Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

THỰC TRẠNG NĂNG lực CẠNH TRANH của CÔNG TY cổ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÂN lực, THƯƠNG mại và DU LỊCH VIWASEEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.23 KB, 36 trang )

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH
1.1 Những vấn đề chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Doanh nghiệp là một bộ phần của nền kinh tế thị trường nên chịu sự chi phối
hoạt động của các quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật
cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường rất đa dạng và phức tạp giữa các chủ thể có
lợi ích đối lập nhau như cạnh tranh giữa những người mua, giữa những người bán,
giữa những người bán với người mua, giữa các nhà sản xuất, giữa các doanh
nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài,… Cạnh tranh phát triển cùng với sự
phát triển của nền sản xuất hang hóa tư bản chủ nghĩa.
Vậy cạnh tranh là gì?
Xét dưới giác độ các quốc gia thì cạnh tranh có thể được hiểu là quá trình
đương đầu của các quốc gia này với các quốc gia khác trong quá trình hội nhập
kinh tế. Xét dưới giác độ nghành kinh tế - kỹ thuật, từ trước đến nay, cạnh tranh
được chia thành 2 loại cạnh tranh là cạnh tranh giữa các nghành và cạnh tranh nội
bộ nghành.
- Cạnh tranh giữa các nghành là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
mọi lĩnh vực khác nhau nhằm thu được lợi nhuận lớn và có tỷ suất lợi nhuận
cao hơn so với vốn đã bỏ ra, cùng với đó là việc đầu tư vốn vào nghành có
lợi nhất cho sự phát triển. Sự cạnh tranh giữa các nghành dẫn đến việc các
doanh nghiệp luôn tìm kiếm những nghành đầu tư có lợi nhất nên đã chuyển
vốn đầu tư từ nghành có lợi nhuận cao hơn. Điều này, vô hình chung đã hình
thành nên sự phân phối vốn hợp lý giữa các nghành khách nhau và giúp các
doanh nghiệp ở các nghành khác nhau có số vốn bằng nhau thì thu được lợi
nhuận ngang nhau.
- Cạnh tranh trong nội bộ nghành là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản
xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hàng hóa – dịch vụ nào đó. Cạnh tranh
trong nội bộ nghành dẫn đến sự hình thành nên giá cả thị trường trên cơ sở
giá trị xã hội của loại hang hóa dịch vụ đó. Trong cuộc cạnh tranh này, các
doanh nghiệp đấu tranh với nhau để giành chiến thắng. Những doanh nghiệp


giành chiến thắng sẽ mở rộng quy mô hoạt động của mình trên thị trường,


còn những doanh nghiệp nào thua cuộc sẽ phải thu hẹp phạm vi kinh doanh,
thậm chí các doanh nghiệp này còn có thể dẫn đến giải thể phá sản.
Theo Mác: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các
nhà tư bản nhằm giành giật các điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.”Ngiên cứu sâu về nền sản xuất hàng
hóa tư bản chủ nghĩa và cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác đã phát hiện ra qui luật
cạnh tranh là qui luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các nghành.
Theo từ điển kinh tế Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh trên thị trường được
định nghĩa là sự ganh đua kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm giành tài
nguyên sản xuất cùng một loại về phía mình.
- Cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh
nghiệp mình sao cho tốt hơn doanh nghiệp khác.
- Cạnh tranh là sự thôn tính lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm
giành lấy thị trường.
Như vậy, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về cạnh tranh, nhưng nhìn
chung, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trong việc
giành giật thị trường và khách hàng.
Nếu xét cạnh tranh dưới góc độ các doanh nghiệp thì thực chất cạnh tranh là sự
ganh đua về lợi ích kinh tế, về chủ thể tham gia thị trường. Đối với khách hang,
bao giờ họ cũng muốn mua được hang hóa có chất lượng cao mà giá lại rẻ, còn
doanh nghiệp lại muốn được tối đa hóa lợi nhuận của mình. Với mục tiêu là lợi
nhuận, các doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí, giành giật khách hang về phía
mình. Từ đó cạnh tranh đã xảy ra.
Trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp, các hoạt động sản xuất kinh
doanh đều được chỉ đạo từ Trung ương xuống địa phương, tất cả đều phải tuân
theo thủ tục từ trên xuống. Quan hệ cung cầu, quan hệ cạnh tranh cũng như tất cả
các quan hệ thị trường đều không tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Quan hệ giữa các

đơn vị kinh tế hầu như không có mâu thuẫn về mặt lợi ích. Chính vì vậy mà cạnh
tranh không có chỗ đứng trong nền kinh tế thời kỳ này.
Thời điểm đánh dấu công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta bắt đầu từ Đại Hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986). Từ đó, cơ chế quản lý kinh tế Nhà
nước đã có những điều chuyển biến cơ bản, nền kinh tế dần chuyễn đổi sang nền


kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất hiện. Đặc biệt khi nước ta gia nhập WTO thì
cạnh tranh được nhìn nhận theo một xu hướng tích cực hơn, môi trường cạnh tranh
được mở rộng trong nước và thế giới. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường là một tất yếu xảy ra và nó đóng vai trò quan trọng với tất cả
doanh các doanh nghiệp đó. Trong phạm vi giới hạn luận văn của mình, em chủ
yếu tập trung nghiên cứu và phân tích loại hình cạnh tranh này.
1.1.2 Khái niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng, năng lực mà doanh
nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh
đảm bảo cho việc thực hiện một tỷ suất lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi tài trợ
cho những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời thực hiện được những mục đích
mà doanh nghiệp đặt ra”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở 4 yếu tố chính: giá cả, chất
lượng sản phẩm, các dịch vụ kèm theo và yếu tố thời gian.
Nếu một doanh nghiệp tham gia thị trường không có năng lực cạnh tranh hoặc có
năng lực cạnh tranh yếu thì chắc chắn doanh nghiệp đó không thể tồn tại và phát
triển một cách bền vững. Do vậy doanh nghiệp phải luôn xác định được vị thế của
mình trên thương trường,từ đó có những phương hướng và có chiến lược kế hoạc
rõ ràng. Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh luôn là vấn đề được đặt ra thường
xuyên và liên tục.Năng lực cạnh tranh chính là điều kiện để doanh nghiệp có thể
tồn tại và đứng vững trên thị trường đầy biến động như hiện nay.
1.1.3 Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1 Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế quốc dân

Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế nâng cao năng suất lao động xã
hội. Một nền kinh tế mạnh là nền kinh tế mà các tế bào của nó là các doanh nghiệp
phát triển có khả năng cạnh tranh cao.Tuy nhiên ở đây cạnh tranh phải là cạnh
tranh hoàn hảo, cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp cạnh tranh nhau để cùng
phát triển, cùng đi lên thì mới làm cho nền kinh tế phát triển bền vững.Còn cạnh
tranh độc quyền sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế, nó tạo ra môi trường kinh
doanh không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn về quyền lợi và lợi ích kinh tế trong xã
hội, làm cho nền kinh tế không ổn định. Cạnh tranh hoàn hảo sẽ đào thải các doanh
nghiệp làm ăn không hiệu quả và buộc các doanh nghiệp phải lựa chọn phương án


kinh doanh có chi phí thấp nhất, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Như vậy cạnh
tranh tạo ra sự đổi mới mang lại sự tang trưởng kinh tế.
1.1.3.2

Vai trò của cạnh tranh đối với người tiêu dung

Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp càng diễn ra gay gắt thì
người được lợi nhất là khách hang. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dung không
phải chịu một sức ép nào mà còn được hưởng những thành quả do cạnh tranh mang
lại như: chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn, chất lượng phục vụ cao
hơn… Đồng thời khách hang cũng tác động trở lại đối với cạnh tranh bằng những
yêu cầu về chất lượng hàng hóa,về giá cả, về chất lượng phục vụ… Khi đòi hỏi của
người tiêu dung càng cao làm cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay
gắt hơn để giành được nhiều khách hàng hơn
1.1.3.3

Vai trò của cạnh tranh đối với doanh nghiệp

Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường.Cạnh tranh có thể được coi là cuộc chạy đua khốc liệt mà các doanh nghiệp
không thể tránh khỏi mà phải tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế và chiến
thắng.Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp luôn tìm cách nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ, thay đổi kiểu dáng mẫu mã đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Cạnh
tranh khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới, hiện đại, tạo sức
ép buộc các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình để
giảm giá thành, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, tạo ra các sản phẩm mới
khác biệt có sức cạnh trạnh cao.
Cạnh tranh khốc liệt sẽ làm cho doanh nghiệp thể hiện được khả năng, “bản lĩnh”
của mình trong quá trình kinh doanh.Doanh nghiệp sẽ càng vững mạnh và phát
triển hơn nếu chịu được áp lực cạnh tranh trên thị trường.
1.1.4 Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp
Sự cạnh tranh gay gắt luôn là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất, cùng cung ứng một loại hang hóa hay dịch vụ. Do vậy các công cụ cạnh
tranh ở đây chủ yếu xem xét theo các doanh trong cùng một nghành.
1.1.4.1

Giá cả


Giá cả là phạm trù trung tâm của kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường. Giá cả
là một công cụ quan trọng trong cạnh tranh. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của
giá sản phẩm mà người bán có thể dự tính nhận được từ người mua thong qua sự
trao đổi giữa các sản phẩm đó trên thị trường. Giá cả phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Các yếu tố kiểm soát được: Đó là chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, chi
phí lưu thong, chi phí yểm trợ và tiếp xúc bán hàng.
- Các yếu tố không thể kiểm soát được: Đó là quan hệ cung cầu trên thị
trường, cạnh tranh trên thị trường, sự điều tiết của Nhà nước.
Trong doanh nghiệp, chiến lược giá cả là thành viên thực sự của chiến lược sản
phẩm và cả hai chiến lược này lại phụ thuộc vào mục tiêu chiến lược chung của

doanh nghiệp. Một trong những nội dung cơ bản của chiến lược giá cả là việc định
giá. Định giá là việc ấn định có hệ thống giá cả cho đúng với hàng hóa hay dịch vụ
bán cho khách hàng. Việc dịnh giá này căn cứ vào các mặt sau:
- Lượng cầu đối với sản phẩm
- Chi phí sản xuất và giá thành đơn vị sản phẩm
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Một số chiến lược định giá mà doanh nghiệp có thể sử dụng là: Chiến lược định
giá cao, chiến lược định giá thấp và chiến lược giá phân biệt.
Doanh nghiệp dung vũ khí giá làm công cụ cạnh tranh để đánh bại đối thủ ra
khỏi thị trường. Nhưng bên cạnh vũ khí này doanh nghiệp phải mạnh về tiềm lực
tài chính, về khoa học công nghệ và uy tín của sản phẩm trên thị trường. Việc bán
phá giá chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định và chỉ có thể loại bỏ được
đối thủ nhỏ mà khó loại bỏ được đối thủ lớn.
1.1.4.2

Chất lượng và đặc tính sản phẩm

Nếu lựa chọn sản phẩm là công cụ cạnh tranh thì phải tập trung vào giải
quyết toàn bộ chiến lược sản phẩm, làm cho sản phẩm thích ứng nhanh chóng với
thị trường. Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản
phẩm thể hiện mức độ thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dung xác định
phù hợp với công dụng của sản phẩm.


Chất lượng sản phẩm trở thành công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh
nghiệp trên thị trường bởi nó biểu hiện sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng của sản
phẩm.
Chất lượng sản phẩm ngày càng cao tức là mức độ thõa mãn nhu cầu ngày
càng lớn dần đến sự thích thú tiêu dùng sản phẩm ở khách hàng tăng lên, do đó làm
tăng khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên nhiều khi

chất lượng quá cao cũng không thu hút được khách hàng vì khách hàng sẽ khi rằng
những sản phẩm có chất lượng cao luôn đi kèm với giá cao, khi đó, họ cho rằng họ
không có đủ khả năng để tiêu dùng những sản phẩm này.
Nói tóm lại muốn sản phẩm của doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh được
trên thị trường thì doanh nghiệp phải có chiến lược sản phẩm đúng đắn, tạo ra được
những sản phẩm phù hợp, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường với chất lượng
tốt.
1.1.4.3

