LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ này là một phần quan trọng trong quá trình đào tạo cao
học. Với tất cả tình cảm chân thành tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô
khoa Quản lí giáo dục, phòng sau đại học trường ĐHSP Hà Nội đã quan tâm
và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được bày tỏ lời tri ân sâu sắc của tôi xin dành cho người hướng
dẫn của tôi, PGS. TS Nguyễn Yến Phương, người đã luôn tận tình chỉ dẫn,
giúp đỡ, động viên và chia sẻ với tôi những kinh nghiệm quý báu trong quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý nhà MN Tân Thịnh B,
MN Unicef, MN Dân Chủ, MN Phương Lâm, MN Yên Mông các thầy cô đã
nhiệt tình hợp tác và đóng góp những ý kiến quý báu cho bản thân tôi trong
quá trình thực hiện nghiên cứu thực trạng tại trường.
Tôi vui mừng chia sẻ thành quả này cùng với lời cảm ơn đến tất cả các
thành viên lớp Quản lí giáo dục K24, những người đã cùng tôi trải qua 2 năm
học tập và nghiên cứu tại trường.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, động viên tôi trong quá
trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Với những điểm mới, hy vọng luận văn này sẽ đóng góp tích cực vào
quản lý hoạt động sau đại học ở các nhà trường sư phạm, tuy nhiên luận văn
không thể tránh khỏi sự thiếu sót. Tôi nghĩ rằng để có một luận văn hoàn
chỉnh hơn, bản thân tôi còn phải nghiên cứu rất nhiều và cần có sự đóng góp ý
kiến và giúp đỡ của Hội đồng khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn và kính chúc tốt đẹp!
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2015
Tác giả
Nguyễn Thị Thực
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBQL
MN
Cán bộ quản lí
Mầm non
GD
GD&ĐT
GV
NT
NTTH
HĐTH
QLGD
QLNT
Giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Giáo viên
Nhà trường
Nghệ thuật tạo hình
Hoạt động tạo hình
Quản lý giáo dục
Quản lý nhà trường
MỤC LỤC
.............................................................................................................................79
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Thống kê số lượng, trình độ giáo viên mầm non của 05 trường
tham gia khảo sát...............................................................................................49
Bảng 2.2. Thống kê số lượng, trình độ hiệu trưởng các trường mầm non được
khảo sát...............................................................................................................49
Bảng 2.3. Thống kê số lượng, tỷ lệ chuyên cần, sức khỏe của trẻ ở các trường
mầm non tham gia khảo sát...............................................................................50
Bảng 2.3. Tình hình thực hiện GDTM qua hoạt động vẽ.............................54
Bảng 2.4. Kết quả thực hiện GDTM qua hoạt động vẽ..................................55
Bảng 2.5. Tình hình thực hiện GDTM qua hoạt động nặn............................59
Bảng 2.6. Kết quả thực hiện GDTM qua hoạt động nặn................................60
Bảng 2.7. Mức độ thực hiện GDTM qua hoạt động xé, dán...........................65
Bảng 2.8. Kết quả thực hiện GDTM qua hoạt động xé, dán..........................66
Bảng 2.9. Mức độ thực hiện GDTM qua hoạt động đồ dùng, đồ chơi tự tạo..68
Bảng 2.10. Kết quả thực hiện GDTM qua hoạt động làm đồ dùng,................69
đồ chơi tự tạo......................................................................................................69
Bảng 2.11: Đội ngũ hiệu trưởng........................................................................75
Bảng 2.12. Đội ngũ giáo viên Trực tiếp giảng dạy lớp mẫu giáo 3- 5 tuổi năm
học 2014 – 2015...............................................................................................76
Bảng 2.13.Mức độ thực hiện lập kế hoạch và thiết kế chương trình..............80
giáo dục thẩm mỹ..............................................................................................80
Bảng 2.14. Mức độ thực hiện tổ chức triển khai chương trình........................82
giáo dục thẩm mỹ...............................................................................................82
2.15. Mức độ thực hiện bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên..........84
Bảng 2.16. Mức độ thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, thiết vị, các học liệu trong
giáo dục thẩm mỹ...............................................................................................86
Bảng 2.17. Mức độ thực hiện kiểm tra, đánh giá quá trình giáo dục thẩm mỹ
.............................................................................................................................90
Bảng 2.18. Hiệu quả thực hiện nội dung quản lý hoạt động giáo dục thẩm mĩ
.............................................................................................................................91
2.19. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giáo dục thẩm mỹ thông
qua hoạt động tạo hình.....................................................................................94
Bảng 3.1. Mức độ % về sự cần thiết của các biện pháp quản lý giáo dục thẩm
mỹ thông qua hoạt động tạo hình..................................................................121
Bảng 3.2. Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết của các biện pháp giáo dục
thẩm mỹ thông qua hoạt động tạo hình..........................................................121
Bảng 3.3. Mức độ % về tính khả thi của các biện pháp quản lý giáo dục thẩm
mỹ thông qua hoạt động tạo hình..................................................................122
Bảng 3.4. Kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của các biện pháp quản lý
giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động tạo hình ở nhà trường mầm non....123
Bảng 3.4. Tổng hợp kết quả khảo nghiệm giữa mức độ cần thiết và tính khả
thi của các biện pháp quản lý giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động tạo
hình ở các trường mầm non............................................................................124
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục Quốc dân,
là nền tảng cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Mục tiêu của giáo dục
mầm non là giúp trẻ phát triển toàn diện các mặt giáo dục: Đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ, lao động. Làm tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân
cách con người trong xã hội hiện đại.
