Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.93 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------  --------

HỒNG THỊ XN

CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH
Chuyên ngành

: Kinh tế chính trị

Mã số

: 60 31 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ THU HOÀI

Hà Nội - 2015
1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến TS. Nguyễn
Thị Thu Hoài đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình
nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể các thầy giáo, cơ giáo
trong Khoa Kinh tế chính trị, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà


Nội đã quan tâm, tham gia đóng góp ý kiến và hỗ trợ tơi trong q trình
nghiên cứu, giúp tơi có cơ sở kiến thức và phương pháp nghiên cứu để hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các cơ quan như: Ủy ban nhân dân
huyện Nghĩa Hưng, Phòng thống kê huyện Nghĩa Hưng, Phòng Lao động
Thương binh và Xã hội huyện Nghĩa Hưng, Ngân hàng Chính sách huyện
Nghĩa Hưng và các cơ quan hữu quan khác đã hỗ trợ, cung cấp tài liệu, tạo
điều kiện cho tơi có cơ sở số liệu để nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 10 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HOÀNG THỊ XUÂN

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa được sử dụng ở bất kỳ cơng trình khoa học nào.
Tơi xin cam đoan mọi thơng tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HOÀNG THỊ XUÂN

3


MỤC LỤC


4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

26

5

Ký hiệu
ADB
ASXH
BCHTW
BHYT
BHXH
BHTN
BTXH
DS- KHHGĐ
ESCAP
GDTX
GTSX
HTX
HIV/AIDS
ILO
KT-XH
KTTT
LĐ-TB& XH
LĐNT
NHCSXH
SXKD
TGXH
THCS
THPT
UBMTTQV
N

WB
XHCN

Nguyên nghĩa
Ngân hàng phát triển Châu Á
An sinh xã hội
Ban chấp hành trung ương
Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm thất nghiệp
Bảo trợ xã hội
Dân số kế hoạch hóa gia đình
Uỷ ban Kinh tế - Xã hội châu Á và Thái Bình Dương
Giáo dục thường xuyên
Giá trị sản xuất
Hợp tác xã
Hội chứng suy giảm miễn dịch
Tổ chức lao động quốc tế
Kinh tế xã hội
Kinh tế thị trường
Lao động thương binh và xã hội
Lao động nơng thơn
Ngân hàng chính sách xã hội
Sản xuất kinh doanh
Trợ giúp xã hội
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Ngân hàng Thế giới
Xã hội Chủ nghĩa



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU

1
2

Số
hiệu
1.1
3.1

3

3.2

4

3.3

5

3.4

6

3.5

7


3.6

8

3.7

9

3.8

STT

6

Tên bảng

Trang

Sơ đồ hệ thống ASXH ở Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế đến năm 2014
GTSX và cơ cấu công nghiệp phân theo
thành phần kinh tế
Dân số phân theo giới tính và khu vực
Lao động đang làm việc trong nền kinh tế
quốc dân và cơ cấu lao động
Tình hình cho hộ nghèo vay vốn huyện
Nghĩa Hưng giai đoạn 2011- 2014
Tổng hợp số liệu tham gia bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội cho hộ nghèo, hộ cận
nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng

Tổng hợp số liệu trợ cấp xã hội trên địa
bàn huyện Nghĩa Hưng giai đoạn 20112014
Nguồn vốn đầu tư cho các xã nghèo của
huyện Nghĩa Hưng giai đoạn 2011- 2014

21
51
52
54
54
57
62+63
66
71


LỜI NĨI ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Quyền được hưởng an sinh xã hội (ASXH) là một trong những quyền
cơ bản của con người. Tuyên ngôn Nhân quyền của Liên Hợp Quốc đã ghi
nhận: Tất cả con người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng
ASXH. Đảm bảo ASXH ln là địi hỏi tất yếu, khách quan để nhà nước thực
hiện cả chức năng giai cấp và chức năng xã hội của mình.
Hệ thống ASXH là một bộ phận trong mơ hình phát triển xã hội để thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hoạt động
của hệ thống ASXH là nơi thể hiện rõ nhất tính “định hướng xã hội chủ
nghĩa” của nền kinh tế thị trường, trong đó, con người ln có được, bao gồm
cả cảm nhận được một cuộc sống n ổn và an tồn, có khả năng phịng ngừa

những cú sốc và có những “chiếc phao cứu sinh” khi gặp phải những biến cố
rủi ro bất thường.
Từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ
chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động
lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị xã hội. Diện thụ hưởng chính
sách ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên. Nguồn lực đầu tư phát
triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn. Nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, nhất là trong giảm nghèo, tạo việc làm, giáo dục đào tạo, y tế, trợ
giúp người có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần
của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện và đã được quốc tế
ghi nhận và đánh giá cao.
Mặt khác, từ khi nước ta chuyển sang kinh tế thị trường thì dù muốn
hay không, tự giác hay tự phát đều phải tuân theo các quy luật kinh tế thị
trường, trong đó có vấn đề an sinh xã hội. Tính chất xã hội và tính chất cạnh
7