Hệ thống kênh phân phối

Trước hết để tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp cần phải chọn các kênh phân
phối, lựa chọn thị trường, nghiên cứu thị trường và lựa chọn kênh phân phối để sản
phẩm sản xuất ra được tiêu thị nhanh chóng, hợp lý và đạt được hiệu quả cao.
Chính sách phân phối sản phẩm phải đạt được các mục tiêu giải phóng nhanh
chóng lượng hàng tiêu thụ, tăng nhanh vòng quay của vốn thúc đẩy sản xuất nhờ
vậy tăng nhanh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo sự tác động của thị trường, tùy theo nhu cầu của người mua và người
bán, tùy theo tính chất của hàng hóa và quy mô của doanh nghiệp theo các kênh
mà có thể sử dụng thêm vai trò của người môi giới. Bên cạnh việc tổ chức tiêu thụ
sản phẩm, doanh nghiệp có thể đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, quảng cáo, yểm
trợ bán hàng để thu hút khách hàng. Nhưng nhìn chung việc lựa chọn kênh phân
phối phải dựa trên đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như đặc
điểm kinh tế kĩ thuật của sản phẩm cần tiêu thụ. Đồng thời việc lựa chọn kênh
phân phối cũng như lựa chọn trên đặc điểm thị trường cần tiêu thụ, đặc điểm về
khoảng cách đến thị trường, địa hình và hệ thống giao thông của thị trường và khả
năng tiêu thụ của thị trường. Từ việc phân tích các đặc điểm trên của doanh nghiệp
sẽ lựa chọn cho mình một hệ thống kênh phân phối hợp lý, đạt hiệu quả cao.



1.1.4.4 Các công cụ cạnh tranh khác
• Dịch vụ sau bán hàng
Các hoạt động dịch vụ sau bán hàng:
- Cam kết thu lại sản phẩm và hoàn trả tiền cho khách hoặc đổi lại
hàng nếu như sản phẩm không đúng theo yêu cầu ban đầu của khách
hàng.
- Cam kết đảm bảo chất lượng sản phẩm trong thời gian nhất định
thông qua các hoạt động bảo hành, bảo trì sản phẩm, chịu trách nhiệm
với khách hàng trước những vấn đề về chất lượng sản phẩm trong thời
gian bảo hành sản phẩm
- Cung cấp các chi tiết phụ tùng thay thế.
- Cung cấp một số dịch vụ miễn phí khác.
Qua các dịch vụ sau bán hàng, doanh nghiệp sẽ nắm bắt được sản
phẩm của mình có đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng hay
không.
• Phương thức thanh toán.
Đây cũng là một công cụ cạnh tranh được nhiều doanh nghiệp sử
dụng , phương thức thanh toán gọn nhẹ, rườm rà hay nhanh chậm sẽ
ảnh hưởng đến công tác tiêu thụ và do đó ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
• Vận dụng yếu tố thời gian.
Những thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ làm thay đổi
nhanh cách nghĩ, cách làm việc của con người, tạo thời cơ cho mỗi
người, mỗi đất nước tiến nhanh về phía trước. Đối với các doanh
nghiệp, yếu tố quyết định trong chiến lược kinh doanh hiện đại là tốc
độ chứ không phải là yếu tố cổ truyền như nguyên liệu lao động.
Muốn chiến thắng trong công cuộc cách mạng này, các doanh nghiệp
phải biết tổ chức nắm bắt thông tin nhanh chóng, phải chớp lấy thời
cơ, lựa chọn mặt hàng theo yêu cầu, triển khai sản xuất, nhanh chóng
tiêu thụ để thu hồi vốn nhanh trước khi chu kỳ sản xuất sản phẩm kết

thúc.
1.2 Những vấn đề chung về xuất khẩu lao động, thương mại và du lịch


1.2.1 Những vấn đề chung về xuất khẩu lao động.
1.2.1.1 Khái niệm xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung và là
một bộ phận của kinh tế đối ngoại, mà hàng hóa đem xuất khẩu là sức lao động của
con người, còn khách mua là chủ thể nước ngoài. Nói cách khác, xuất khẩu lao
động là một hoạt động kinh tế dưới dạng cung ứng lao động cho nước ngoài mà
đối tượng của nó là con người. Hoạt động mua bán thể hiện ở chỗ người lao động
trong nước sẽ bán quyền sử dụng sức lao động của mình trong một khoảng thời
gian nhất định cho người sử dụng lao động nước ngoài để nhận về một khoản tiền
dưới hình thức tiền lương (tiền công). Còn người sử dụng nước ngoài sẽ dùng tiền
của mình mua sức lao động của người lao động, yêu cầu họ phải thực hiện công
việc nhất định nào đó (do hai bên thỏa thuận) theo ý muốn của mình.
Xuất khẩu lao động gồm hai nội dung:
+ Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
+ Xuất khẩu lao động tại chổ (xuất khẩu lao động nội biên): người làm động
trong nước làm việc cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức quốc tế qua internet.
Do sự giới hạn phạm vi bài biết em xin được đề cập đến vấn đề xuất khẩu lao động
tương ứng với nội dung 1- đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài.
Người lao động ở đây bao gồm: người lao động làm các công việc như lao động
phổ thông, sản xuất, giúp việc,…(những công việc ít đòi hỏi về trình độ chuyên
môn); chuyên gia; tu nghiệp sinh.
Chuyên gia là những lao động có trình độ chuyên từ bậc đại học trở lên.
Tu nghiệp sinh là những người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ
chuyên môn của các nước nhập khẩu lao động và nếu muốn vào làm việc ở các
nước này họ phải được hợp pháp hóa dưới hình thức tu nghiệp sinh nghĩa là vừa

làm vừa được đào tạo tiếp tục về trình độ chuyên môn kĩ thuật.
1.2.1.2 Các hình thức xuất khẩu lao động


Hình thức xuất khẩu lao động là cách thức thể hiện việc đưa người lao
động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước quy định.Ở Việt Nam cho
đến nay đã tồn tại một số hình thức sau:
+ Thời kỳ nền kinh tế kế hoạch tập trung: xuất khẩu lao động chủ yếu thông qua
các hiệp định liên chính phủ và nghị đinh thư;
+ Bước sang thời kỳ mới - thời kỳ xuất khẩu lao động chịu tác động của thị trường
thì nó bao gồm các hình thức sau:
- Cung ứng lao động theo các hợp đồng cung ứng lao động đã ký kết với
bên nước ngoài: Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ tuyển lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo các hợp đồng cung ứng lao
động.Doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ tuyển chọn
đến đào tạo đến đưa đi và quản lý người lao động ở nước ngoài. Các yêu
cầu về tổ chức lao động do phía nước tiếp nhận đặt ra, quá trình làm việc
là ở nước ngoài. Người lao động chịu sử quản lý trực tiếp của người sử
dụng lao động nước ngoài, quyền và nghĩa vụ của người lao động do
phía nước ngoài bảo đảm.
- Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp động nhận thầu,
khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài: Các donah nghiệp
Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở nước ngoài hoặc đầu tư
dưới hình thức liên doanh liên kết chia sản phẩm hoặc các hình thức đầu
tư khác. Hình thức này chưa phổ biến nhưng sẽ phát triển trong tương lai
cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực (trước đây chủ
yếu áp dụng đối với Lào và Campuchia). Các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động Việt Nam sẽ tuyển chọn lao đọng Việt Nam nhằm thực hiện các
hợp động kinh tế, hợp đồng liên doanh – liên kết giữa Việt Nam và nước
ngoài. Các yêu cầu về tổ chức lao động, điều kiện lao động do doanh

nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam đặt ra. Các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động có thể trực tiếp tuyển dụng lao động hoặc thông qua các tổ chức
trong nước; doanh nghiệp trực tiếp đưa lao động đi nước ngoài, quản lý
lao động ở nước ngoài cũng như đảm bảo các quyền lợi của người lao
động ở nước ngoài, do đó quan hệ lao động tưởng đối ổn định. Cả người
sử dụng lao động Việt Nam và lao động Việt Nam đều phải tuân thủ theo
quy định của pháp luật, phong tục tập quan của nước ngoài.


- Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động
giữa cá nhân người lao động với người sử dụng lao động nước ngoài.
Hình thức này ở Việt Nam còn rất ít vì nó đòi hỏi người lao động phải có
trình độ học vấn, ngoại ngữ tốt, giao tiếp rộng, tìm hiểu rõ các thông tin
về đối tác.
1.2.1.3 Đặc điểm của xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt động mang
tính xã hội cao.
Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Nói xuất
khẩu lao động là hoạt động kinh tế vì nó đem lại lợi ích cho cả hai bên tham gia
(bên cung và bên cầu). Ở tầm vĩ mô, bên cung là nước xuất khẩu lao động, bên cầu
là nước nhập khẩu lao động. Ở tầm vi mô, bên cung là người lao động mà đại diện
cho họ là các tổ chức kinh tế làm công tác xuất khảu lao động (gọi tắt là doanh
nghiệp xuất khẩu lao động), bên cầu là người sử dụng lao động nước ngoài. Dù
đứng ở góc độ nào thì với tư cachs là chủ thể của một hoạt động kinh tế, cả bên
cung và bên cầu khi tham gia hoạt động xuất khẩu lao động đều nhằm mục tiêu là
lợi ích kinh tế. Họ luôn luôn tính toán giữa chi phí phải bỏ ra với lợi ích thu được
để có quyết định hành động cuối cùng sao cho lợi nhất.Chính về thế bên cạnh quốc
gia chỉ đơn thuần là xuất khẩu hay nhập khẩu lao động thì còn có cả những quốc
gia vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu lao động.
Tính xã hội thể hiện ở chỗ: dù các chủ thể tham gia xuất khẩu lao động với muc

tiêu kinh tế nhưng trong quá trình tiến hành xuất khẩu lao động thì cũng đồng thời
tạo ra các lợi ích cho xã hội như giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận
người lao động, góp phần ổn định và cải thiện cuộc sống cho người dân, nâng cao
phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh chính trị.
Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua bán một loại hàng hóa đặc biệt
vượt ra phạm vi biên giới quốc gia. Sở dĩ vậy vì hàng hóa ở đây là sức lao động –
loại hang hóa không thể tách rời người bán.
1.2.2 những vấn đề chung về thương mại
Việt Nam hiện đang trong giai đoạn phát triển kinh tế để hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và toàn cầu. Từ sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, thực hiện chính


sách mở cửa, các thành phần kinh tế (tư bản và tư nhân) đều được khuyến khích
tham gia sản xuất kinh doanh, bộ mặt nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực.
Nền kinh tế được cải thiện và phát triển thì thị trường tiêu thụ và lực lượng sản
xuất cũng bắt đầu phát sinh ô nhiễm môi trường do sản xuất công nghiệp ngày
càng trở nên cấp thiết và quan trọng.
Mặt khách, sự phát triển của công nghiệp và tiến trình đô thị hóa nhanh chóng,
các khu công nghiệp – khu chế xuất và các khu dân cư mới được thành lập đã kéo
theo nhu cầu về cơ sở hạ tầng (cấp - thoát nước, điện…).
Trong xu thế đó, việc kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp thiết bị cấp thoát nước
và môi trường, máy móc, thiết bị, phụ tùng xây dựng, dây chuyền công nghệ tự
động hóa, phương tiện vận tải, thiết bị điện, điện tử, thiết bị chuyên nghành cấp
thoát nước và môi trường là vô cùng tiềm năng, mang lại lợi ích to lớn cho công ty
đồng thời cho cả xã hội; góp phần xây dựng đất nước, xã hội phát triển.
1.2.3 Những vấn đề chung về du lịch
Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động
nói chung và du lịch nói riêng, Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển du lịch.
Sự đa dạng của nguồn tài nguyên cả về thiên nhiên( bãi biển, hang động, đảo, nước
khoáng, lớp phủ thực vật, giới động vật quý hiếm, nhiều cảnh quan thiên nhiên độc

đáo điển hình…) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, phong tục
tập quán, các làng nghề thủ công truyền thống, sự đa dạng về bản sắc văn hóa của
các dân tộc…), là điều kiện để phát triển nhiều loại hình du lịch với thời gian dài
ngắn khác nhau.Tài nguyên du lịch nước ta phân bố tương đối tập trung. Điều đó
góp phần hình thành các lãnh thổ du lịch điển hình trong toàn quốc. Mỗi lãnh thổ
du lịch có một sắc thái riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp
lại giữa vùng này với vùng khác nên thường không làm nhàm chán khách du lịch.
Mặt khác, chúng lại gần các đô thị lớn, các cửa khẩu quốc tế quan trọng tạo thuận
lợi cho việc đi lại, viếng thăm, ăn ở của khách.
Đất nước ngày càng phát triển, kinh tế ngày càng tăng cao, nhu cầu du lịch của
người dân ngày càng tăng cao. Ngoài du lịch trong nước, nhu cầu du lịch nước
ngoài của người dân ngày càng nhiều. Đời sống ngày càng cao, nhu cầu du lịch
giải trí của người dân càng nhiều, do đó du lịch không chỉ giới hạn ở trong nước
mà còn ở nước ngoài với nhiều hình thức đa dạng và phong phú (tàu hỏa, máy bay,


thuyền…). Việc đứng ra tổ chức tour du lịch trong nước, quốc tế là hình thức kinh
doanh “ăn khách” và tiềm năng lợi nhuận cao.
1.3 Một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, ta có thể sử dụng một
số chỉ tiêu sau:
1.3.1 Thị phần của doanh nghiệp.
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác,trong đó thị phần là một chỉ
tiêu thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh
nghiệp chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó thị phần của doanh
nghiệp được xác định:
Doanh thu(sản lượng) của doanh nghiệp
Thị phần của doanh nghiệp =