Giáo dục thẩm mĩ là một trong 5 lĩnh vực của chương trình giáo dục Mầm
non. Bởi trẻ ở lứa tuổi này đều có tâm hồn nhạy cảm với thế giới xung quanh, vì
ở đó chứa đựng bao điều mới lạ hấp dẫn. Trẻ thường tỏ ra dễ xúc cảm với cảnh
vật xung quanh, trẻ dễ bị cuốn hút trước đồ vật có nhiều màu sắc, hay những
bông hoa đẹp, bức tranh sinh động, đồ chơi ngộ nghĩnh…Từ đó năng khiếu nghệ
thuật thường được nảy sinh ngay từ tuổi ấu thơ. Vì vậy việc giáo dục thẩm mĩ là
điều kiện tốt nhất để ươm trồng những tài năng nghệ thuật cho tương lai.
Hoạt động tạo hình trong trường Mầm non là một phương tiện phát
triển thẩm mĩ cho trẻ rất hữu hiệu. Thông qua hoạt động tạo hình giúp trẻ phát
triển các chức năng tâm lí như khả năng tri giác, phân tích, khái quát hóa các
sự vật hiện tượng xung quanh, từ đó buộc trẻ phải tư duy và quá trình đó làm
phát triển óc tưởng tượng sáng tạo, ham muốn tạo ra cái đẹp. Đây là yếu tố
cần thiết góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách.
Đối với trẻ lứa này đang hình thành và phát triển cả về thể chất và tâm
hồn, vận động của trẻ chủ yếu là những vận động thô, bài tập kỹ năng, kỹ sảo
còn nhiều hạn chế như: kỹ năng cầm bút, thao tác cắt, xé dán…còn vụng. Một
mặt do trẻ chưa tập trung chú ý nhiều đến việc ngồi học, hay vẽ những sản phẩm
mà mình yêu thích, chưa biết bộc lộ cảm xúc của mình với cô giáo và các bạn.
Vì vậy hoạt động tạo hình chính là một thứ ngôn ngữ riêng để trẻ biểu lộ tình
cảm, tiếng nói của mình với mọi người xung quanh. Để tạo ra một sản phẩm đẹp
1
trước hết trẻ phải hiểu về cái đó, có tình cảm với nó và có kỹ năng tạo ra nó, thì
trẻ mới hoàn thành sản phẩm theo ý tưởng của mình. Chính từ các hoạt động đó
sẽ làm phát triển tình cảm thẩm mĩ của trẻ, giúp trẻ yêu thích cái đẹp, mong
muốn được tạo ra cái đẹp.
Thực tiễn trong các trường Mầm non chưa quan tâm nhiều đến việc
giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Trong khi đó giáo dục thẩm mĩ có vai trò quan
trọng làm tăng khả năng tư duy, trí tưởng tượng sáng tạo và làm phong phú
thêm đời sống tinh thần cho trẻ. Đặc biệt là rèn cho trẻ kỹ năng cầm bút tô,
vẽ, tư thế ngồi tạo tiền đề và tâm thế tốt cho trẻ bước vào lớp một.
Trong quá trình tổ chức hoạt động tạo hình giáo viên ít khi chú ý đến
làm thế nào giúp trẻ hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp từ thiên nhiên, ý nghĩa
những bức tranh, hay các sản phẩm vẽ nặn xé dán và tính tích cực sáng tạo cá
nhân. Nếu chúng ta biết cách khai thác để phát triển thẩm mĩ cho trẻ thông
qua hoạt động tạo hình thì không những tư duy, trí tượng tượng sáng tạo của
trẻ được tăng lên mà còn giúp trẻ biết cảm nhận, yêu thích cái đẹp, tâm hồn
trong sáng, hướng tới giá trị Chân – Thiện – Mĩ.