tranh của kinh tế thị trường tự nó đặt ra những vấn đề về xã hội và an sinh xã
hội trong q trình phát triển kinh tế. Vì vậy, chính sách xã hội và an sinh xã
hội không phải là sự ban ơn của nhà nước đối với dân, mà trước hết là xuất
phát từ chính nhu cầu phát triển kinh tế. Đó là tính chất phổ biến của vấn đề
an sinh xã hội mà ngay chủ nghĩa tư bản muốn tồn tại và phát triển cũng phải
tuân theo. Tính chất phổ biến này càng được coi trọng với ý nghĩa là mục đích
tự thân của định hướng xã hội chủ nghĩa. Nước ta chuyển sang kinh tế thị
trường với điểm xuất phát từ thể chế kinh tế tập trung, bao cấp trong một thời
gian, nên nhận thức về an sinh xã hội trong kinh tế thị trường chưa đầy đủ về
tính chất phổ biến cũng như tính chất đặc thù của chính sách an sinh xã hội ở
nước ta. Trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế thị trường cần phải coi trọng
tính chất đặc thù của chính sách an sinh xã hội, nhờ đó phát hiện nhu cầu an
sinh xã hội cùng với nguồn lực đáp ứng nhu cầu ấy.

Tuy nhiên trên thực tế, hệ thống chính sách ASXH của nước ta hiện
còn phân tán, chồng chéo, hiệu quả chưa cao, tạo việc làm và giảm nghèo
chưa bền vững. Tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao; mức trợ cấp xã hội còn
thấp; giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; công tác bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng
sâu vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế; tỷ lệ trẻ em suy dinh
dưỡng còn cao và giảm chậm; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
y tế còn thấp; đời sống của một số bộ phận người nghèo, đồng bào dân tộc
thiểu số chưa bảo đảm được mức tối thiểu và có sự chênh lệch giữa miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước. Những hạn
chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thiếu thống nhất trong nhận
thức về nội dung, vai trị và vị trí của ASXH trong mơ hình phát triển xã hội
nên hệ thống ASXH chưa theo kịp sự phát triển kinh tế, nguồn lực thực hiện
bảo đảm ASXH còn hạn chế, chủ yếu dựa vào Nhà nước, chưa khuyến khích

8


người dân và các đối tác xã hội tích cực chủ động tham gia.
Nghĩa Hưng là một huyện ở phía Tây Nam tỉnh Nam Định với diện
tích: 250,47 km², dân số: 202.281 người (năm 2007), 48,9% theo đạo Thiên
Chúa. Huyện có 25 đơn vị hành chính bao gồm 22 xã và 3 thị trấn. Nghĩa
Hưng nằm trong vùng bờ biển thuộc vùng Nam đồng bằng sông Hồng, là một
huyện thuần nhất đồng bằng ven biển, Nghĩa Hưng thuận lợi cho việc phát
triển kinh tế nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên nền nơng nghiệp vẫn mang tính
truyền thống, phụ thuộc vào thời tiết, hơn nữa Nghĩa Hưng lại có bờ biển dài
nên mỗi khi có thiên tai bão lụt thì cuộc sống của người dân bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, một số hộ lâm vào tình cảnh đói nghèo. Trong những năm vừa
qua, hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng đều giảm dần qua hàng năm
(2011: 13,39%; 2014: 10,37%). Có được kết quả này phần lớn là nhờ các chủ

trương chính sách về ASXH của chính phủ, của các cấp các ngành và sự phấn
đấu nỗ lực vươn lên của các hộ nghèo tại địa phương. Tuy nhiên, việc thực
hiện ASXH tại địa phương vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập.
Từ thực trạng của chính sách ASXH, đặc biệt là ảnh hưởng của chính
sách ASXH tới nghèo đói ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt
khó khăn, tác giả chọn đề tài “Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo
trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp.
Câu hỏi nghiên cứu của đề tài là: Huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định
cần làm gì và làm như thế nào để thực hiện tốt chính sách ASXH đối với hộ
nghèo trên địa bàn huyện?
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách ASXH đối với hộ nghèo ở
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trong thời gian qua, từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách ASXH đối với hộ nghèo ở huyện
9