Tổng doanh thu(sản lượng) của toàn nghành

Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng
rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức độ hoạt động
của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng thị
trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao và ấn định cho doanh nghiệp một vị trí ưu
thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì chỉ số
trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các đối thủ
cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả năng
chiếm lĩnh thị trường so với toàn nghành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ ta
dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: Đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so
với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay
những điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của các chỉ tiêu này là đơn giản,
dể hiểu nhưng nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và
sát thực của đối thủ.
1.3.2 Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biết mức sinh lời của đồng vốn dùng trong kinh
doanh. Tỷ lệ này cần bù đắp chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường


đồng vốn được coi là sử dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời
khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít nhất phải cao hơn mức lãi suất tín dụng ngân
hàng. Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phản ánh tiềm năng
của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp ấy.
Ngoài ra, xét về quyền lợi của nhà đầu tư người ta có thể dùng chỉ tiêu tỷ suất
lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu để đánh giá khả năng sinh lời trên một đồng vốn của
người góp vốn vào doanh nghiệp.
1.3.3 Tỷ lệ chi phí marketing/Tổng doanh thu.

Marketing là một trong những công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh cho doanh nghiệp. Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu
quả hoạt động của mình. Chi phí cho hoạt động Marketing chiếm một tỷ lệ không
nhỏ trong tổng số chi phí và doanh thu của doanh nghiệp nên tỷ lệ này càng cao thì
chứng tỏ công ty rất quan tâm đến hoạt động marketing và các hoạt động hỗ trợ
khác thúc đẩy nghiên cứu thị trường, cải tiến mẫu mã, hoàn thiện kênh phân phối
sản phẩm. Nhưng để có hiệu quả thì doanh nghiệp phải biết cân đối hợp lý giữa chi
phí bỏ ra và lợi nhuận đem lại, doanh thu phải bù đắp được chi phí hoạt động
Marketing. Có như vậy mới đáp ứng được các mục tiêu và tăng năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
1.4 Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh
Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là những
nhân tố tác động đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó, bao gồm
cả các nhân tố chủ quan và các nhân tố khách quan.
1.4.1 Các nhân tố khách quan.
- Các yếu tố về mặt kinh tế:
Trong môi trường kinh doanh các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp độ nào
cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu. Các yếu tố kinh tế cần
phải được nghiên cứu, phân tích và dự báo bao gồm:
+ Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
cao sẽ làm cho thu nhập của dân cư tăng lên. Thu nhập của họ tăng lên có


nghĩa là họ có thể tiêu dùng những sản phẩm dịch vụ với chất lượng và yêu
cầu cao hơn, đây là một cơ hội tốt cho các nhà doanh nghiệp có khả năng
sản xuất những hàng hóa cao cấp.
+ Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng nội tệ: nhân tố này có ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là trong nên kinh tế mởi
như hiện nay. Nếu đồng nội tệ mà bị mất giá thì nó cũng ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của công ty trên thị trường. Đối với doanh nghiệp hoạt

động xuất khẩu nhập nhiều nguyên liệu nước ngoài thì đây là khó khăn vì
nó làm cho giá thực tế của hàng hóa nhập khẩu tăng lên, làm ảnh hưởng tới
giá thành sản phẩm và năng lực cạnh tranh của công ty.
+ Lãi suất cho vay của ngân hàng cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hạn chế về
vốn phải vay của ngân hàng, Nếu tỷ lệ lãi suất cao, chi phí của doanh nghiệp
tăng lên do trả lãi tiền vay lớn, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ
kém đi, nhất là so với các đối thủ có tiềm lực mạnh về vốn.
Các nhân tố kinh tế trong môi trường kinh tế quốc dân tương đối rộng có
ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều nghành, nhiều lĩnh vực của đời sống kinh
tế, do đó doanh nghiệp cần chọn lọc các ảnh hưởng cả ở dạng cơ hội và đe
dọa.
- Các nhân tố về chính trị - pháp luật:
Các nhân tố về chính trị pháp luật là nên tảng qui định các yếu tố khác
của môi trường kinh doanh. Có thể nói quan điểm đường lối chính trị nào,
hệ thống pháp luật và chính sách nào sẽ có môi trường kinh doanh đó. Nói
cách khách không có môi trường kinh doanh thoát ly quan điểm chính trị và
nền tảng pháp luật.
Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở
đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh
và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn
đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách về xuất


nhập khẩu, về thuế nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp sản xuất trong nước.
- Các nhân tố khoa học công nghệ:
Trong môi trường kinh doanh, các nhân tố về khoa học công nghệ đóng
vai trò ngày càng quan trọng, nhất là trong thời đại ngày nay khi mà

khoa học công nghệ trên thế giới có sự phát triển mạnh mẽ. Nó tác động
mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của mỗi sản phẩm, dịch vụ thông qua
hai công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp là chất lượng và giá
bán sản phẩm, qua đó hình thành nên năng lực cạnh tranh của mỗi doanh
nghiệp. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh
nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung.
- Vị trị địa lý và việc phân bố dân cư, phân bổ địa lý các tổ chức kinh
doanh:
Các nhân tố này tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn ban đầu cho quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, vị trí
địa lý thuận lợi sẽ tạo những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khuếch
trương sản phẩm, mở rộng thị trường.
- Các nhân tố trong môi trường nghành.
+ Khách hàng:
Là một bộ phận không thể tách rời trong môi trường cạnh tranh, sự tín
nhiệm của khách hàng có thể là tài sản có giá trị nhất của doanh nghiệp.
Sự tín nhiệm đạt được do biết thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu và thị hiếu
của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Khách hàng luôn là đối tượng
phục vụ của các doanh nghiệp. Thông qua sự tiêu dùng của khách hàng
mà doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận. Các doanh nghiệp luôn
tìm những biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng tốt nhất so
với đối thủ cạnh tranh.
Khách hàng có thể gây ảnh hưởng của mình tới năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp thông qua thị hiếu và thu nhập.
- Các đối thủ cạnh tranh hiện có và các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn:
Các đối thủ cạnh tranh hiện có ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có cùng quy mô năng lực
sản xuất và mức độ cạnh tranh trong nghành.