Quản lý giáo dục thẩm mĩ trong hoạt động tạo hình ở trường Mầm non
trong những năm qua đã được chú ý và đã đạt được những thành tựu nhất định
thông qua việc: Quản lý xây dựng và phát triển chương trình, quản lý đổi mới
hình thức dạy học. Tuy nhiên trong chương trình giáo dục Mầm non do Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành đã có những nội dung hoạt động tạo hình cho từng lứa
tuổi như: Vẽ, nặn, xé dán, khi thực hiện giáo viên phải lựa chọn nội dung đưa
vào kế hoạch giảng dạy sao cho phù hợp với từng chủ đề. Nhưng thực tế phần
nhiều giáo viên mới chỉ lựa chọn nội dung đơn giản, dễ thực hiện để dạy trẻ đó
là hoạt động vẽ, nặn, chưa quan tâm nhiều đến hoạt động xé dán, làm đồ dùng –
đồ chơi và các nội dung hoạt động tạo hình cho trẻ. Vì vậy chưa phát huy được
khả năng khéo léo từ đôi bàn tay và tư duy sáng tạo của trẻ.
2
Bên cạnh đó việc quản lý sinh hoạt chuyên môn bồi dưỡng chất lượng
đội ngũ chưa được chú trọng nhiều, phần nhiều các tổ chuyên môn mới chỉ
thực hiện đủ số buổi sinh hoạt theo Điều lệ 2 lần/tháng nhưng chưa chú ý đến
chất lượng, nội dung sinh hoạt chuyên môn để bồi dưỡng giáo viên theo các
chuyên đề và đổi mới chương trình giảng dạy sao cho hiệu quả. Mặt khác việc
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trong các nhà trường chưa đồng bộ, đồ
dùng, đồ chơi ở các nhóm lớp mới chỉ đạt ở điều kiện tối thiểu theo danh mục
quy định, trang
thiết bị hiện đại chưa được đầy đủ, đồ dùng tự tạo theo các chủ đề thực
hiện hẳng tháng, tuần, ngày chưa phong phú và hấp dẫn trẻ em nên ảnh hưởng
việc nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ. Công tác kiểm tra, đánh giá
các nhà trường đã quan tâm, hằng năm xây dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ
trường học, kiểm tra chất lượng đầu năm, song mới chỉ là thực hiện theo kế
hoạch, các biện pháp đánh giá trong công tác quản lý, chất lượng đội ngũ, sự
phát triển khả năng của trẻ ở từng lĩnh vực chưa có sự đổi mới, đôi lúc dẫn
đến kết quả chưa thực sự chính xác và khách quan, chất lượng các nhà trường
có phần chưa đáp ứng được với những yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Chính bởi vậy mỗi, cơ sở giáo dục mầm non cần thiết phải có người hiệu
trưởng biết cách quản lý toàn diện các hoạt động nhà trường một cách linh
hoạt, phù hợp, chặt chẽ thông qua các biện pháp hữu hiệu, nhằm nâng cao
chất lượng chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ đáp ứng mục tiêu giáo dục
mầm non trong thời kỳ mới.
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động
trong trường Mầm non như: Nghiên cứu khoa học Việc nâng cao chất lượng
thực hiện chương trình chăm sóc – giáo dục trẻ từ 3-6 tuổi trong trường mầm
non, đề tài cấp Bộ, chủ nhiệm Lê Thị Thu Hương; Một số biện pháp tổ chức
trò chơi học tập nhằm hình thành biểu tượng thiên nhiên cho trẻ mẫu giáo
3
lớn, Luận văn Thạc sĩ Lê Thị Bích Ngọc; Tự tạo và sử dụng có hiệu quả đồ
dùng, đồ chơi trong các góc hoạt động của trẻ mẫu giáo 5 tuổi bằng nguyên
vật liệu rẻ tiền, để tài cấp Viện, chủ nhiệm Phan Đông Phương, Nguyễn Thị
Vân Lâm; Nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và phòng chống suy
dinh dưỡng cho trẻ em, Luật văn Thạc sĩ Nguyễn Minh Thắng và còn nhiều
công trình nghiên cứu về giáo dục Mầm non. Tuy nhiên đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu về quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt động tạo hình
cho trẻ lứa tuổi Mầm non.
Xuất phát từ lý do trên tôi đã tiến hành nghiên cứu và chọn đề tài
"Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở các
trường Mầm non Thành phố Hòa Bình”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng, đề xuất các biện
pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở các
trường Mầm non Thành phố Hòa Bình nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ ngay từ tuổi ấu thơ.
3. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở
trường Mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo
hình ở các trường Mầm non - Thành phố Hòa Bình.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở
trường Mầm non đã đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại
như: Quản lý đầu tư và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học trong các nhà
4
trường chưa hiệu quả; Chỉ đạo thiết kế và tổ chức thực hiện nội dung chương
trình chưa đáp ứng tốt mục tiêu đặt ra; Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ
giáo viên...Vì vậy nếu đề xuất được các biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ
cho trẻ thông qua tạo hình phù hợp thì sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục
thẩm mĩ ở trường Mầm non.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ
thông qua hoạt động tạo hình ở trường Mầm non.
5.2. Khảo sát thực trạng quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua
hoạt động tạo hình ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông
qua hoạt động tạo hình ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong việc
giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo (từ 3- 5 tuổi) thông qua hoạt động tạo hình ở
một số trường Mầm non Thành phố Hòa Bình.