Nghĩa Hưng trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về ASXH - chính sách ASXH đối với
hộ nghèo.
- Đánh giá rà sốt chính sách ASXH hiện hành trên khía cạnh đảm bảo
tiếp cận, tham gia, thụ hưởng một cách bình đẳng đối với hộ nghèo trên địa
bàn huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định giai đoạn 2012 - 2014
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách ASXH đối
với hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Chính sách An sinh xã hội đối với hộ nghèo.
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Không gian: Địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Thời gian: 2011- 2014. Sở dĩ luận văn chọn mốc thời gian này để thấy
được sự thay đổi về công tác ASXH của huyện 2 năm trước và sau khi tỉnh
Nam Định thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ Năm BCHTW Đảng khóa
XI – một số vấn đề về chính sách ASXH giai đoạn 2012- 2020. Đồng thời
cũng là giai đoạn 2 năm trước và sau khi huyện Nghĩa Hưng hồn thành cơng
tác dồn điền đổi thửa.
4. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ và hoàn thiện hơn các vấn đề lý luận về hệ thống ASXH và
chính sách ASXH đối với hộ nghèo.
- Đánh giá thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện chính sách ASXH
đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng tỉnh Nam Định.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hồn thiện chính sách ASXH đối với
hộ nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng trong thời gian tới.
10


5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, danh mục các chữ
viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn
về chính sách ASXH đối với hộ nghèo
Chương 2 : Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Tình hình thực hiện chính sách ASXH đối với hộ nghèo
trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định
Chương 4: Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách ASXH

tại huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định trong thời gian tới

11


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI ĐỐI VỚI HỘ
NGHÈO
1.1.

Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, vấn đề an sinh xã hội nói chung và ASXH
đối với hộ nghèo nói riêng được nhiều học giả quan tâm, nghiên cứu. Đã có
nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về ASXH đối với hộ nghèo và những
vấn đề có liên quan đến chính sách ASXH. Có thể kể đến một số cơng trình,
bài viết của các tác giả đã được cơng bố như;
Tác giả Mai Ngọc Cường trong cuốn “Chính sách xã hội đối với di dân
nông thôn - thành thị ở Việt Nam hiện nay”, tác giả đã trình bày một số vấn
đề chung về chính sách xã hội đối với di dân nông thôn - thành thị hiện nay,
phân tích thực trạng chính sách xã hội với di dân nơng thơn - thành thị,
phương hướng và giải pháp hồn thiện chính sách di dân nơng thơn - thành thị
trong thời gian tới.
Tác giả Mai Ngọc Cường trong cuốn “ Hồn thiện hệ thống chính sách
an sinh xã hội ở nước ta giai đoạn 2006-2015” cũng đã đánh giá thực trạng
của hệ thống ASXH và việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam trong
thời gian qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, những mặt mạnh, mặt yếu, và
nguyên nhân tồn tại của hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay;
phân tích xu hướng đổi mới hệ thống ASXH và hệ thống chính sách ASXH

của thế giới và những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về việc xây dựng
hệ thống ASXH và chính sách ASXH trong những năm tới để làm rõ các yêu
cầu đặt ra đối với các vấn đề ASXH ở Việt Nam và đề xuất các giải pháp xây

12


dựng hệ thống tổng thể Quốc gia về ASXH ở Việt Nam trong giai đoạn 20062015; Đề xuất với các cơ quan quản lý Nhà nước lựa chọn các mục tiêu ưu
tiên về chương trình ASXH ứng dụng vào trong công tác đổi mới hệ thống
ASXH và hoạch định, thực thi hệ thống chính sách ASXH ở nước ta.
Tác giả Mai Ngọc Cường trong đề tài “Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” cũng đã cung cấp cái nhìn tổng
quan về thực trạng hệ thống ASXH Việt Nam hiện nay trên khía cạnh các
chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, ưu đãi xã hội, trợ giúp xã hội.
Tác giả đã đánh giá chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên hiện hành và đưa
ra một số phương hướng giải pháp thực hiện chính sách trong tổng thể hệ
thống ASXH trong thời gian tới.
Tác giả Bùi Văn Hồng trong đề tài “Nghiên cứu mở rộng đối tượng
tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập”
đã làm rõ khái niệm và đặc điểm chủ yếu của lao động tự tạo việc làm, thực
trạng lao động tự tạo việc làm ở nước ta trong thời gian qua và đề xuất loại
bảo BHXH thích hợp, các chế độ trợ cấp BHXH, cơ chế đóng và hưởng các
loại BHXH đối với lao động tự tạo việc làm.
Trong cuốn “Thiết kế và triển khai các mạng lưới an sinh hiệu quả về
bảo trợ xã hội và thúc đẩy xã hội” của Ngân hàng Thế giới, Nhà xuất bản Văn
hóa thơng tin năm 2008; Có nhiều bài nghiên cứu về kinh nghiệm của các
nước trong việc xây dựng chính sách ASXH. Các tác giả đã cung cấp những
cơ sở lý luận và nhiều bài học kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng
chính sách ASXH.
Tiến sĩ Mạc Thế Anh trong đề tài “An sinh xã hội đối với nông dân

trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” đã nhìn nhận nhiều vấn đề về
ASXH ở Việt Nam được thực hiện trong điều kiện nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nhấn
13