Mỗi đối thủ khi tham gia vào thị trường đều muốn huy động mọi khả
năng của mình nhằm thỏa mãn đến mức cao nhất mọi yêu cầu của người
tiêu dùng. Bởi vậy nếu muốn tồn tại và đứng vững thì đòi hỏi doanh nghiệp
phải không ngừng củng cố, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể
theo kịp và vượt lên trên các đối thủ cạnh tranh khác.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn có khả năng tham gia vào nghành sẽ tác
động đến mức độ cạnh tranh của nghành trong tương lai.
- Các đơn vị cung ứng đầu vào:
Đối với một doanh nghiệp thương mại thì việc cung ứng hàng hóa đầu
vào có ảnh hưởng tới chất lượng hàng hóa bán ra. Do vậy các nhà cung ứng
đầu vào đóng vai trò rất quan trọng. Các đơn vị cung ứng đầu vào cho
doanh nghiệp có thể gây khó khăn làm giảm khả năng cạnh tranh trong
những trường hợp sau:
+ Doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung
cấp
+ Họ là nhà cung cấp độc quyền của doanh nghiệp.
+ Loại vật tư của nhà cung cấp là yếu tố đầu vào quan trọng nhất
đối với doanh nghiệp, có thể quyết định đến quá trình sản xuất hoặc
quyết định sản phẩm của doanh nghiệp.
Trong những trường hợp trên, nhà cung cấp có thể ép doanh nghiệp
qua việc tăng giá bán, trì hoãn cung cấp nguyên vật liệu để sản xuất làm
cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp bị đình trệ hoặc bị ảnh hưởng
tiêu cực. Do đó doanh nghiệp nên có những mối quan hệ tốt với họ hoặc
tìm cho mình các nhà cung cấp khác để tự chủ cho nguồn nguyên liệu
đầu vào.
- Các sản phẩm thay thế:
Sự ra đời của sản phẩm thay thế luôn luôn là một tất yếu nhằm đáp ứng
những nhu cầu của thị trường theo hướng ngày càng đa dạng, phong phú và
đòi hỏi ngày càng cao, số lượng sản phẩm thay thế gia tăng cũng làm mức
độ cạnh tranh và thu hẹp quy mô thị trường của sản phẩm trong nghành.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp và mãnh
mẽ nếu như sản phẩm của doanh nghiệp thuộc loại sản phẩm bị thay thế.


Chẳng hạn như một bếp hàng điện sẽ bị thay thế bởi hàng bếp ga, quạt điện
có thể thay thế bằng điều hòa nhiệt độ… Sự ảnh hưởng này có thể do giá
bán của sản phẩm quá cao khiến người tiêu dùng thay thế bằng việc mua
snar phẩm khác có mức giá thấp hơn hoặc nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa
dạng và đòi hỏi cao hơn,
1.4.2 Các nhân tố chủ quan.
• Hệ thống máy móc thiết bị công nghệ.
Tình trạng, trình độ của hệ thống máy móc, thiết bị công nghệ của doanh
nghiệp có ảnh hưởng mạnh mẽ tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Nó
là yếu tố quan trọng thể hiện năng lực sản xuất của doanh nghiệp và tác động
trực tiếp tới chất lượng sản phẩm.
Một doanh nghiệp có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến
thì doanh nghiệp đó có thể nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm bớt chi phí
nguyên liệu, chi phí nhân công làm cho doanh nghiệp có lợi thế trong việc sử
dụng giá cả làm công cụ cạnh tranh trên thị trường.
• Khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Năng lực về tài chính luôn luôn là các yếu tố quyết định đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh nói chung cũng như năng lực cạnh tranh nói riêng của mỗi
doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có khả năng tài chính đảm bảo sẽ có ưu thế trong việc
đầu tư, đổi mới máy móc thiết bị, tiến hành các hoạt động khác nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh. Ngược lại, doanh nghiệp có khó khăn về vốn sẽ rất khó
khăn để tạo lập, duy trì nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.
• Quy mô và năng lực sản xuất
Doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ có lợi thế trong cạnh tranh. Những lợi thế
này có được do

- Số lượng sản phẩm lớn sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thõa mãn được
nhiều hơn nhu cầu khách hàng, qua đó chiếm được thị phần lớn hơn


- Doanh nghiệp có quy mô và năng lực sẽ có ảnh hưởng lớn hơn đối với người
tiêu dùng so với các doanh nghiệp nhỏ.
• Nguồn nhân lực
Con người luôn là yếu tố quan trọng và quyết định đối với yếu tố hoạt động
của mọi doanh nghiệp. Yếu tố con người bao trùm lên trên mọi hoạt động của
doanh nghiệp thể hiện qua khả năng, trình độ ý thức của đội ngũ quản lý và
những người lao động.
Đội ngũ lao động tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông
qua các yếu tố về năng suất lao động, ý thức của người lao động trong sản xuất,
sự sang tạo… Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng
sản phẩm, giảm chi phí sản xuất.
• Bộ máy quản lý
Bộ máy quản lý của doanh nghiệp tác động một cách tổng hợp tới hiệu quả
hoạt động sản xuất nói chung cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
nói riêng. Bộ máy quản lý doanh nghiệp cũng có tầm quan trọng như bộ óc con
người, muốn chiến thắng được đối thủ trong cuộc cạnh tranh đòi hỏi doanh
nghiệp phải nhạy bén, chủ động trước tình huống thị trường, phải đi trước các
đối thủ trong việc đáp ứng các nhu cầu mới… Tất cả những hoạt động đó đều
phụ thuộc vào bộ máy quản lý của doanh nghiệp.
• Vị trí địa lý
Việc lựa chọn mặt bằng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là điều cần
thiết quan trọng, nó có thể tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho quá trình cung ứng
nguyên vật liệu đầu vào và quá trình tiêu thụ sản phẩm.
1.5 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.5.1 Nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại.
Xuất phát từ quy luật của cơ chế thị trường, cạnh tranh đó là đào thải những

cái lạc hậu và bình tuyển cái tiến bộ để thúc đẩy hàng hóa phát triển nhằm mục
đích thõa mãn người tiêu dùng một cách tốt nhất.