6.2. Địa bàn nghiên cứu
- Nghiên cứu tại 05 trường Mầm non trên địa bàn Thành phố Hòa Bình.
Trong đó có trường thuộc vùng thuận lợi, có trường thuộc vùng khó khăn:
+ Trường Mầm non Phương Lâm – Phường Phương Lâm
+ Trường Mầm non Unicef – Phường Hữu Nghị
+ Trường Mầm non Tân Thịnh B – Phường Tân Thịnh
+ Trường Mầm non Dân chủ – Xã Dân Chủ
+ Trường Mầm non Yên Mông – Xã Yên Mông
6.3. Khách thể khảo sát
- Nghiên cứu 90 người
+ Cán bộ quản lý: 15 người
5
+ Giáo viên: 15 người
+ Trẻ: 60 cháu (20 cháu lớp 3 tuổi, 20 cháu lớp 4 tuổi, 20 cháu lớp 5 tuổi).
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc, tìm hiểu, nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, khái quát và hệ thống
hóa các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài, nhận định của các nhà khoa học
về vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát theo 04 bước:
- Quan sát đàm thoại: Đàm thoại với cán bộ quản lý, giáo viên và trẻ ở
trường Mầm non.
- Quan sát và ghi biên bản: Dự giờ, qua sát quá trình hoạt động tạo
hình của cô giáo và trẻ.
- Xử lý từng bảng, lập kết quả tổng hợp: Lập bảng tổng hợp kết quả
- Định lượng kết quả quan sát nghiên cứu (qua bảng số và sơ đồ): Sử dụng
một số công thức toán học để xử lý các số liệu.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Lập phiếu hỏi (xác định loại câu hỏi phù hợp với người được hỏi).
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
- Kiểm tra thực tế sản phẩm hoạt động tạo hình qua vè, nặn, xé dán, làm đồ
dùng, đồ chơi của cô giáo và trẻ.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Sử dụng các bước để xin ý kiến chuyên gia:
- Bước 1: Xác định tiêu chí và xin ý kiến về phiếu điều tra
- Bước 2: Lựa chọn chuyên gia (số lượng, thành phần). Các chuyên gia
có nhiều công trình nghiên cứu trong giáo dục mầm non và đóng góp xây
dựng chương trình giáo dục mầm non mới.
- Bước 3: Xin ý kiến chuyên gia về xử lý kết quả của phiếu điều tra.
6
7.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
7.2.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng bảng thống kê số liệu
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm:
- Mở đầu
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt động
tạo hình cho trẻ ở trường Mầm non.
- Chương 2: Thực trạng về quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt động
tạo hình cho trẻ ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình.
- Chương 3: Các biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt động
tạo hình cho trẻ ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình.
- Kết luận và khuyến nghị.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục.
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC THẨM MĨ CHO TRẺ
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vân đề
Nghệ thuật tạo hình (NTTH) là một hình thái nghệ thuật có từ ngàn
xưa, đã được lưu truyền từ đời này qua đời khác bằng các tác phẩm nghệ
thuật, những giá trị tinh thần to lớn. Các tác phẩm NTTH có vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội vì nó chứa đựng những giá trị văn hoá cổ truyền,
nó phản ánh suy nghĩ, tình cảm, ước mơ và tâm hồn con người ở mỗi dân tộc,
mỗi Quốc gia. Việc giáo dục thẩm mĩ nói chung và giáo dục thẩm mĩ thông
qua hoạt động tạo hình cho trẻ nói riêng là rất cần thiết, nhằm góp phần hình
thành và phát triển ở trẻ nền tảng nhân cách của người công dân tương lai và
đóng góp rất lớn vào việc giáo dục nghệ thuật, giáo dục cái đẹp cho trẻ. Do
đó, việc nghiên cứu, khai thác và sử dụng các tác phẩm NTTH nhằm giáo dục
thẩm mĩ cho trẻ đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà tâm lý
học, giáo dục học ở nhiều nước.
Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài:
Các nhà tâm lí, giáo dục ở Liên xô cũ có nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em thông qua HĐTH. Các tác giả như:
N.P.Xaculinna, N.A.Vetlughina, E.A.Kôtxakopxkaia đã đưa ra chương trình,
nội dung, phương pháp dạy trẻ mẫu giáo ở các dạng HĐTH khác nhau như
vẽ, nặn, xé dán, gấp giấy, làm đồ chơi... Các tác giả đều thấy được vai trò của
sản phẩm NTTH đối với sự phát triển thẩm mỹ ở trẻ em và đưa ra các biện
pháp cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
Trong công trình nghiên cứu“Phương pháp dạy trẻ em MG vẽ, lắp
ghép và cắt dán” tác giả N.A.Vetlughina, ngoài việc giới thiệu các phương
8
pháp, biện pháp dạy trẻ vẽ, lắp ghép và cắt dán, tác giả còn chú trọng đến
mảng nghệ thuật dân gian với nội dung dạy trang trí. Tác giả đã chỉ cho giáo
viên cách khai thác những bức vẽ trang trí dân gian Nga để dạy trẻ vẽ.