mạnh vai trị của BHXH trong chính sách ASXH.
Luận văn thạc sĩ “Ảnh hưởng của hệ thống an sinh xã hội tới vấn đề
nghèo đói của hộ nơng dân huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái” của Mai Ngọc
Anh đã hệ thống hóa các vấn đề lý luận về hệ thống ASXH, chính sách
ASXH tới vấn đề nghèo đói. Tác giả đã đánh giá thực trạng thực hiện chính
sách ASXH cũng như kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện tốt chính
sách ASXH để giải quyết vấn đề nghèo đói của hộ nơng dân huyện Văn
Chấn- tỉnh n Bái.
Tác giả Bùi Đình Thanh trong cơng trình "Những quan điểm lý luận,
phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu chính sách xã hội" (Nxb Khoa
học và xã hội, Hà Nội, 1993) đã phân tích một cách sâu sắc khái niệm "chính
sách xã hội" và trình bày những vấn đề lý luận chung về chính sách xã hội
như: Quan điểm, phương pháp luận nghiên cứu chính sách xã hội; tính nhân
văn và tính cách mạng trong hoạch định về chính sách xã hội và cơ chế quản
lý xã hội; quan hệ giữa chính sách xã hội và dân số, kinh tế cùng các tầng lớp
xã hội như phụ nữ, thanh niên...
Trong cơng trình "Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện
nay" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993), tác giả Hoàng Chi Bảo đã đề
cập đến các vấn đề: Lý luận chung về chính sách xã hội; cấu trúc chính sách
xã hội, quan hệ của chính sách xã hội với các chính sách khác, quan hệ của
chính sách xã hội với các tầng lớp, giai cấp xã hội; đổi mới chính sách xã hội
trong tình hình hiện nay,...
Các báo cáo, cơng trình trên đều có những đề cập khác nhau về ASXH
cũng như một số chính sách về ASXH đối với thế giới.

Hầu hết các cơng trình nghiên cứu đã đề cập và phân tích rõ cơ sở lý
luận về khái niệm, vai trò của ASXH. Mặc dù có những cách tiếp cận khác
14


nhau, song tựu chung lại, ASXH được hiểu theo cả hai nghĩa: Nghĩa rộng ,
ASXH là toàn bộ các biện pháp của Nhà nước, cộng đồng, cá nhận nhằm đảm
bảo cuộc sống cho người dân trong toàn xã hội; theo nghĩa hẹp, ASXH hướng
tới sự đảm bảo tối thiểu cho mục tiêu mưu sinh của một bộ phận dân cư thuộc
nhóm yếu thế, rủi ro hay chịu thiệt thịi trong xã hội. Về vai trò của ASXH, đa
số các tác giả đều thống nhấy ở điểm chung ASXH đảm bảo sự phát triển bền
vững cho xã hội; ổn định chính trị- xã hội; góp phần vào xây dựng nguồn
nhân lực con người; thể hiện tính nhân văn cao cả,…
Các cơng trình đã cho tác giả có cái nhìn tồn diện về cấu trúc, mơ hình
của ASXH, hướng nghiên cứu ASXH dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau, là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội tạo nên sự ổn định,
công bằng của đất nước. Mỗi tác giả đều có cách lý giải, lập luận khác nhau,
phù hợp với đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu tạo nên bức tranh hồn chỉnh về
ASXH và chính sách ASXH đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội trong
thời kỳ đổi mới, tồn cầu hóa và chủ động hội nhập quốc tế.
Các cơng trình nghiên cứu góp phần đưa ra những luận cứ, luận chứng
thuyết phục về thực trạng ASXH đối với người dân ( nhất là những đối tượng
yếu thế trong xã hội) hiện nay. Các cơng trình nghiên cứu từng trụ cột của
chính sách ASXH, giải quyết việc làm, y tế, giáo dục… là tài liệu quý giá để
luận văn có thể tiếp thu, kế thừa và phát triển trong quá trình nghiên cứu của
tác giả.
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, các cơng trình khoa học đã phân tích
các nguyên nhân ( khách quan, chủ quan, chủ yếu, thứ yếu) tác động đến quá
trình thực hiện, triển khai ASXH trong thời gian qua. Các nhà khoa học đều
thống nhất ở một số nguyên nhân ảnh hưởng ddeend việc thực hiện ASXH

