Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Xây dựng và sử dụng website hỗ trợ dạy học môn Công nghệ 8 phần Cơ khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 97 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của khoa Sư phạm Kĩ thuật - Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội và được sự đồng ý của Thầy giáo hướng dẫn PGS - TS Lê Huy
Hoàng, tôi đã thực hiện đề tài: “Xây dựng và sử dụng Website hỗ trợ dạy
học Công nghệ 8 phần Cơ khí”.
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy cô giáo
đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và
rèn luyện ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với PGS.TS.
Lê Huy Hoàng - người thầy đã hướng dẫn, chỉ đạo tận tình cho tôi trong suốt
quá trình thực hiện đề tài luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình,bạn bè và đồng nghiệp đã cổ vũ, động
viên và tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập và
hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học cũng như
những hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh được những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong nhận được góp ý
của Thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 09 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hà


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TT
1
2
3


4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14

NỘI DUNG VIẾT TẮT
KT, KN
DH
TN
ĐHSPHN
GV
GCCK
TTC
HS
PP
PPDH
SGK
THCS
MVT
CNTT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ
: Kiến thức, kỹ năng

: Dạy học
: Thực nghiệm
: Đại học sư phạm Hà Nội
: GV
: Gia công cơ khí
: Tính tích cực
: HS
: Phương pháp
: Phương pháp dạy học
: Sách giáo khoa
: Trung học cơ sở
: Máy vi tính
: Công nghệ thông tin


DANH MỤC BẢNG, HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ
1. Danh mục bảng
Bảng 1.1 Kích thước của các kênh dữ liệu trong trang Web....Error: Reference
source not found
Bảng 1.2: Khảo sát tình hình trang thiết bị tại các trường THCS trên địa bàn
Hà Nội, Bắc Ninh......................................... Error: Reference source not found
Bảng 1.3: Mức độ ứng dụng CNTT trong dạy học. Error: Reference source not
found
Bảng 3.1: Bảng phân phối xác suất (số HS Fi đạt điểm xi).......Error: Reference
source not found
Bảng 3.2: Bảng tần xuất xi, fi(%)..................Error: Reference source not found
Bảng 3.3: Kết quả tính phương sai lớp đối chứng. .Error: Reference source not
found
Bảng 3.4: Kết quả tính phương sai lớp thực nghiệm....Error: Reference source
not found

Bảng 3.5: Bảng so sánh kết quả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng.........Error:
Reference source not found
2. Danh mục hình vẽ
Hình 1.1: Mô hình TPACK.............................................................................15
Hình 1.2: Các cấp độ sử dụng ICT trong dạy học...........................................19
Hình 1.3: So sánh Web 1.0 và Web 2.0..........................................................27
Bảng 1.1 Kích thước của các kênh dữ liệu trong trang Web..........................30
Bảng 1.2: Khảo sát tình hình trang thiết bị tại các trường THCS trên địa bàn
Hà Nội, Bắc Ninh............................................................................................40
Bảng 1.3: Mức độ ứng dụng CNTT trong dạy học.........................................41
Hình 2.1 : Giao diện Microsoft Word.............................................................53
Hình 2.2 : Giao diện PowerPoint.....................................................................54
Hình 2.3 : Giao diện Dreamweaver.................................................................56
Hình 2.4 : Giao diện BB Flashback pro..........................................................56


Sơ đồ 2.2: Cấu trúc Website dạy học..............................................................58
Hình 2.5: Giao diện Site Trang chủ.................................................................59
Hình 2.6: Giao diện Site Bài giảng..................................................................60
Bảng 3.1: Bảng phân phối xác suất (số HS Fi đạt điểm xi)............................71
Bảng 3.2: Bảng tần xuất xi, fi(%)....................................................................71
Hình 3.1: Đồ thị đường tần suất (fi)................................................................72
Bảng 3.3: Kết quả tính phương sai lớp đối chứng...........................................72
Bảng 3.4: Kết quả tính phương sai lớp thực nghiệm.......................................73
Bảng 3.5: Bảng so sánh kết quả lớp thực nghiệm và lớp đối chứng...............74

MỤC LỤC
ND kiÕn thøc c¬ b¶n.......................................................................................85



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, công nghệ thông tin (CNTT) không ngừng tác động mạnh mẽ đến giáo
dục và đào tạo. Làm thay đổi cách suy nghĩ của GV và HS. Quá trình dạy học
trở nên tích cực hơn, sinh động hơn, linh hoạt hơn, trực quan hơn khi nó được
gắn liền với những phương tiện nghe nhìn hiện đại. Công nghệ thông tin vừa
như một phương tiện vừa như một nhân tố mới trong quá trình dạy học, chi
phối toàn bộ quá trình này nhằm đạt đến mục tiêu nhanh nhất và hiệu quả
nhất. Với ưu thế của một nguồn thông tin khổng lồ, đầy màu sắc, sống động
phản ánh sự đa dạng của thế giới, Internet đã và đang trở thành một công cụ
hỗ trợ tích cực trong việc dạy và học. Tuy nhiên làm thế nào để khai thác
Internet một cách hiệu quả đang là vấn đề đặt ra đối với các GV.
Trước những biến đổi về thời đại mới, một yêu cầu đặt ra đối với con
người đó là muốn chiếm lĩnh được tri thức của nhân loại phải tự chủ, sáng tạo
và có tư duy khoa học. Trước tình hình đó đã đặt ra cho nền giáo dục nước ta
phải có những đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ, vươn tới ngang tầm với
sự phát triển chung trên Thế giới và Khu vực. Trong đó đổi mới phương pháp
dạy học là yếu tố quan trọng, cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
Phát triển giáo dục là chìa khóa, là đòn bẩy tạo nên sự phát triển nhanh
chóng và bền vững cho đất nước trong thời gian tới và lâu dài về sau. Quan
điểm này đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khóa VIII) : “ Thực sự coi giáo dục – đào tạo là
quốc sách hàng đầu”. Trong những năm qua, giáo dục nước ta đã có nhiều đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tăng cường vai trò chủ thể của HS.
Phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo, trong đó việc giúp các em có khả năng
tự chiếm lĩnh tri thức là một trong những phương pháp cần thiết. Vì dù GV có