Tác giả N.P.Xaculinna trong tác phẩm “Phương pháp dạy trẻ HĐTH và
chắp ghép” rất chú trọng việc đưa những sản phẩm NTTH, cụ thể là các
nguồn tranh ảnh, hiện vật vào môi trường hoạt động của trẻ trong các loại
hình và các hình thức tổ chức HĐTH khác nhau. Đồng thời chỉ ra cho cô giáo
mầm non những phương pháp, thủ thuật hướng dẫn trẻ làm quen với các sản
phẩm NTTH.
Tác giả E.A. Kôtxakopxkaia nghiên cứu về “Dạy nặn trong trường
MG”, thấy rằng trẻ rất hứng thú với sản phẩm nghệ thuật nặn. Đây cũng là
một trọng những dạng hoạt động tạo hình được trẻ mầm non yêu thích. Tác
giả chỉ ra vai trò của nó đối với sự phát triển khiếu thẩm mỹ, mở rộng tầm
hiểu biết làm phong phú trí tưởng tượng của trẻ và là một trong những biện
pháp giáo dục thẩm mỹ.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về nghệ thuật dân gian, các nhà tác giả:
E.I.Kovanxkoi, E.I. Vaxilieva...đã chứng minh và thấy được ảnh hưởng to lớn
của chúng tới sự phát triển năng lực thẩm mỹ của trẻ em. Theo họ thì nó vừa
đáp ứng được nhu cầu của trẻ, lại vừa là “nguồn dinh dưỡng giàu có” cho khả
năng tri giác nghệ thuật và chúng có tác động tới sự phát triển những rung
động thẩm mỹ của trẻ em.
Cũng về vấn đề này, nhà giáo dục học Xô viết D.A. Bogacheva đã
nghiên cứu về việc sử dụng nghệ thuật trang trí ở nước mình. Trong cuốn
“Cắt dán trang trí theo kiểu dân tộc ở mẫu giáo” bà cũng đã hướng dẫn cho
giáo viên cách đưa trang trí dân tộc vào việc dạy trẻ mẫu giáo trong hoạt động
tạo hình.
9
Một số công trình nghiên cứu ở Việt Nam:
Ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ trước đã có một số tác
phẩm mang mầu sắc của nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên trong thời gian đầu
không thấy đề cập rõ đến khái niệm giáo dục thẩm mĩ, nên khi nghiên cứu nội
dung giáo dục thẩm mĩ được gắn với giáo dục nghệ thuật (giáo dục âm nhạc
và giáo dục tạo hình). Những năm 60- 70 một số tài liệu dịch, biên soạn để
giảng dạy nội bộ, giáo dục thẩm mĩ được dùng với thuật ngữ “mĩ dục”. Mĩ
dục được quan niệm là “giáo dục về cái đẹp”, là công tác “giáo dục thẩm mĩ”,
bồi dưỡng năng lực hiểu biết chính xác và cảm nhận đầy đủ cái đẹp của nghệ
thuật, cái đẹp của đời sống xã hội, cái đẹp của thiên nhiên và của tập quán
sinh hoạt hàng ngày. Những năm 80 đến nay, nội hàm của khái niệm giáo dục
thẩm mĩ được xem xét trên nhiều bình diện khác nhau, xuất phát từ hai khái
niệm gốc: Khái niệm giáo dục và khái niệm thẩm mĩ. Quá trình hình thành và
phát triển mặt thẩm mĩ ở con người có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ
khác nhau: Góc độ xã hội, góc độ phát triển nhân cách, phát triển thẩm mĩ của
nhân cách.
Từ thập kỷ 90 giáo dục thẩm mĩ đã có một hệ thống đề tài nghiên cứu cả
từ góc độ lí luận, thực tiễn về giáo dục thẩm mĩ, bao gồm nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu thực tiễn, nghiên cứu ứng dụng triển khai, kết quả nghiên cứu đã góp
phần hình thành hệ thống giáo dục chung về giáo dục thẩm mĩ ở nước ta.
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc giáo
dục thẩm mĩ. Tiêu biểu như: Tác giả Đỗ Xuân Hà nghiên cứu "Nguyên tắc
giáo dục thẩm mĩ bằng nghệ thuật tạo hình; Tác giả Lê Quang Vinh nghiên
cứu về "Giáo dục thẩm mĩ ở nước ta hiện nay". PGS.TS Nguyễn Thị Yến
Phương đã nghiên cứu về giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non thông qua hoạt
động tạo hình. Tác giả Ngô Tú Hiền nghiên cứu "Giáo dục thẩm mĩ - công cụ
quan trọng để xây dựng nhân cách có văn hóa trong văn hóa giáo dục - giáo
10
dục và văn hóa". PGS.TS Lê Thanh Thủy đã quan tâm tới việc cho trẻ làm
quen với tác phẩm nghệ thuật tạo hình...