đối với người dân đó là: Một mặt, chưa đủ mạnh. Mặt khác, trong nghiên cứu
về ASXH, chính sách đảm bảo ASXH cịn chưa kịp thời tổng kết, rút kinh
15


nghiệm và nhân rộng mơ hình tiên tiến trong đảm bảo ASXH trên địa bàn
huyện, thị xã.
Dưới nhiều góc độ, lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, các nhà khoa học
đã có những kiến giải, dự đốn, định hướng khác nhau về ASXH và đảm bảo
ASXH. Đồng thời, trong các công trình nghiên cứu đề xuất những phương
hướng và giải pháp; khuyến nghị cho Nhà nước và chính quyền địa phương,
các cấp, các ngành nhằm thúc đẩy, nâng cao hiệu quả thực hiện, đảm bảo
ASXH trong thời gian tới.
Mặc dù đạt được những kết quả đáng thuyết phục nhưng trên thực tế,
vẫn còn những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu và cho đến nay cũng
chưa có đề tài nào nghiên cứu về ảnh hưởng của chính sách ASXH đối với hộ
nghèo trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Việc tiến hành nghiên
cứu đề tài “Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo trên địa bàn huyện
Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định” tạo điều kiện cho chúng ta có thể nhận diện
bức tranh tồn cảnh về ảnh hưởng của chính sách ASXH đối với hộ nghèo
trên địa bàn huyện Nghĩa Hưng, từ đó, giúp cho nhà nước, cho các cấp chính
quyền có căn cứ xây dựng, thực hiện các chế độ, chính sách phù hợp hơn
nhằm đem lại hiệu quả thiết thực nhất cho hộ nghèo” góp phần cải thiện đời
sống, xóa đói giảm nghèo, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
1.2. Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo
1.2.1. Khái niệm về an sinh xã hội
An sinh xã hội là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trên thế
giới cũng như ở Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên, khái niệm,
bản chất và nội dung của nó vẫn cịn nhiều quan điểm nhận thức khác nhau.
Theo các tài liệu hiện có thì ASXH theo nghĩa rộng là sự đảm bảo thực hiện

các quyền của con người được sống trong hịa bình, được tự do làm ăn, cư trú,
di chuyển, phát biểu chính kiến trong khn khổ luật pháp” được bảo vệ và
16


bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có việc làm, được có nhà ở,
được đảm bảo thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị
rủi ro, tai nạn tuổi già… Theo nghĩa hẹp, ASXH được hiểu là sự bảo vệ của
xã hội đối với các thành viên của mình thơng qua một loạt biện pháp cơng
cộng nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị
giảm thu nhập, gây ra bởi thiên tai, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất
nghiệp, tàn tật, tuổi già, đồng thời, bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp y tế cho
các gia đình có con nhỏ, cho những người già cô đơn, trẻ mồ côi ..v..v..
Theo điều 22, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, của Liên hiệp quốc thì
ASXH là một nhân quyền và được hiểu là: “Mọi người, với tư cách thành
viên của xã hội, có quyền hưởng thụ ASXH; quyền này dựa trên việc thực thi
các quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa cốt yếu về nhân phẩm và phát triển tự
do của mỗi cá nhân, thông qua nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế, tùy theo tổ
chức và nguồn lực của mỗi nước”.
Theo L. Berevidge, nhà kinh tế và xã hội học Anh (1879-1963) thì
ASXH là việc đảm bảo về việc làm khi người ta còn sức làm việc và đảm bảo
một lợi tức khi người ta khơng cịn sức làm việc nữa. Những người theo
trường phái này quan niệm, hệ thống ASXH hoạt động dựa trên ba nguyên
tắc: Bao phủ toàn diện; mức chi trả tương đương và quản lý tập trung, thống
nhất.
Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ: ASXH được hiểu là sự đảm bảo của
xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập
cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến
tột độ.
Trong Hiến chương Đại Tây Dương: ASXH được hiểu là sự đảm bảo

thực hiện quyền con người trong hịa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di
chuyển, phát triển chính kiến trong khn khổ luật pháp, được bảo vệ và bình
17


đẳng trước pháp luật; được học tập, làm việc và nghỉ ngơi, có nhà ở; được
chăm sóc y tế và đảm bảo thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu sinh
sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, tuổi già,…
Theo ngân hàng thế giới (WB): ASXH được xây dựng dựa trên mơ
hình quản lý rủi ro xã hội. Triết lý của mơ hình này là mỗi cá nhân, mọi gia
đình, mọi cộng đồng đều phải chịu những rủi ro nhất định do thiên tai hay
những biến động trong đời sống kinh tế, xã hội gây ra. Chính những rủi ro
này là nguyên nhân gây ra nghèo khổ. Người nghèo là những người chịu
nhiều rủi ro nhất so với các thành phần xã hội khác và ít có điều kiện tiếp cận
các công cụ và phương tiện cho phép họ đối mặt với rủi ro. Vì vậy, cần xây
dựng cơ chế ASXH dành cho người nghèo để hạn chế tình trạng bấp bênh của
họ, tạo cho họ các phương tiện để thoát nghèo. Theo quan điểm mới dựa trên
khái niệm quản lý rủi ro, hệ thống ASXH được hiểu là “tồn bộ các chính
sách Nhà nước nhằm giúp đỡ các cá nhân, các gia đình và các nhóm xã hội
quản lý các rủi ro của mình và cung cấp hỗ trợ cho những người nghèo khổ
nhất”.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: ASXH là sự bảo vệ của xã
hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng,
nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị ngừng hoặc giảm
thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương
tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các
gia đình đơng con”.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) quan niệm: “ASXH là một hệ
thống chính sách cơng nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động
đối với các hộ gia đình và cá nhân”.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “An sinh xã hội” thường được các nhà quản lý,
các nhà nghiên cứu và những người làm công tác xã hội nhắc đến nhiều trong
18