1



truyền đạt kiến thức nhiều đến đâu cũng không thể hết được kho tàng kiến
thức của nhân loại.
Trong chương trình giáo dục phổ thông, có một số kiến thức, khái
niệm, hiện tượng khá trừu tượng HS gặp nhiều khó khăn khi phải tìm hiểu
bản chất của hiện tượng đó. Tuy nhiên với những ưu thế về khả năng đồ họa,
mô phỏng mà các phương tiện dạy học đem lại sẽ hỗ trợ khắc phục những khó
khăn trên. Qua việc sử dụng Website trong dạy học, GV có thể phát huy tất cả
các giác quan của các em HS trong quá trình truyền thụ kiến thức, làm cho
HS nhận biết được các quan hệ giữa các hiện tượng, tái hiện những khái niệm,
nguyên lý…làm cơ sở cho việc áp dụng kiến thức đã học vào trong thực tế
đời sống sản xuất.
Các website phục vụ cho công tác giáo dục xuất hiện ngày càng nhiều.
Vì vậy theo dự đoán của các chuyên gia công nghệ thông tin Việt Nam, trong
một vài năm tới, bất kì tổ chức nào, đoàn thể nào không có Website hoặc các
hình thức đưa thông tin đến rộng rãi công chúng bằng các phương tiện ICT
(Information and Communication Technology), thì tổ chức, đoàn thể đó sẽ trở
nên lạc hậu
Từ những lí do trên, Tôi lựa chọn đề tài: “Xây dựng và sử dụng
website hỗ trợ dạy học môn Công nghệ 8 phần Cơ khí”, mong rằng nội dung
này sẽ giúp thầy cô và các em HS thuận tiện hơn trong việc nghiên cứu và
tiếp cận với kiến thức mới
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Xây dựng và sử dụng website hỗ trợ dạy học môn Công
nghệ 8 phần Cơ khí” nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, của
HS trong học tập, góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy
học công nghệ ở THCS
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc “Xây dựng và sử dụng
website hỗ trợ dạy học môn Công nghệ 8 phần Cơ khí”


2


Xây dựng và sử dụng website hỗ trợ dạy học môn công nghệ 8 phần
cơ khí.
Tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng tính hiệu quả và tính khả thi của
đề tài nghiên cứu.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
− Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Công nghệ 8 phần cơ
khí ở THCS.
− Đối tượng nghiên cứu: Xây dựng website và sử dụng hỗ trợ dạy học
môn Công nghệ 8 phần cơ khí
− Phạm vi nghiên cứu của đề tài hướng tới việc: “Xây dựng và sử dụng
website hỗ trợ dạy học môn Công nghệ 8 phần cơ khí”
Phạm vi tiến hành thực nghiệm ở một số trường THCS trên địa bàn Hà
Nội, Bắc Ninh
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, tôi sử dụng kết hợp một số phương
pháp sau:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phân tích, so sánh, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu liên quan đến
đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
5.2.1. Phương pháp quan sát: Dự giờ, chủ động quan sát việc dạy và học
môn Công nghệ của GV và HS.
5.2.2. Phương pháp điều tra: Phương pháp điều tra nhằm tiếp cận tình
hình thực tế, nắm được thực trạng của việc sử dụng hệ thống mạng máy tính
và máy tính phục vụ giảng dạy ở các trường THCS
Nhiệm vụ điều tra quan sát là tìm hiểu thái độ, tình hình của GV và HS

thông qua việc trao đổi và phỏng vấn trực tiếp, dự giờ để đánh giá chính xác
việc sử dụng phương tiện dạy học, ứng dụng CNTT, mạng máy tính vào giờ

3


học. Trên cơ sở đó xem xét những điều kiện cần và đủ, những thuận lợi cũng
như những hạn chế của việc khai thác và ứng dụng website vào trong dạy-học
lớp 8 của GV và HS
5.3. Phương pháp thống kê toán học:
Vận dụng lí thuyết xác suất và thống kê toán học để phân tích, xử lí các
kết quả thu được sau khi thực nghiệm sư phạm nhằm xác định xu hướng phát
triển của các đối tượng và làm tăng tính chính xác khách quan cho kết quả
nghiên cứu của đề tài.
5.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Nhằm tiến hành kiểm nghiệm, kiểm chứng, điều tra, khảo sát lấy ý
kiến, đánh giá về tính khả thi thực tiễn của việc xây dựng website
Sử dụng phiếu điều tra để lấy thông tin nhanh về việc ứng dụng CNTT
trong dạy học và sử dụng
Qua thực nghiệm rút ra những nhận xét cần thiết liên quan đến các giải
pháp đề xuất trong nội dung của đề tài. Kết quả thực nghiệm là cơ sở để kiểm
chứng tính khả thi của đề tài.
5.5. Phương pháp chuyên gia:
Dùng phương pháp này để đóng vai trò là người hướng dẫn thiết kế và
sử dụng website đúng với nguyên tắc, quy trình và nội dung chương trình,
góp phần phát triển năng lực của HS và đổi mới phương pháp dạy hoc trong
nhà trường phổ thông.
5.6 Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn, trò chuyện:
Trò chuyện, đàm thoại với HS nhằm tìm hiểu thực trạng dạy và học môn
công nghệ.

5.7. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Trao đổi kinh nghiệm với các thầy, cô giáo, đồng nghiệp và của chính
bản thân.