Với bề dày kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu lý luận về giáo dục
mầm non, PGS.TS Nguyễn Ánh Tuyết đã đưa ra những kết luận xác đáng
trong việc hướng dẫn trẻ cảm thụ vẻ đẹp của những tác phẩm tạo hình. Theo
bà thì “Tuy trẻ ham thích hoạt động tạo hình, nhưng chưa phải là đã có ý thức
đầy đủ trong việc sáng tạo ra cái đẹp và cũng chưa biết phát hiện cái đẹp
trong sản phẩm tạo hình một cách đầy đủ. Do đó trẻ em cần được hướng dẫn
hoạt động tạo hình ngay từ lúc còn bé, mà việc đầu tiên là tạo điều kiện để trẻ
được xem nhiều tác phẩm tạo hình có giá trị.”[; 52-53]
Tác giả Đỗ Xuân Hà khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho
học sinh bằng nghệ thuật tạo hình đã khẳng định vai trò của các tác phẩm
nghệ thuật tạo hình và chú trọng tới nghệ thuật dân tộc : “ Các tác phẩm nghệ
thuật có thể đưa vào vốn kinh nghiệm cá nhân của con người ngày nay cái
kho tàng to lớn, bất tận những tình cảm tốt đẹp của tổ tiên và bằng cách đó,
nghệ thuật sẽ nhân đạo hoá con người, làm cho tình cảm của họ phát triển tốt
đẹp hơn, trí tuệ của họ thông minh hơn”. Tác giả Đỗ Xuân Hà cũng đưa ra các
nguyên tắc giáo dục thẩm mỹ bằng nghệ thuật tạo hình, trong đó ông đề cao
nguyên tắc: “Đi từ văn hoá - nghệ thuật dân tộc tới văn hoá - nghệ thuật của
toàn nhân loại.” [; 87-97]
PGS.TS Lê Thanh Thuỷ trong các công trình nghiên cứu của mình đã
luôn quan tâm tới việc cho trẻ làm quen với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình,
đặc biệt là các tác phẩm nghệ thuật trang trí dân gian, các sản phẩm thủ công
mỹ nghệ truyền thống. Tác giả đã chỉ ra khả năng to lớn của các tác phẩm
THTT trong việc phát triển tình cảm, ý thức xã hội và nhân cách của trẻ em.
Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những yêu cầu trong việc lựa chọn tác phẩm
11
giới thiệu với trẻ và những điểm cần lưu ý về hình thức và phương pháp cho
trẻ làm quen với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
TS Phan Thị Việt Hoa trong đề tài: “Một số biện pháp bồi dưỡng cảm
xúc thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo thông qua hoạt động tạo hình” đã coi việc cho
trẻ tiếp xúc với nghệ thuật tạo hình là một trong những biện pháp hữu hiệu để
bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ ở trẻ. [;42-44].
Trong những năm gần đây đã có một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về
vấn đề giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua HĐTH như: Ths Đàm Thị Hoài
Dung cho trẻ làm quen với các bố cục hoa văn dân tộc thông qua hoạt động
xếp dán tranh trang trí; Ths Ngô Minh Tâm nghiên cứu các biệp pháp bồi
dưỡng cho giáo sinh TCSP Mầm non khả năng sử dụng sản phẩm thủ công
mỹ nghệ truyền thống trong tổ chức môi trường HĐTH cho trẻ; Ths Kiều Thị
Hồng Thủy nghiên cứu một số biện pháp cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm quen
với nghệ thuật tạo hình truyền thống ở tỉnh Hoà Bình...
Việc quản lý giáo dục mầm non và quản lý giáo dục thẩm mĩ trong
trường mầm non là những nội dung được nhiều người quan tâm, đặc biệt là
các nhà quản lý giáo dục. Bởi đây là một trong những nội dung trọng tâm
trong công tác quản lý. Chính vì vậy các nhà khoa học đã thể hiện trong các
công trình nghiên cứu: Tác giả Đinh Văn Vang Một số vấn đề quản lý trường
mầm non; TS Nguyễn Thị Yến Phương nghiên cứu Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ
mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) qua hoạt động tạo hình ở trường mầm non;
Như vậy, việc quản lý giáo dục thẩm mĩ trong các trường Mầm non nói
chung và giáo dục thẩm mĩ qua hoạt động tạo hình cho trẻ Mầm non
nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, các công
trình đã khẳng định vai trò to lớn của các tác phẩm tạo hình đối với hình
thành và phát triển ở trẻ em những cảm xúc, tình cảm thẩm mĩ, năng lực nghệ
thuật và phẩm chất nhân cách con người mới.
12
1.2. Trường mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, trường mầm non nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo.