các cuộc hội thảo về chính sách xã hội, trên hệ thống thông tin đại chúng,
cũng như trong các tài liệu, văn bản dịch. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều quan
điểm khác nhau về ASXH. Có quan điểm thì coi ASXH như là “bảo đảm xã
hội”, “bảo trợ xã hội”, “an toàn xã hội”, hoặc là “bảo hiểm xã hội” nhưng có
quan điểm khác lại cho rằng “An sinh xã hội” bao trùm các vấn đề nêu trên.
Theo GS Hoàng Chí Bảo cho rằng: ASXH sự an tồn của cuộc sống
con người, từ cá nhân đến cộng đồng, tạo tiền đề và động lực cho phát triển
con người và xã hội. ASXH là những đảm bảo cho con người tồn tại (sống)
như một con người và phát triển các sức mạnh bản chất người, tức là nhân
tính trong hoạt động, trong đời sống hiện thực của nó như một chủ thể mang
nhân cách.
Theo PGS.TS Nguyễn Hải Hữu thì “ASXH là một hệ thống các cơ chế,
chính sách, biện pháp của Nhà nước và xã hội nhằm trợ giúp mọi thành viên
trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về kinh tế- xã hội làm cho họ
có nguy cơ suy giảm nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề
nghiệp, già cả khơng cịn sức lao động hoặc vì những nguyên nhân khách
quan rơi vào hoàn cảnh nghèo khổ và cung cấp các dịch vụ sức khỏe cho cộng
đồng, thông qua hệ thống mạng lưới về bảo hiểm xã hội, BHYT và trợ giúp
xã hội”.
Theo GS.TS Mai Ngọc Cường, để thấy hết được bản chất, chúng ta
phải tiếp cận ASXH theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của khái niệm này. Theo
quan niệm của tác giả, hiểu theo nghĩa rộng: ASXH là sự bảo đảm thực hiện
các quyền để con người được an bình, bảo đảm an ninh, an toàn trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp: ASXH là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện sống thiết
yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng khi họ bị giảm, hoặc mất thu

nhập do họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho
những người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế,
người bị ảnh hưởng bởi thiên tai dịch họa.
19


“Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011- 2020” ghi nhận: “ An sinh
xã hội là sự bảo đảm mà xã hội cung cấp cho mọi thành viên trong xã hội
thông qua việc thực thi hệ thống các cơ chế, chính sách và biện pháp can thiệp
trước các nguy cơ, rủi ro có thể dẫn đến suy giảm hoặc mất đi nguồn sinh kế”.
Theo “Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam” khái niệm về ASXH là:
“Sự bảo vệ của xã hội đối với công dân thông qua biện pháp cơng cộng nhằm
giúp họ khắc phục những khó khăn về kinh tế và xã hội; đồng thời bảo đảm
chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đơng con…”.
Như vậy, từ các quan niệm trên, có thể hiểu một cách khái quát rằng:
An sinh xã hội là một hệ thống các chính sách và giải pháp nhằm mục đích
vừa bảo vệ mức sống tối thiểu của người dân trước những rủi ro và tác động
bất thường về kinh tế, xã hội và môi trường; vừa không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
1.2.2. Chính sách an sinh xã hội
Khác với chính sách xã hội, chính sách ASXH là hệ thống quan điểm,
chủ trương, phương hướng và biện pháp đảm bảo thu nhập và một số điều
kiện thiết yếu khác cho cá nhân, gia đình và cộng đồng trước những biến
động về kinh tế, xã hội và tự nhiên làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm, bị ốm đau, bệnh tật hoặc tử vong; cho những người
già cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người yếu thế, những nạn
nhân chiến tranh, những người bị thiên tai dịch họa.
Theo quan điểm phổ biến của các tổ chức quốc tế, thì một hệ thống an
sinh xã hội phải có tối thiểu 3 hợp phần cơ bản tương ứng với 3 chức năng
chính của an sinh xã hội, gồm:

Thứ nhất, những chính sách, chương trình phịng ngừa rủi ro. Đây là
tầng trên cùng của hệ thống an sinh xã hội. Chức năng của những chính sách
này là hướng tới can thiệp và bao phủ toàn bộ dân cư; giúp cho mọi tầng lớp
20


dân cư có được việc làm, thu nhập, có được năng lực vật chất cần thiết để đối
phó tốt nhất với rủi ro. Trụ cột cơ bản của tầng này là những chính sách,
chương trình về thị trường lao động tích cực như đào tạo nghề; hỗ trợ người
tìm việc, tự tạo việc làm hoặc đào tạo nâng cao kỹ năng cho người lao động.
Thứ hai, những chính sách, chương trình giảm thiểu rủi ro. Đây là tầng
thứ hai, gồm các chiến lược giảm thiểu thiệt hại do rủi ro của hệ thống an sinh
xã hội, có vai trị đặc biệt quan trọng. Nội dung quan trọng nhất trong tầng
này là các hình thức bảo hiểm, dựa trên nguyên tắc đóng – hưởng như: bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, v.v… Nhóm chính sách này
rất nhạy cảm, nếu phù hợp sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực của người dân,
tiết kiệm nguồn lực cho Nhà nước, tăng độ bao phủ hệ thống. Ngược lại, nếu
chính sách khơng phù hợp, người dân sẽ khơng tham gia hoặc chính sách sẽ bị
lạm dụng.
Thứ ba, những chính sách, chương trình khắc phục rủi ro, bao gồm các
chính sách, chương trình về cứu trợ và trợ giúp xã hội.Đây là tầng cuối cùng
của hệ thống an sinh xã hội với chức năng bảo đảm an toàn cho các thành
viên xã hội khi họ gặp phải rủi ro mà bản thân không tự khắc phục được như:
thất nghiệp, người thiếu việc làm, người có thu nhập thấp, người già, người
tàn tật, trẻ em mồ cơi, người nghèo…
1.2.3. Chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo
1.2.3.1. Hộ nghèo và đặc điểm của hộ nghèo
* Hộ nghèo
Tại hội nghị bàn về xố đói giảm nghèo do ESCAP tổ chức tại Băng
Cốc Thái Lan tháng 9.1993 đã đưa ra khái niệm về nghèo đói như sau: Đói

nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn

21


những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình
độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của các địa phương. Theo
định nghĩa này thì mức độ nghèo đói ở các nước khác nhau là khác nhau.
Theo định nghĩa của WB: Nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều
phương diện: thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu tài sản
để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước
những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới
những người có khả năng giải quyết, cảm giác bị xỉ nhục, không được người
khác tơn trọng.
Ở nước ta căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội và mức thu nhập của nhân
dân trong những năm qua thì khái niệm đói nghèo được xác định như sau:
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả
mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức sống
thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Một cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới
ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc
điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát
triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Như vậy: Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn
một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
* Đặc điểm hộ nghèo
Thứ nhất, hộ nghèo chủ yếu là các hộ nơng dân với trình độ học vấn
thấp và khả năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chun mơn bị hạn
chế, có ít đất canh tác hoặc khơng có đất nhưng có rất ít cơ hội có thể tạo ra

thu nhập ổn định từ các hoạt động phi nông nghiệp. Những người sống dưới
ngưỡng nghèo là thành viên của những hộ có chủ hộ là nông dân tự do.
22


Thứ hai, hộ nghèo là những hộ khơng có khả năng có được một dạng
thu nhập ổn định nào đó từ công ăn việc làm hay từ các khoản chuyển nhượng
của phúc lợi xã hội. Tại nhiều quốc gia, nhiều vùng, chỉ tiêu “có một cơng
việc tốt” hay “có lương hưu” là những tiêu chuẩn để xếp các hộ vào nhóm
sung túc hơn mặc dù thu nhập từ những nguồn này thường không cao song ý
nghĩa chủ yếu của chúng là sự ổn định và đảm bảo.
Thứ ba, hộ nghèo là những hộ có trình độ học vấn thấp. Do vậy, bản
thân các hộ nghèo đều hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khóa quan
trọng để thốt nghèo. Ở thành thị, các thành viên trong hộ cần phải có trình độ
cao hơn mức phổ thơng cơ sở thì mới có cơ hội kiếm được một cơng việc ổn
định; ở nông thôn, các hộ thường gắn tầm quan trọng của học hành với khả
năng nhận biết những cơ hội mới và nắm bắt được các kỹ thuật mới, khả năng
biết đọc, biết viết, khả năng về tính tốn, ngơn ngữ, kỹ thuật là chỉ tiêu được
đánh giá cao. Việc tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, quan hệ với những người
ở ngồi cộng đồng, tiếp cận với thơng tin và các phương tiện thông tin đại
chúng đã trở thành những lĩnh vực ưu tiên quan trọng đối với các hộ nghèo.
Thứ tư, các hộ có nhiều trẻ em và phụ nữ sống độc thân thường được
các hộ khác coi là nghèo. Các hộ này khơng chỉ có ít lao động hơn so với số
miệng ăn trong gia đình mà cịn phải trả các chi phí giáo dục lơn hơn cũng
như hay phải chịu thêm các chi phí khám chữa bệnh gây mất ổn định cho kinh
tế gia đình. Do vậy, khi chi phí cho y tế và giáo dục tăng lên thì các hộ này
thường cho con thơi học là điều hiển nhiên. Ngoài ra, những hộ bị mất đi lao
động trưởng thành do bị chết, bỏ gia đình đi hoặc tách ra khỏi hộ thường được
cộng đồng xếp vào nhóm hộ nghèo nhất, đây thường là hộ do phụ nữ làm chủ
hộ. Theo thống kê, phụ nữ sống độc thân phần lớn là nghèo hơn so với nam