4


6. Giả thuyết khoa học
Nếu “Xây dựng và sử dụng website hỗ trợ dạy học môn Công nghệ 8
phần Cơ khí” đảm bảo nguyên tắc và quy trình hợp lí thì sẽ phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, góp phần đổi mới phương pháp,
nâng cao chất lượng dạy học môn Công nghệ ở trường THCS
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương là:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc “Xây dựng và sử dụng
website hỗ trợ dạy học môn Công nghệ 8 phần Cơ khí”
Chương 2: “Xây dựng và sử dụng website hỗ trợ dạy học môn Công
nghệ 8 phần Cơ khí”
Chương 3: Kiểm nghiệm và đánh giá

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY DỰNG WEBSITE
HỖ TRỢ DẠY HỌC MÔN CÔNG NGHỆ 8 PHẦN CƠ KHÍ
1.1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước có liên quan
Web xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1989 khi nhà vật lý học Tim

Berners-Lee muốn tìm ra một cách thức giúp các nhà khoa học trao đổi tài liệu
nghiên cứu thông qua Internet. Berners-Lee muốn rằng đó không chỉ là cách in
các văn bản trực tiếp trên Internet mà còn là cách hiển thị các đường dẫn để
đưa người đọc đến các phần khác của tài liệu, hoặc thậm chí là dẫn đến các tài
liệu được đặt ở một nơi khác trên mạng Internet.
Thực ra thì Berners-Lee không phải là người đưa ra ý tưởng này đầu
tiên. Ngay từ những năm 40, các nhà nghiên cứu khác cũng đã từng mô tả một
hệ thống tương tự, vào khoảng những năm 80, các ứng dụng như Ngôn ngữ
đánh dấu tổng quát chuẩn (SGML) cũng đã sử dụng một tập hợp phức tạp các
siêu liên kết để kết nối các tài liệu lại với nhau. Nhưng Berners-Lee đã phát
triển một hệ thống mà trong đó không đòi hỏi phải sử dụng các phần mềm mắc
tiền hay những kỹ năng lập trình cao. Ông đã phát minh ra một giao thức cơ
bản cho việc chuyển tải các tài liệu lên mạng Internet, gọi là giao thức truyền
siêu văn bản (HTTP) cũng như phát minh ra một bộ đơn giản các lệnh gọi là
Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản (HTML) để mô tả cấu trúc của một tài liệu.
Web đã bùng nổ vào năm 1993 khi một sinh viên tốt nghiệp trường Đại
học Illinois tên là Marc Andreessen phát triển thành công một phần mềm giúp
hiển thị các trang Web dưới dạng đồ họa. Phần mềm của Andreessen, được gọi
là một “trình duyệt”, cho phép người sử dụng có thể hiển thị hình ảnh cũng như
văn bản trên các trang web. Kết quả là Web đã lớn mạnh nhanh chóng, vượt ra
khỏi cả phạm vi sử dụng nhỏ hẹp ban đầu của các nhà khoa học. Sau đó

6


Andreessen đã đồng sáng lập Netscape Communications, đánh dấu cho sự
khởi đầu của cuộc Cách mạng Internet.
Chỉ trong vài năm, Web đã phát triển lớn mạnh với một tốc độ theo cấp
số nhân. Tính đến nay, có lẽ đã có tới một triệu mũ mười số trang Web được
đặt trên hàng ngàn ngàn máy vi tính khắp thế giới. Khởi nguyên của mạng

thông tin toàn cầu WWW thực tế chỉ là một dịch vụ chia sẻ thông tin qua
Internet, được phát triển bởi viện sĩ Viện Hàn lâm Anh Tim Berners-Lee và
Robert Cailliau (Bỉ) khi còn làm việc Hiệp hội nghiên cứu các vấn đề hạt
nhân CERN thuộc thành phố Geneva (Thụy Sỹ). Tuy nhiên, với việc chia sẻ
thông tin một cách nhanh chóng, mạng thông tin toàn cầu WWW đã phát
triển rộng khắp.
Cùng với việc ra đời và phổ biến của Internet, ngày nay việc thu thập
và xử lí thông tin trên mạng là một kĩ năng cần thiết trong nghiên cứu và học
tập cũng như trong lao động nghề nghiệp.
Trên thế giới việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã được quan tâm từ
lâu nhất là các nước tư bản phát triển. Từ những năm 1984, 1985 tổ chức
NSCU (National Sofwware – Cordination Unit) được thành lập, cung cấp
chương trình giáo dục máy tính cho các trường trung học. Các môn học đều
có phần mềm dạy học bao gồm: nông nghiệp, nghệ thuật, thương mại, giáo
dục kinh tế, tiếng anh, địa lý, kinh tế gia đình, công nghệ, kỹ thuật công
nghiệp, toán…
Ở Ấn độ, tổ chức NCERT (National Council of Education Resarch and
Training) ở New Dehli đã thực hiện đề án CLASS (Computer Literacy and
Sudies in School). Đề án xem xét việc sử dụng MVT hỗ trợ DH trong lớp,
đồng thời quan tâm đến vai trò của máy tính hư là một công cụ ưu việt đánh
dấu sự thay đổi về phương pháp luận DH
Năm 1985, các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Xrilanca,
Malaysia tổ chức hội thảo về phần mềm dạy học ở Malaysia đã đưa ra tiêu

