực tế cho thấy, HS rất say mê hứng thú học tập, qua sự hướng dẫn
của GV các em tích cực thảo luận tự phát hiện những kiến thức và hăng hái
tham gia vào những trò chơi để xây dựng bài, xây dựng tình huống sắm vai,
góp phần cho tiết học thêm sinh động. Trong quá trình học tập, HS tự đánh
giá cái đúng, cái sai, phân tích được những tình huống có vấn đề để rút ra
bài học kinh nghiệm cho bản thân.
Qua một thời gian sử dụng các phương pháp trên, tôi thấy kết quả
học tập bộ môn GDCD của trường THCS Lâm Sơn đã được nâng cao rõ
rệt, tỷ lệ HS khá, giỏi tăng, không có HS xếp loại yếu của bộ môn. Điều
quan trọng là từng bài giảng đã khắc sâu trong tâm trí các em. Các em đã
17


đồng cảm với từng nhân vật trong câu chuyện và điều đó giúp các em tiến

bộ hơn trong học tập và đạo đức, các em ngoan hơn, lễ phép, biết làm điều
tốt tránh điều xấu, biết sửa sai khi phạm lỗi, và trong thực tế có những em
lấy cắp đồ bạn đã biết trả lại cho bạn.
Chất lượng bộ môn luôn đạt và vượt chỉ tiêu, năm sau cao hơn năm
học trước, thể hiện qua hai bảng thống kê so sánh kết quả môn GDCD năm
học 2011-2012 và năm học 2012-2013 của trường THCS Lâm Sơn:
Bảng 1: Bảng thống kê kết quả môn GDCD khối 6, 7, 8, 9
cuối năm học 2011-2012 của trường THCS Lâm Sơn
Khối

TS

6
7
8
9
Tổng

HS
50
44
42
36
172

Giỏi
SL
%
8
16,0

15
34,1
8
19,0
13
36,1
44
25,6

Khá
SL
19
18
25
20
82

%
38,0
40,9
59,5
55,6
47,7

Trung bình
SL
%
23 46,0
11 25,0
9

21,4
3
8,3
46 26,7

Yếu
SL
%
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0

Bảng 2: Bảng thống kê kết quả môn GDCD khối 6, 7, 8, 9
cuối năm học 2012-2013 của trường THCS Lâm Sơn
Khối

TS

6
7
8
9
Tổng


HS
39
51
42
41
173

Giỏi
SL
%
06
15,4
12
23,5
11
26,2
20
48,8
49
28,3

Khá
SL
%
23
59,0
26
51,0
20

47,6
14
34,1
83
48,0
Phần thứ ba

Trung bình
SL
%
10 25,6
13 25,5
11 26,2
07 17,1
41 23,7

KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận chung:
18

Yếu
SL
%
0
0
0
0
0
0
0

0
0
0


Dạy học môn GDCD không chỉ giúp HS nắm kiến thức mà quan
trọng là giúp HS hình thành niềm tin tình cảm, thói quen hành vi về đạo
đức pháp luật. Khi áp dụng một số phương pháp tích cực như đã nêu trên
không hề giảm nhẹ hạ thấp vai trò của GV, mà GV lúc này không chỉ đơn
thuần là người truyền đạt mà còn là người thiết kế tổ chức hướng dẫn các
hoạt động độc lập của HS, là người gợi mở, là cố vấn, là trọng tài trong
hoạt động tìm tòi, hào hứng sôi nổi của HS.
Trong một tiết học, GV phải khéo léo sử dụng linh hoạt các phương
pháp để phát huy tính tích cực sáng tạo của HS. Dù áp dụng hình thức nào,
phương pháp nào chúng ta vẫn phải đảm bảo dạy học theo tinh thần “Lấy
HS làm trung tâm”. HS chủ động trong tiếp thu kiến thức, được nghĩ, được
nói, được làm dưới sự hướng dẫn tổ chức của thầy cô.
Trong thực tế giảng dạy để phát huy được tính tích cực, chủ động
sáng tạo của HS, đòi hỏi quá trình dạy học phải đổi mới ở tất cả các khâu
trong quá trình dạy và học. GV phải nắm được mục tiêu môn học, cấp học
và căn cứ vào mục tiêu cụ thể của từng bài, vào năng lực, trình độ học sinh,
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng trường để xác định phương pháp dạy
học phù hợp từ đó mới lựa chọn được phương pháp phù hợp.
2. Đề xuất:
Để có kết quả tốt hơn trong việc giảng dạy môn GDCD ở trường
THCS, tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau:
Cần đẩy mạnh đầu tư vào giáo dục mà đặc biệt là vận dụng các
phương pháp dạy học hiện đại vào giảng dạy bộ môn GDCD ở các khối lớp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc học tập bộ môn và đáp ứng
nhu cầu của người học.

Tăng cường hơn nữa việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy về
trình độ, kĩ năng sử dụng các phương tiện hiện đại trong dạy học.
Đặt môn GDCD vào vị trí ngang tầm với các môn khác, thậm chí cần
phải được coi trọng, chú ý nhiều hơn vì đây là bộ môn góp phần quan trọng
trong việc giáo dục tình cảm, hình thành nhân cách ở người học.
19


Bộ Giáo dục và Đào tạo cần soạn thảo, in ấn nhiều tài liệu tham
khảo, hướng dẫn việc ứng dụng, khai thác các dữ liệu từ các nguồn thông
tin khác nhau để GV có thể tìm tòi tài liệu nhanh chóng và phù hợp cho
việc giảng dạy đạt hiệu quả hơn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc dạy-học môn
GDCD muốn chia sẻ với đồng nghiệp, do khả năng có hạn cho nên còn rất
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp, bổ sung của các
đồng nghiệp.
Lâm Sơn, ngày 15 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Quách Thị Thanh Huyền

20



×