Trong nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là một quy luật tất yếu, nó luôn
luôn tồn tại cho dù con người có muốn hay không/ Các doanh nghiếp muốn trụ
vững trên thị trường thì đều phải cạnh tranh gay gắt với nhau, cạnh tranh để giành
giật khách hàng, để bán được hàng hóa. Muốn vậy thì họ phải tạo ra được những
điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, làm thế nào để khách hàng
tin tưởng vào sản phẩm của doanh nghiệp, ưa thích và tiêu dùng nó. Doanh nghiệp
nào đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, cung cấp cho họ có những dịch vụ thuận
tiện và tốt nhất với mức giá phù hợp thì doanh nghiệp đó mới tồn tại lâu dài được.
1.5.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một điều kiện và yếu tố
kích thích kinh doanh. Quy luật cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất. Sản xuất
hàng hóa ngày càng phát triển, hàng hóa bán ra nhiều, số lượng người cung ứng
ngày càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt, kết quả cạnh tranh là loại bỏ
những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và sự lớn mạnh của những doanh nghiệp
làm ăn tốt. Do vậy muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp cần phải cạnh tranh,
phải tìm mọi cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình nhằm đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của khách hàng, các doanh nghiệp cần phải tìm ra biện pháp đáp ứng nhu
cầu thị hiếu của khách hàng bằng cách sản xuất và kinh doanh những sản phẩm có
chất lượng cao, công dụng tốt nhưng giá cả phải phù hợp. Có như thế lượng hàng
hóa bán ra của doanh nghiệp mới ngày một nhiều.
1.5.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh để thực hiện mục tiêu.
Mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ đều đặt ra cho mình những mục tiêu nhất
đinh, tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển mà doanh nghiệp đặt mục tiêu nào lên
hàng đầu. Mục tiêu đó có thể là tối đa hóa lợi nhuận, mở rộng thị phần hay cũng có
thể là đảm bảo lợi ích xã hội. Tuy nhiên hầu hết mọi doanh nghiệp luôn muốn tìm
mọi cách để bán được sản phẩm của mình nhiều nhất trên cơ sở tối đa hóa lợi

nhuận.
Cạnh tranh là con đường tốt nhất để doanh nghiệp có thể tự đanh giá được
khả năng và năng lực của mình, từ đó đánh giá được đối thủ cạnh tranh, tìm ra
được những “lỗ hổng” của thị trường, đó là “phần thưởng” và cũng là con đường
để doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình.


Kết Luận Chương I
Trong chương I, luận văn đã cụ thể hóa những lý luận cơ bản sau:
- Những vấn đề chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh.
- Những vấn đề chung về thương mại,xuất khẩu lao động và cung
cấp thiết bị cấp thoát nước
- Một số chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Các nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh.
- Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đây là những nội dung có ý nghĩa lý luận làm cơ sở để xem xét đánh giá
thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần phát triển nhân lực,
thương mại và du lịch VIWASEEN.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC,
THƯƠNG MẠI VÀ DU LỊCH VIWASEEN.


2.1TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC,
THƯƠNG MẠI VÀ DU LỊCH VIWASEEN
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triền
2.1.1.1 Tên và địa chỉ công ty
-


Tên công ty

: Công ty cổ phần phát triển nhân lực, thương mại và du lịch

VIWASEEN.
-

Tên giao dịch : VIWASEEN MANPOWER SUPPLY, Commercial and tourism
joint-stock company.

-

Tên viết tắt

-

Biểu tượng:
-

: VIWAMEX.,JSC.

Địa chỉ

: Tầng 1, Số 52, Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội.

-

Điện thoại

: 0437.472.982


-

Vốn điều lệ

: 18 tỷ đồng

-

Giám đốc

: Ông Hoàng Sĩ Thành.

2.1.1.2 Quá trình hành thành và phát tiển của công ty
- Căn cứ Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 được thông qua
ngày 29 tháng 12 năm 2005;


- Căn cứ Biên bản họp ngày01/06/2007 được kí kết giữa Tổng công ty
VIWASEEN, Trường Cao đẳng Xây dựng Công trình Đô thị, Công ty cổ
phần Bất động sản Dầu khí về việc đồng tham gia sáng lập Công ty cổ
phần phát triển nhân lực, thương mại và du lịch VIWASEEN –
VIWAMEX;
- Căn cứ công văn số 1243/BXD-TCCB ngày 12 tháng 06 năm 2007 của
Bộ trưởng Bộ xây dựng về việc đồng ý chủ trương thành lập Công ty cổ
phần phát triển nhân lực, thương mại và du lịch VIWASEEN đã thảo
luận,nhất trí thông qua nội dung của bản Điều lệ và cùng cam kết thực
hiện ngiêm chỉnh những quy định trong bản điều lệ;
- Công ty Cổ phần phát triển Nhân lực, Thương mại và Du lịch

VIWASEEN - VIWAMEX là đơn vị Nhà nước nắm giữ trên 70% vốn
điều lệ do ba cổ đông sáng lập là: Tổng Công ty Đầu tư xây dựng cấp
thoát nước và môi trường Việt Nam – Bộ Xây dựng, Trường cao đẳng Xât
dựng công trình đô thị – Bộ Xây dựng, Công ty Cổ phần Bất động sản
Dầu khí – Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam.

2.1.2 Cơ cấu tổ chức của VIWAMEX

(Hình 2.1 Cơ cấu tổ chức công ty)
(Nguồn từ phòng tổ chức hành chính)
2.1.3 Đặc điểm kinh tế kỹ thuật
2.1.3.1 Đặc điểm về sản phẩm
- Cung cấp vật tư chuyên nghành cấp thoát nước và môi trường, máy móc,
thiết bị, phụ tùng xây dựng, dây chuyền công nghệ tự động hóa, phương tiện


vận tải, thiết bị điện, điện tử, thiết bị chuyên nghành cấp thoát nước và môi
trường; đại lý mua, đại lý bán và kí gửi hàng hóa; đại lý bán vé máy bay cho
các hãng trong và ngoài nước; kinh doanh dịch vụ vận tải và giao nhận, vận
chuyển hàng hóa;
- Đưa lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
theo hợp đồng;
- Tổ chức lữ hành nội địa, quốc tế,tư vấn du học và dịch thuật;
- Tổ chức đào tạo nghề, nghiệp vụ, ngoại ngữ, giáo dục định hướng xuất khẩu
lao động; nguồn nhân lực, nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật chuyên nghành xây
dựng, cấp thoát nước và môi trường; đào tạo lái xe ô tô từ 4 đến 45 chỗ ngồi;
- Thực hiện các dịch vụ cung cấp, lắp đặt, sửa chữa, bảo hành điều hoà không
khí, điện lạnh, thiết bị phòng chống cháy nổ, thang máy; lắp đặt điện nước
và trang trí nội thất;
- Kinh doanh khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ trong khu công nghiệp, khu