7


chuẩn đánh giá phần mềm gồm 3 yếu tố: đặt vấn đề, trình bày bày giảng, kỹ
thuật lập trình.
Ở Nhật,máy tính và các phần mềm được sử dụng làm công cụ để trình

bày kiến thức,rèn luyện kĩ năng, tiếp thu bài mới và giải quyết những vấn đề
đặt ra trong tiết học. Nhật khẳng định việc sử dụng máy tính trong DH có tác
dụng kích thích hứng thú học tập của HS. Hiện nay, các nước trong khu vực
như Thái Lan, Singapo, việc ứng dụng CNTT trong dạy học cũng đã trở nên
phổ biến.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan
Vấn đề đưa CNTT vào giảng dạy ở các cấp học ở nước ta đã có nhiều
công trình nghiên cứu, đây là vấn đề quan trọng trong xu thế hội nhập với
giáo dục thế giới. Hiện nay có không ít các đề tài xây dựng website cũng như
việc ứng dụng CNTT vào dạy học trong chương trình môn kỹ thuật công
nghiệp. Tuy nhiên, đa phần các công trình nghiên cứu đều chỉ tập trung vào
chương trình ở bâc phổ thông và cao đẳng, đại học. Một số đề tài nghiên cứu
sử dụng CNTT trong dạy học như “Sử dụng đồ họa máy tính để nâng cao chất
lượng dạy học môn Cơ kỹ thuật ở trường CĐSP” – Đinh Việt Hoàng (2004),
“Ứng dụng CNTT trong dạy học môn Trang bị điện ở trường Cao đẳng Công
nghiệp Việt –Hung” – Nguyễn Duy Huấn (2006), “ Ứng dụng CNTT trong
dạy học Công nghệ 12 theo định hướng dạy học tích cực và tương tác” –
Nguyễn Thị Xuân (2010)
Nội dung của các luận văn này đề cập đến vấn đề đổi mới PPDH trong
đó có việc đổi mới theo xu hướng sử dụng CNTT cụ thể là sử dụng các
chương trình, phần mềm máy tính để thiết kế các bài giảng hỗ trợ quá trình
dạy học
Bên cạnh đó, một số đề tài nghiên cứu đề cập đến việc xây dựng
website hỗ trợ dạy học như “Thiết kế bài dạy dưới dạng trang WEB phần
động cơ đốt trong ở môn Công nghệ 11 ở trường THPT tỉnh Hải Dương” –

8


Bùi Văn Khiên (2005), “Xây dựng trang web tra cứu thuật ngữ kỹ thuật điện

trong chương trình Công nghệ 12 THPT” – Phạm Hồng Khoa (2008)…Nội
dung của các luận văn đều mong muốn triển khai thiết kế bài dạy dưới dạng
trang Web ở “mức độ vi mô” nhằm tổ chức hoạt động nhận thức của HS, theo
định hướng ứng dụng CNTT và các PTDH
Đề tài “Sử dụng máy vi tính trong dạy học KTCN 8 THCS” – Mai
Quốc Khánh (2001) có đề cập đến việc ứng dụng sử dụng CNTT vào việc dạy
học KTCN lớp 8 , nhưng ở mức độ sử dụng máy vi tính.
Có thể thấy, các đề tài nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc ứng dụng
CNTT và sử dụng website ở các trường THPT hoặc các trường cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp, chưa có đề tài nào nghiên cứu về xây dựng website
hỗ trợ việc thiết kế bài giảng môn công nghệ 8 phần cơ khí. Điều này gây trở
ngại cho việc tìm kiếm tri thức không những của GV mà còn cả của HS khi
tiếp cận phần kỹ thuật cơ khí. Do đó việc “Xây dựng và sử dụng Webstite hỗ
trợ DH môn Công nghệ 8 phần Cơ khí” là cần thiết
1.2. Cơ sở lý luận của việc “Xây dựng và sử dụng Webstite hỗ trợ DH môn
Công nghệ 8 phần Cơ khí”
1.2.1. Một số khái niệm
1.2.1.1. Công nghệ thông tin
Trên thế giới, thuật ngữ "Công nghệ Thông tin" xuất hiện lần đầu vào
năm 1958 trong bài viết xuất bản tại tạp chí Harvard Business Review. Hai
tác giả của bài viết, Leavitt và Whisler đã bình luận: "Công nghệ mới chưa
thiết lập một tên riêng. Chúng ta sẽ gọi là công nghệ thông tin (Information
Technology - IT)."
Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: "Công nghệ thông tin là tập hợp
các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ
yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có

9



hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong
mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội".[34]
Công nghệ thông tin là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và
công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trình xử lý thông tin. Theo quan
niệm này thì công nghệ thông tin là một hệ thống các phương pháp khoa học,
công nghệ, phương tiện, công cụ, chủ yếu là máy tính, mạng truyền thông và
hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử
dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế,
xã hội, văn hoá. [2]
Theo WikiPedia “Công nghệ Thông tin (CNTT) (Information
Technology) là một nhánh ngành kỹ thuật sử dụng máy tính và phần mềm máy
tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông tin”
Theo tác giả Lê Tuấn Hạnh “Công nghệ thông tin là tập hợp các
phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại, chủ
yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và sử dụng
có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”. Công nghệ thông
tin được phát triển trên nền tảng của các công nghệ Tin học - Điện tử Viễn thông và Tự động hoá. Công nghệ thông tin mang một ý nghĩa bao
trùm rộng rãi, nó vừa là khoa học, vừa là công nghệ, vừa là kỹ thuật, vừa
là tin học, viễn thông và tự động hoá.[4, tr12]
Thuật ngữ “công nghệ thông tin” được hiểu là các ứng dụng liên quan
đến máy vi tính và được phân loại dựa trên phương thức chúng được sử dụng
trong lớp học chứ không dựa trên nguyên lý hoạt động của chúng. (Means et
al, 1993)
Việc sử dụng máy vi tính, phương tiện truyền thông và internet… trong
giáo dục hiện nay đã phát triển nhanh chóng góp phần tạo ra nhiều hình thức
dạy học hết sức đa dạng và phong phú.