1.2.1. Vị trí, vai trò của trường mầm non
- Nhà trường, nhà trẻ có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
- Nhà trường, nhà trẻ hỗ trợ các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập trên
cùng một địa bàn theo sự phân công theo sự phân công của cấp co thể quyền.
- Nhà trường đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
“Giúp trẻ phát triển về thể chất, ngôn ngữ, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ và hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người, chuẩn bị tâm thế cho
trẻ vào lớp một”.
1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường Mầm non
- Tổ chức thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng
tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành.
- Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; tổ chức giáo dục hòa
nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật; thực hiện phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Hàng năm, tự kiểm tra theo tiêu chuẩn quy
định về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi , báo cáo cấp có thẩm
quyền bằng văn bản.
- Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa hoặc
theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
- Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt
động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
13
- Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia
hoạt động xã hội trong cộng đồng.
- Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3. Quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt động tạo hình ở
trường mầm non
1.3.1. Quản lý
1.3.1.1. Khái niệm về quản lý
Khái niệm về Quản lí theo từ điển “Giáo dục học”: “Quản lý là hoạt
động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức”[;36]
Như vậy: Quản lý là một hoạt động có chủ đích, là sự tác động liên tục
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về nhiều mặt bằng một hệ thống
các luật lệ, chính sách, nguyên tắc và các phương pháp cụ thể nhằm thực hiện
các mục tiêu xác định.
Trong quá trình quản lý, chủ thể tiến hành các hoạt động cơ bản như:
xác định mục tiêu, chủ trương, chính sách, kế hoạch; tổ chức thực hiện, điều
chỉnh các hoạt động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Trong đó, mục tiêu quan
trọng nhất là nhằm tạo ra môi trường, điều kiện cho sự phát triển của đối
tượng quản lý.
1.3.1.2. Quản lý giáo dục
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý giáo dục, song thường người ta
đưa ra quan niệm quản lý giáo dục theo hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và vi mô.
Quản lý vĩ mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nền giáo dục (hệ thống
giáo dục) và quản lý vi mô tương ứng với khái niệm về quản lý một nhà trường.
14
Quản lý cấp vĩ mô:
Ở cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống tác động có
mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý vào hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm huy động và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nguồn lực phục vụ cho
mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia.
Như vậy, quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm làm cho toàn bộ hệ thống giáo dục
vận hành theo đường lối nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội
đặt ra.
Chủ thể quản lý điều khiển các thành tố trong hệ thống quản lý thông
qua hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống đó.
Tính chất chỉ huy – chấp hành là đặc trưng nổi trội trong quan hệ quản
lý. Tuy nhiên, chủ thể quản lý và đối tượng quản lý đều có mục đích chung.
Quản lý giáo dục có nhiệm vụ tạo ra và duy trì một môi trường thuận
lợi để mỗi cá nhân có thể hoạt động đạt được hiệu quả cao trong quá trình đạt
đến mục đích chung.
Ở cấp độ vi mô
Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch
của chủ thể quản lý vào hệ thống tổ chức giáo dục của nhà trường nhằm điều
khiển các thành tố trong hệ thống phối hợp hoạt động theo đúng chức năng,
đúng kế hoạch, đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt được mục đích, mục tiêu
đã xác định với hiệu quả cao nhất.
Tiếp cận theo góc độ điều khiển học, có thể hiểu quá trình quản lý giáo
dục là hoạt động tổ chức và điều khiển quá trình giáo dục nhằm thực hiện có
hiệu quả mục đích, mục tiêu giáo dục của nhà trường.
15
Theo khái niệm trên, quá trình quản lý giáo dục được hiểu như một quá
trình vận động của các thành tố có mối quan hệ tương tác lẫn nhau trong hệ
thống tổ chức của nhà trường. Hệ thống đó bao gồm các thành tố cơ bản là:
chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, nội dung, phương pháp quản lý, mục tiêu
quản lý. Các thành tố đó luôn vận động trong mối liên hệ tương tác lẫn nhau,
đồng thời diễn ra trong sự chi phối, tác động qua lại với môi trường kinh tế,
chính trị, xã hội chung quanh.
Từ những góc độ trên chúng tôi kết luận: Quá trình quản lý giáo dục là
hoạt động của các chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thống nhất với nhau
trong một cơ cấu nhất định nhằm đưa hệ thống giáo dục đạt tới mục tiêu dự
kiến và tiến lên trạng thái mới về chất. Quản lý giáo dục vừa là một hiện
tượng xã hội (hiện tượng hoạt động, lao động, công tác), vừa là một loại quá
trình xã hội (quá trình quản lý) đồng thời cũng là một hệ thống xã hội (hệ
thống quản lý).
1.3.1.3. Quản lý nhà trường
Thuật ngữ “quản lý nhà trường” có thể xem là đồng nghĩa với quản lý
giáo dục ở tầm vi mô. Song cần nhận rõ tác động của chủ thể quản lý đến nhà
trường có hai loại tác động từ bên ngoài và tác động bên trong nhà trường.