giới sống độc thân.
Thứ năm, các hộ nghèo thường là nạn nhân của tình trạng nợ nần. Rất
23


nhiều hộ nghèo rơi vào tình trạng nợ nần do phải đi vay để trang trải các
khoản chi tiêu khẩn cấp như chi phí cho y tế hoặc đi vay để đầu tư vào một vụ
kinh doanh bị thất bại. Nợ nần gây ra áp lực kinh tế vào tâm lý nặng nề cho
các thành viên trong gia đình.
Cuối cùng, hộ nghèo là các hộ rất dễ bị tổn thương. Nguy cơ dễ bị tổn
thương bởi những khó khăn theo thời vụ, bởi những đột biến xảy ra với hộ
gia đình và những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng đồng là một khía cạnh
quan trọng của nghèo đói. Những hộ nghèo ít vốn hoặc ít đất đai (hoặc cả
hai) và những hộ chỉ có khả năng trang trải được các chi tiêu lương thực và
phi lương thực thiết yếu khác đều rất dễ bị tổn thương trước mọi biến cố
khiến họ hoặc phải bỏ thêm chi phí, hoặc phải giảm thu nhập. Tuy vậy, tình
trạng khơng an tồn khơng chỉ đơn thuần là vấn đề kinh tế. Do thiếu thông
tin về các quy hoạch phát triển đô thị và giải phóng mặt bằng nên nhiều hộ
khơng thể biết được thời gian họ còn được phép sống ở khu vực cư trú hiện
tại, các tệ nạn như nghiện hút, trộm cắp làm cho các thành viên trong hộ cảm
thấy không an tồn…
1.2.3.2. Vai trị của chính sách an sinh xã hội đối với hộ nghèo
An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên
trong cộng đồng khơng may lâm vào hồn cảnh yếu thế thông qua các biện
pháp phân phối lại tiền bạc và dịch vụ xã hội. Nội dung của ASXH thường
được thể hiện ở các chính sách kinh tế - xã hội như bảo hiểm xã hội, cứu trợ
xã hội, ưu đãi xã hội, xố đói giảm nghèo, các quỹ phịng xa… Cho tới nay,
tất cả các quốc gia trên thế giới cũng như Liên hiệp quốc đều thừa nhận được
hưởng dịch vụ ASXH là một trong những quyền của con người trong mọi thời
đại và mọi chế độ xã hội. Với mục tiêu tạo ra một lưới an toàn cho mọi thành

viên trong cộng đồng xã hội khi bất kỳ một cá nhân nào không may gặp rủi ro
hoặc lâm vào tình cảnh yếu thế, góp phần xây dựng một xã hội đồng thuận,
24


công bằng và phát triển bền vững, ASXH ngày càng chứng minh được vai trò
quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới.
Thứ nhất, ASXH vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống an sinh xã hội sẽ góp phần thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập khi người lao động bị ốm đau, mất khả năng
lao động, mất việc làm, hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập
kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về
vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình
hoạt động bình thường.
Với vai trị đó, ASXH góp phần che chắn, bảo vệ cho mỗi thành viên
cộng đồng, là niềm an ủi không thể thiếu đối với các nạn nhân chiến tranh,
khủng bố… Đồng thời, ASXH có ảnh hưởng rất lớn tới nền kinh tế của mỗi
quốc gia, đặc biệt khi quy mô và diện mạo của ASXH ngày càng được mở
rộng như giúp người lao động có sức khỏe tốt để làm việc, giúp họ yên tâm
công tác và học tập, từ đó tác động lớn tới việc nâng cao năng suất lao động
cá nhân và năng suất lao động xã hội; góp phần thực hành tiết kiệm, tạo lập
quỹ đầu tư cho các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước…
Thứ hai, ASXH góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội. Trong xu thế
quốc tế hố tồn cầu, hố sâu ngăn cách giàu nghèo đã và đang có xu hướng
gia tăng giữa các vùng miền, các quốc gia và các châu lục. Ở Việt Nam, sự
phát triển nhanh chóng về kinh tế giúp cải thiện tiêu chuẩn sống của hàng
triệu người và góp phần vào những thành tựu ổn định, dần đạt tới các mục
tiêu thiên niên kỷ, nhưng sự bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo trong xã
hội cũng ngày càng rộng hơn. Hệ thống ASXH được đơng đảo người dân trên
thế giới, trong đó có Việt Nam rất quan tâm bởi ASXH là một trong những

chính sách quan trọng làm giảm sự tách biệt xã hội về kinh tế đối với người
dân. ASXH là công cụ để cải thiện điều kiện sống và làm việc của các tầng
25


×