10



Đứng trên góc độ giảng dạy, “ CNTT là một công nghệ giúp con người
có thêm khả năng trong hoạt động trí tuệ chứ không phải thay thế con người
trong hoạt động đó. Có thêm nhiều phương tiên hỗ trợ trong việc dạy học
nghĩa là giúp cho GV có thêm thời gian và điều kiện để chăm lo những công
việc đòi hỏi chất lượng trí tuệ cao hơn hoạt động dạy học theo phương pháp
truyền thống”.
Trong nền giáo dục mới, người học không chỉ đòi hỏi biết thêm nhiều
tri thức, mà phải có năng lực tìm kiếm tri thức và tạo tri thức. Vì vậy, người
GV phải làm tốt vai trò người hướng dẫn quá trình tìm kiếm tri thức, gợi mở
những con đường phát hiện tri thức. Qua đó trau dồi khả độc lập và tư duy
sáng tạo cho HS. Để ứng dụng chất lượng và hiệu quả cao công nghệ thông
tin vào dạy học trong điều kiện của xã hội tri thức, khi mà khối lượng tri thức
tăng lên nhanh chóng, những tri thức mà HS cần đến và sử dụng trong cuộc
sống của mình trong tương lại có thể là những tri thức mà hiện tại nằm ngoài
hiểu biết của GV. Thì vốn quý của GV là truyền lại cho HS những phương
pháp suy nghĩ, độc lập tìm kiếm và phát hiện tri thức chứ không nhất thiết là
tri thức và kỹ năng cụ thể của mình. Theo nhà triết học Whitehead, có thể
chúng ta là thế hệ đầu tiên trong lịch sử mà những hiểu biết của cha ông ít có
giá trị thực tiễn đối với cuộc sống của chúng ta nhưng những tri thức có giá trị
lại được sản sinh ra trong quãng đời mà chúng ta sống.
Với các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu “Công nghệ thông tin là
một lĩnh vực khoa học rộng lớn nghiên cứu các khả năng và phương pháp thu
thập, lưu trữ, truyền và xử lý thông tin một cách tự động dựa trên các phương
tiện kỹ thuật như máy tính điện tử và các thiết bị thông tin khác”
1.2.1.2. Website
Website là một tập hợp các trang Web có liên quan với nhau, trên mỗi
Website có một trang Web xuất phát gọi là trang chủ và các trang Web khác
gọi chung là trang con. Nơi trình diễn các trang Web được gọi là Site. Tùy


11


theo số lượng thông tin trình bày mà trong một Website có thể có một hoặc
nhiều Site.
Mạng Internet mang lại rất nhiều tiện ích hữu dụng cho người sử dụng,
một trong các tiện ích phổ thông của Internet là hệ thống thư điện tử (Email),
trò chuyện trực tuyến (chat), máy tính truy tìm dữ liệu (search engine), các
dịch vụ thương mại và chuyển ngân, và các dịch vụ về y tế, giáo dục như là
chữa bệnh từ xa, hoặc tổ chức các lớp học ảo. Chúng cung cấp một khối
lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ trên Internet.
Một trang web là tập tin HTML hoặc XHTML có thể truy nhập dùng
giao thức HTTP hoặc HTTPS. Website có thể được xây dựng từ các tệp tin
HTML (trang mạng tĩnh) hoặc vận hành bằng các CMS chạy trên máy chủ
(trang mạng động). Website có thể được xây dựng bằng nhiều ngôn ngữ lập
trình khác nhau (PHP,.NET, Java, Ruby on Rails...).
Hiện nay, để một website có thể vận hành trên môi trường Word Wide,
cần bắt buộc có 3 phần chính:
- Tên miền (là tên riêng và duy nhất của website).
- Hosting (là các máy chủ chứa các tệp tin nguồn).
- Source code (là các tệp tin html, xhtml,.. hoặc một bộ code/cms)
Website được tương tác và hiển thị đến với người dùng thông qua các
phần mềm gọi là "Trình duyệt web" với các văn bản, hình ảnh, đoạn phim,
nhạc, trò chơi và các thông tin khác ở trên một trang web của một địa chỉ web
trên mạng toàn cầu hoặc mạng nội bộ. Website được tạo nên bởi các nhà thiết
kế web (website developer).
Ngày nay, thuật ngữ website được sử dụng rất phổ thông, người người,
nhà nhà đều có thể truy cập một website ở bất kì đâu có kết nối internet hoặc
có kết nối sóng di động. Với các doanh nghiệp, cá nhân thường xuyên tương

tác với cộng đồng online thì website là công cụ tốt nhất và duy nhất giúp họ

12


quảng bá hình ảnh, sản phẩm, thông tin,.. của mình. Và từ đó các dịch vụ thiết
kế web chuyên nghiệp ra đời nhằm đáp ứng điều đó.
1.2.1.3. Website dạy - học
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học giáo dục, theo tác giả Chu Vĩnh
Quyên : “Website dạy học là một phương tiện dạy học dưới dạng phần mềm
máy tính, được tạo ra bởi các siêu văn bản (là các tài liệu điện tử như bài
giảng, SGK..) trên đó bao gồm một tập hợp các công cụ tiện ích và các siêu
giao diện (trình diễn các thông tin multimedia, văn bản âm thanh, hình ảnh)
để hỗ trợ việc dạy học và cung cấp cho những người sử dụng khác trên mạng
máy tính”.[35, Tr45]
Website DH sẽ hỗ trợ cho GV, HS, nhà quản lý trao đổi thông tin hai
chiều, nhằm giúp cho mọi người định hướng được cách tiếp cận kiến thức
một cách hiệu quả nhât. Đồng thời là diễn đàn trao đổi thông tin và chia sẻ
với mọi người những vấn đề quan tâm trong công tác giảng dạy và học tập.
Website DH góp phần tích cực trong việc đổi mới PPDH, sử dụng Website
DH đáp ứng được nhu cầu đa dạng hóa cách tiếp cận kiến thức cho HS, góp
phần vào thành công chung của giáo dục hiện nay.
Website dạy học còn được gọi là Giáo trình điện tử (GTĐT) hoặc học
liệu điện tử hay còn gọi là các phần mềm học tập hay phầm dạy và học nói
chung là những giáo trình sử dụng CNTT để xây dựng [36]
Các website dạy học được sử dụng cho HS có gắn kết với nhà trường –
dù là theo loại hình học tập truyền thống hoặc loại hình vừa học vừa làm, học
từ xa và website dạy học sử dụng cho người tự học hoàn toàn là hai lĩnh vực
có những điểm khác biệt cơ bản
1.2.2. Một số vấn đề lí luận về ứng dụng CNTT trong dạy học