đô thị, khu nhà ở, khu dân cư tập trung, khu vui chơi giải trí, bãi đỗ xe,
khách sạn du lịch và các dịch vụ khác;
- Thực hiện một số hoạt động sản xuất kinh doanh khác mà pháp luật không
cấm.
2.1.3.2 Đặc điểm về môi trường kinh doanh
- Đặc điểm thị trường:
+ Xuất khẩu lao động: Ngày nay với nền kinh tế phát triển theo hướng toàn
cầu hóa, việc người lao động ra nước ngoài làm việc theo một tổ chức hay cá nhân
tự tìm kiếm việc làm là hiện tượng phổ biến như một tất yếu của xã hội. Giải quyết
việc làm thông qua xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực hoạt động đem lại
lợi ích – xã hội quan trọng cho nhiều quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay khi
giải quyết vấn đề việc làm nói chung, xuất khẩu lao động nói riêng đều đang được
Chính phủ các nước đang phát triển chú trọng. Ở Việt Nam số dân gần 90 triệu
người, trong đó lực lượng lao động chiếm 60%, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 4,66% lực
lượng lao động nên sức ép của tình trạng thiếu việc làm là rất lớn. Vấn đề giải


quyết việc làm không chỉ được thực hiện ở thị trường trong nước mà phải chú
trọng đến thị trường ngoài biên giới. Chính phủ đã có những đánh giá đúng tầm
quan trọng của công tác xuất khẩu lao động trong vấn đề giải quyết trong vấn đề
giải quyết việc làm, từ đó đã có những định hướng đúng đắn: “Đẩy mạnh dịch vụ
xuất khẩu lao động và các dịch vụ thu ngoại tệ khác với sự tham gia của các thành
phần kinh tế”.
Mặc khác giá công nhân Việt Nam rẻ hơn nhiều so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, có sức cạnh trạnh trên thị trường lao động quốc tế. Nguồn lao
động dồi dào, số lượng người trong độ tuổi lao động lớn, cơ cấu dân số nước ta
thuộc loại trẻ, đại bộ phận (53%) ở độ tuổi dưới 30, dưới 40 là 78%, chỉ có 22%
dân số ở độ tuổi trên 40. Việt Nam đang không ngừng tiến xa hơn trên con đường
hội nhập với thế giới, trong khi thị trường lao động quốc tế cũng không ngừng tăng
trưởng và đa dạng. Đây là cơ hội quan trọng để Việt Nam tham gia và phát huy lợi

thế của mình trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Đồng thời đây là một cơ hội lớn,
mở ra thị trường hấp dẫn cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
+ Du lịch: Đảng và nhà nước đã khẳng định “Du lịch là một nghành kinh tế
tổng hợp quan trọng góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội của đất nước” và coi “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng
trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội góp phần thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phấn đấu từng bước đưa nước ta thành trung tâm du lịch,
thương mại - dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực” .
Ngày nay đời sống con người ngày càng cao, họ không những có nhu cầu đầy
đủ về vật chất mà còn có nhu cầu được thõa mãn về tinh thần như vui chơi, giải trí
và du lịch. Do đó, du lịch là một trong những nghành có triển vọng phát triển rất
lớn.
Nước ta có tiềm năng du lịch vô cùng đa dạng và phong phú. Tính đến tháng
8/2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 3000 di tích
được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 5000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Tài
nguyên du lịch nước ta phân bố tương đối tập trung, điều đó góp phần hình thành
nên các lãnh thổ du lịch điển hình trong toàn quốc. Mỗi lãnh thổ du lịch có sắc thái
riêng, tạo nên các tuyến du lịch xuyên quốc gia, không lặp lại giữa các vùng.


Lượng khách du lịch không chỉ là du khách nội địa mà còn cả số lượng lớn khách
nước ngoài. Việt Nam đang là điểm đến ưa thích của nhiều lữ khách nước ngoài
trên thế giới.
+ Thương mại: Trong xu thế phát triển của đất nước, quá trình đô thị hóa ngày
càng tăng nhanh, đi kèm với đó là nhu cầu xây dựng ngày càng tăng lên nhanh
chóng. Từ cuối những năm 90 cho đến nay, nước ta đã có những bước thay đổi
mạnh mẽ cả về cơ sở hạ tầng lẫn cảnh quan môi trường.

- Vị thế cạnh tranh của công ty:
Bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 2007, Công ty Cổ phần phát triển nhân lực,
thương mại và du lịch VIWASEEN

2.1.4 Khái quát tình hình kết quả hoạt động kinh doanh
2.2
Thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần phát triển nhân
lực, thương mại và du lịch VIWASEEN.
2.2.1 Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty thông qua các yếu tố
nội lực
2.2.1.1 Nguồn lực tài chính và vật chất
Vốn là tiền đề vật chất giúp doanh nghiệp thành lập và tồn tại phát triển. Thiếu
vốn hoặc không có vốn sẽ là chiếc gọng kìm chặn mọi đường tiến, khiến cho doanh
nghiệp rơi vào vòng luẩn quẩn của cái cũ, cái nghèo nàn. Vốn rất quan trọng đối
với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy thuộc vào quy mô và
đặc điểm kinh doanh mà nhu cầu vốn của mỗi doanh nghiệp là khác nhau cũng như
việc phân bổ vốn là khác nhau. Công ty Cổ phần VIWASEEN được thành lập và
chính thức đi vào hoạt động từ năm 2007 dưới hình thức công ty cổ phần với số
vốn điều lệ ban đầu là 10.000.000.000 Việt Nam đồng. Từ đó đến nay, với hoạt
động kinh doanh thuận lợi và đạt kết quả tốt, công ty thực hiện chính sách giữ lại
lợi nhuận sau thuế để bổ sung nguồn vốn phục vụ cho hoạt động đầu tư mở rộng
sản xuất kinh doanh, đồng thời huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu.
2.2.1.2 Nguồn nhân lực
Nhân sự là một yếu tố


×