1.2.2.1. Mô hình TPACK
a. Giới thiệu
Với sự xuất hiện của công nghệ kỹ thuật số, ngày nay công nghệ đã trở
thành một phần không thể thiếu trong đời sống của các nhà giáo dục, của HS

13


sinh viên. Nó làm thay đổi cách GV và sinh viên tương tác và học tập trong
một môi trường công nghệ phong phú.
Với yêu cầu đặt ra là người GV cần phải có một kiến thức để tích hợp
công nghệ một cách có hiệu quả trong công tác giảng dạy, các nhà nghiên cứu
đã bắt đầu sử dụng TPACK như một khuôn khổ (khung lý thuyết) cho việc
thiết kế và phát triển chương trình để trang bị cho GV sự hiểu biết kiến thức
cần thiết để tích hợp công nghệ hiệu quả (Mishra & Koehler, 2006).
Nói theo cách khác TPACK là một thuật ngữ được sử dụng ngày càng
nhiều để mô tả những gì GV cần phải biết để có thể sử dụng hiệu quả công
nghệ vào thực tiễn giảng dạy của họ. TPACK là mô hình nói lên sự tích hợp
giữa kiến thức chuyên môn của người dạy và kiến thức về công nghệ.
Mô hình TPACK bàn đầu là các khuôn khổ TPCK từ viết tắt theo
Technological Pedagogical Content Knowledge, sau này được đổi tên thành
TPACK (phát âm "Tee-pack") với mục đích làm cho nó dễ dàng hơn để nhớ.
Mô hình này được xây dựng dựa trên mô hình của ông Lee Shulman về kiến
thức chuyên môn sư phạm (PCK) và kiến thức về công nghệ(TK).
Mô hình TPACK là hình ảnh hóa các thành tố quan trọng của quá trình
ứng dụng Công nghệ thông tin(CNTT) trọng hoạt động dạy và học. Mô hình
đưa ra cái nhìn tổng quan về 3 dạng cơ bản của kiến thức mà một GV cần có
để ứng dụng CNTT vào việc dạy học của mình: Kiến thức công nghệ (TK),
Kiến thức phương pháp sư phạm (PK) và kiến thức chuyên môn (CK), cũng
như mối quan hệ và tương tác giữa chúng.[19]

b. Lịch sử
TPACK không phải là một ý tưởng mới, rất nhiều các học giả khác đã
lập luận rằng, kiến thức về công nghệ không phải là một bối cảnh, mà việc
giảng dạy tốt đòi hỏi một sự hiểu biết xem làm thế nào để kết hợp giữa công
nghệ, kiến thức chuyên môn và phương pháp sư phạm. (Tpack.org)

14


Mô hình TPACK xây dựng trên mô tả của Lee Shulman (1987, 1986)
về PCK, mô tả làm thế nào để hiểu biết về công nghệ của GV trong giáo dục
và PCK tương tác với nhau để tạo thành một phương pháp giảng dạy ứng
dụng công nghệ hiệu quả.
TPACK xuất hiện trong các tài liệu nghiên cứu từ năm 1998. Mô hình
TPACK là kết quả của một thí nghiệm thiết kế đã đang được tiến hành bởi các
Giáo sư: Matt Koehler & Punya Mishra thuộc trường Đại học bang Michigan
– Mỹ và sau này có liên quan đến nhiều người khác như Kathryn Hershey,
Lisa Peruski, Aman Yadav, Kurnia Yahya, và Yong Zhao.
Matthew Koehler: Tiến sĩ Matthew J. Koehler là biên tập viên của
tpack.org, và tác giả của hơn 20 ấn phẩm liên quan đến TPACK, bao gồm:
Mishra & Koehler (2006). Công nghệ nội dung kiến thức sư phạm; Một
khuôn khổ cho kiến thức GV GV trường Cao đẳng Record.
c. Các thành phần:

Hình 1.1: Mô hình TPACK
Technological Knowledge (TK): Kiến thức công nghệ.
“Kiến thức và cách thức nhất định để làm việc với công nghệ. Điều này
bao gồm sự hiểu biết công nghệ thông tin một cách rộng rãi, đủ để áp dụng
hiệu quả trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày, có thể nhận ra khi
công nghệ thông tin có thể giúp hoặc cản trở việc đạt được một mục tiêu, và


15


có thể tiếp tục thích ứng với những thay đổi trong công nghệ thông tin”
(Koehler & Mishra, 2009).
Kiến thức công nghệ là kiến thức về những công nghệ tiêu chuẩn như
sách, phấn viết và tấm bảng đen, cũng như nhiều kỹ thuật tiên tiến hơn như
Internet và video kĩ thuật số. Điều này đòi hỏi phải có những kĩ năng cần thiết
để có thể sử dụng các công nghệ đăc biệt đó.
Sử dụng công nghệ kỹ thuật số thì kiến thức kĩ năng cần có là kiến thức
về hệ điều hành, phần cứng máy tính cũng như khả năng sử dụng các bộ công cụ
tiêu chuẩn của các phần mềm như xử lý văn bản, bảng tính, trình duyệt, email,…
Kiến thức công nghiệ bao gồm kiến thức về làm thế nào để cài đặt và
loại bỏ các thiết bị ngoại vi, cài đặt và gỡ bỏ các chương trình phần mềm, tạo
ra và lưu trữ các tài liệu.
Pedagogical Knowledge (PK): Kiến thức phương pháp sư phạm.
"Kiến thức sâu của GV về các tiến trình thực hiện hoặc các phương
pháp giảng dạy và học tập. Chúng bao gồm mục đích giáo dục tổng thể, giá trị
và mục tiêu. Hình thức chung của kiến thức áp dụng đối với sự hiểu biết như
thế nào của HS, kỹ năng chung quản lý lớp học, lập kế hoạch bài học, và đánh
giá HS" (Koehler & Mishra, 2009).
Content Knowledge (CK): Kiến thức chuyên môn.
Kiến thức của GV về các vấn đề được học hoặc giảng dạy. GV phải
biết và hiểu được các đối tượng mà họ giảng dạy, bao các kiến thức về các
khái niệm, lý thuyết, ý tưởng, khuôn khổ tổ chức, kiến thức về chứng cứ và
chứng minh. Lee Shulman (1986).
GV cũng phải hiểu được bản chất của kiến thức và những yêu cầu trong
các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, làm thế nào để một chứng minh trong toán học
khác nhau so với một lời giải thích trong lịch sử hoặc giải thích một tác phẩm

văn học? GV không có những hiểu biết có thể xuyên tạc những đối tượng khi
truyền đạt đến HS của mình (Ball, McDiarmid, 1990).

16


Technological Pedagogical Knowledge (TPK): Kiến thức công nghệ và
phương pháp sư phạm.
"Một sự hiểu biết về cách dạy và học có thể thay đổi khi công nghệ đặc
biệt được sử dụng trong những cách riêng. Điều này bao gồm biết phương
pháp sư phạm và sự phù hợp hay hạn chế của nó với một loạt các công cụ
công nghệ có liên quan, từ đó phát triển các thiết kế sư phạm phù hợp và
chiến lược "(Koehler & Mishra, 2009).
Technological Content Knowledge (TCK): Kiến thức chuyên môn và
công nghệ.
Nội dung kiến thức công nghệ đề cập đến cách sử dụng kiến thức công
nghệ để có thể cung cấp được những cách thức mới trong nội dung giảng dạy.
Ví dụ, hoạt hình kỹ thuật số có thể cho sinh viên hình thành các khái
niệm về cách thức các electron được chia sẻ giữa các nguyên tử khi hợp chất
hóa học được hình thành.
Pedagogical Content Knowledge (PCK): Kiến thức chuyên môn và
phương pháp sư phạm.
"Giống như ý tưởng của Lee Shulman, PCK là kiến thức về phương
pháp sư phạm được áp dụng cho việc giảng dạy nội dung, chuyên môn cụ thể.
Trung tâm khái niệm PCK của Shulman là khái niệm về sự chuyển đổi
của chủ đề cho giảng dạy. Cụ thể, theo Shulman (1986), sự biến đổi này xảy
ra khi GV giải thích các vấn đề, tìm ra nhiều cách để đại diện cho nó, và điều
chỉnh và tùy biến các tài liệu hướng dẫn để thay thế các khái niệm và kiến
thức của HS.
PCK bao gồm cốt lõi của việc giảng dạy, học tập, chương trình giảng

dạy, đánh giá và báo cáo, chẳng hạn như điều kiện thúc đẩy việc học tập và
các liên kết giữa các chương trình giảng dạy, đánh giá và phương pháp sư
phạm“ (Koehler & Mishra, 2009).

17


Technological Pedagogical Content Knowledge (TPACK): Kiến thức
nội dung chuyên môn, phương pháp sư phạm và công nghệ.
Công nghệ nội dung kiến thức sư phạm đề cập đến kiến thức và sự hiểu
biết về sự tương tác giữa CK, PK và TK khi sử dụng công nghệ để giảng dạy
và học tập (Schmidt, Thompson, Koehler, Shin, và Mishra, 2009).
Nó bao gồm một sự hiểu biết về sự phức tạp của các mối quan hệ giữa
HS, GV, nội dung, phương pháp và công nghệ (Archambault & Crippen, 2009).
d. Yêu cầu hiểu biết của GV trên cơ sở tiếp cận TPACK
Con người là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành
công trong việc ứng dụng CNTT vào dạy học. CNTT chỉ là công cụ hỗ trợ
cho việc giảng dạy và học tập, làm chủ công nghệ và quyết định lựa chọn sử
dụng công nghệ như thế nào vẫn là do con người quyết định, mà cụ thể ở đây
là thầy cô giáo, người trực tiếp ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy. Do đó,
để ứng dụng CNTT thành công vào dạy học, cần có những điều kiện về con
người như có những kiến thức về công nghệ; kiến thức về phương pháp sư
phạm; và vững vàng kiến thức chuyên môn kết hợp sử dụng công nghệ vào
bài dạy. Cụ thể hơn:
Thứ nhất, Kiến thức về công nghệ
− Biết cách giải quyết các vấn đề kỷ thuật máy tính.
− Có thể học hỏi và áp dụng công nghệ dễ dàng.
− Theo kịp các công nghệ mới quan trọng.
− Thường xuyên sử dụng công nghệ.
− Biết nhiều về các công nghệ khác nhau.

− Có kỹ năng về kỹ thuật sử dụng công nghệ.
− Có đủ cơ hội để làm việc với các công nghệ khác nhau.
Thứ hai, Kiến thức phương pháp sư phạm
− Đánh giá việc học của HS trong lớp.
− Điều chỉnh việc dạy dựa trên việc người học hiểu hay không hiểu.
− Điều chỉnh cách dạy phù hợp với nhiều đối tượng người học.

18


− Đánh giá việc học của người học theo nhiều cách.
− Sử dụng nhiều cách tiếp cận dạy học khác nhau trong bối cảnh lớp học.
− Biết cách tổ chức và quản lý lớp học.
Thứ ba, Kiến thức chuyên môn kết hợp sử dụng công nghệ
− Biết chọn công nghệ giúp tăng cường phương pháp dạy học và đạt
được mục tiêu bài dạy.
− Biết chọn công nghệ giúp tăng cường việc học của người học.
− Hiểu rõ mức ảnh hưởng của công nghệ tới các phương pháp dạy mà
mình đang sử dụng.
− Hoàn thiện cách sử dụng công nghệ mà mình đang sử dụng trong lớp.
− Dùng công nghệ để hỗ trợ trình bày nội dung bài dạy sinh động, hấp
dẫn.[19]
1.2.2.2. Ba cấp độ sử dụng CNTT trong dạy học
Dựa trên mối quan hệ và tương tác giữa 3 thành phần là “GV”; “HS”;
và “ICT”, có thể đề xuất 3 cấp độ sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong dạy học. Nội dung cụ thể được thể hiện trong hình 2 dưới đây:

Hình 1.2: Các cấp độ sử dụng ICT trong dạy học

19



Ở cấp độ 1: Việc dạy học được thực hiện trong môi trường giáp mặt
(thể hiện GV và HS tương tác trực tiếp với nhau); GV sử dụng ICT để tìm
hiểu thông tin, tài nguyên, thiết kế các nội dung hỗ trợ dạy học, cũng như để
nâng cao chuyên môn và nghiệp vụ của bản thân; HS được tham gia các hoạt
động do GV tổ chức với sự hỗ trợ của ICT. Trong cấp độ này, HS không sử
dụng ICT như là một công cụ hỗ trợ việc học tập của các em. Với cấp độ này
GV thường sử dụng các phương pháp như thuyết trình, đàm thoại, trực quan,
trình bày nêu vấn đề.
Ở cấp độ 2: Ngoài những tương tác và ý nghĩa đã mô tả trong cấp độ
1, HS còn sử dụng ICT như là một công cụ hỗ trợ quá trình học tập của
mình. Với cấp độ này, GV thường sử dụng các phương pháp dạy học như
dạy học dựa trên giải quyết vấn đề, dạy học dựa trên dự án, dạy học dựa
trên sự khám phá.
Ở cấp độ 3: Cả GV và HS đều sử dụng ICT trong hoạt động dạy học
của mình. Tuy nhiên, hoạt động dạy học được thực hiện theo phương thức
không giáp mặt. Cấp độ này thể hiện các hình thức học tập trong môi trường
mạng (web based learning, e-learning, computer based learning) hay HS tự
học với phần mềm với sự định hướng của GV. Nội dung đề tài này thuộc cấp
độ 3 trong mô hình trên.[19]
1.2.2.3. Khả năng của CNTT trong dạy học
CNTT và truyền thông đã, đang và sẽ mang lại nhiều lợi ích to lớn cho
nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội với những khả năng đặc biệt và độc
đáo của nó. Dưới góc độ giáo dục, Công nghệ thông tin và truyền thông có
những khả năng nổi bật dưới đây:
a. Là kho dữ liệu: Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ lưu trữ
(từ, quang…), số lượng dữ liệu được lưu trữ ngày càng lớn, đặc biệt với sự ra
đời và phát triển của Internet. Ngày nay, dữ liệu số đã thực sự chiếm ưu thế so
với các loại dữ liệu khác. Với giáo dục, các dữ liệu đó có thể tồn tại dưới các

dạng như: bách khoa toàn thư, từ điển chuyên ngành, các cơ sở dữ liệu, hệ

20


thống website, các thư viện điện tử,…Với vai trò này, người dạy và người học
có được môi trường thông tin phong phú, hỗ trợ tích cực cho phát triển
chuyên môn của GV, hoạt động dạy học của cả thầy và trò, và phù hợp cho
những phương pháp dạy học dựa trên sự khám phá.
b. Là công cụ cho đa phương tiện: Đa phương tiện đã được nghiên
cứu và sử dụng trong dạy học từ lâu. Nó đã khẳng định được vai trò và ý
nghĩa của nó trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Với công
nghệ thông tin, có rất nhiều công cụ cho phép người dạy, người học dễ dàng
tạo ra đa phương tiện, chỉnh sửa đa phương tiện, và trình diễn đa phương tiện
hỗ trợ các hoạt động dạy học.
c. Là môi trường mô phỏng: Lý luận dạy học đã khẳng định rằng, mô
phỏng là một phương pháp không thể thiếu được trong quá trình dạy học khi
mà đối tượng nghiên cứu quá phức tạp, trừu tượng, nguy hiểm, đắt tiền hay
đơn giản là không thể trực quan được…Công nghệ thông tin cho phép mô
phỏng các đối tượng, xây dựng các thí nghiệm, thực hành ảo sử dụng trong
dạy học.
d. Là công cụ kết nối: Trong môi trường giáo dục hiện đại, việc học và
trao đổi thông tin giữa người dạy và người học, giữa người học với nhau
không bó gọn trong không gian và thời gian của lớp học mà nên được thực
hiện với phương thức “mọi lúc”, “mọi nơi”. Công nghệ thông tin có nhiều
phương thức hỗ trợ rất tốt cho tương tác này như thư điện tử, diễn đàn thảo
luận, tán ngẫu, hội thảo từ xa.
e. Là môi trường học tập trực tuyến: Với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin, ngày càng nhiều hình thức học tập được phát triển dựa
trên môi trường mạng với nền tảng sư phạm là phương pháp dạy học hợp tác,

dạy học dựa trên giải quyết vấn đề, và dạy học dựa trên sự khám phá. Với
công nghệ thông tin, có hàng loạt các dịch vụ cho phép tạo các môi trường
như vậy như groups, wiki, blog…

21


×