+ Tác động từ bên ngoài nhà trường là tác động của các cơ quan quản
lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các hoạt động dạy
học, giáo dục của nhà trường.
+ Tác động từ bên trong là hoạt động của các chủ thể quản lý của chính
nhà trường nhằm huy động, điều phối, giám sát các lực lượng giáo dục của
nhà trường thực hiện có chiến lược, có hiệu quả các nhiệm vụ dạy học và giáo
dục đặt ra. Đó là sự tác động của thủ trưởng, người chỉ huy cấp trên đối với
các tổ chức cấp dưới thuộc quyền. Sự tác động đó phải có mục đích, có kế
hoạch và phải tuân theo các nguyên tắc quản lý.
16
1.3.2. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ ở trường Mầm non
1.3.2.1. Khái niệm về giáo dục thẩm mĩ
Trong thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau bàn về giáo dục thẩm
mĩ về bản chất của cái đẹp, cái thẩm mỹ.
Các nhà Triết học duy tâm chủ quan, khách quan quan niệm cái đẹp là
một loại cảm giác đặc biệt của một cá nhân nào đó, là trò chơi cầu kỳ của trí
tưởng tượng, là những phán đoán thuần tuý của đầu óc con người hoặc là hình
ảnh của một ý niệm tuyệt đối, là hồi quang của cái đẹp vĩnh cửu và siêu
nhiên, không liên hệ gì với hiện thực, là sự linh cảm thần bí. Với quan niệm
như vậy thì vai trò của giáo dục thẩm mỹ hoặc đã bị phủ nhận hoặc nó chỉ là
nhân tố bên ngoài có tác dụng làm tăng nhanh hay kìm hãm quá trình bộc lộ
những phẩm chất tự nhiên bị chế ước bởi tính di truyền mà thôi.
Đối lập với các quan điểm trên, mỹ học Mác – Lê nin với tư cách là
một ngành khoa học triết học, nghiên cứu lĩnh vực cái thẩm mỹ như là biểu
hiện chuyên biệt của các quan hệ giá trị của con người đối với thế giới và lĩnh
vực hoạt động nghệ thuật của con người.
Mĩ học Mác – Lê nin đã vạch ra bản chất của cái đẹp trong đời sống,
trong nghệ thuật, đề ra nguyên tắc chung của việc chiếm lĩnh thế giới về mặt
thẩm mĩ, phát hiện các quy luật hoạt động thẩm mỹ của con người. Cái đẹp và
cái xấu, cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái anh hùng và cái đê
tiện – đó là những thuộc tính có thực của mọi sự vật, hiện tượng và tình
huống trong hiện thực, được cảm nhận bằng tình cảm thẩm mĩ và được biểu
hiện trong những cảm xúc, thị hiếu thẩm mĩ.
Mĩ học Mác – Lê nin còn khẳng định cái đẹp là một giá trị, nguồn gốc
của cái đẹp là cuộc sống, là hiện thực xã hội với toàn bộ tính đa dạng của nó,
nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai.
Hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở của quan hệ thẩm mĩ đối với hiện
17
thực. Chính trong hoạt động mang tính xã hội này đã hình thành nên năng lực
sáng tạo theo quy luật cái đẹp và xem xét mọi sự vật, hiện tượng với cái “độ
thẩm mỹ”. Nhờ đó con người đã tìm thấy trong thế giới tự nhiên, trong đời
sống xã hội, trong nghệ thuật cái thẩm mĩ đa dạng.
Theo quan điểm của mĩ học Mác - Lênin thì giáo dục thẩm mĩ được coi
là một loại hình giáo dục đặc thù tương ứng với các loại hình giáo dục khác,
nó có nhiệm vụ phát triển một năng lực đặc thù ở con người: năng lực thẩm
mĩ. Như vậy, giáo dục thẩm mĩ có tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ
thống giáo dục xã hội, hệ thống có nhiệm vụ giáo dục để phát triển toàn diện
con người. Giáo dục thẩm mỹ, hiểu theo nghĩa rộng, chính là sự hình thành
thẩm mĩ; nghĩa là không chỉ những hoạt động thẩm mĩ đặc thù, mà ngay cả
những hoạt động ngoài thẩm mĩ (chính trị, khoa học...) cũng đều phải mang
tính nhân văn, đều phải góp phần hoàn thiện con người văn hoá - thẩm mĩ.
Giáo dục thẩm mĩ giúp hình thành những năng lực hoạt động theo quy
luật của cái đẹp trong mọi hoạt động của xã hội và con người, bên cạnh đó giáo
dục thẩm mĩ cũng hình thành các năng lực thẩm mĩ với tính cách là năng lực
đặc thù. “Bản chất của giáo dục thẩm mĩ chính là bồi dưỡng lòng khát khao
đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hòa giữa tự nhiên - con người - xã
hội, là quá trình tác động có định hướng và có ý thức của con người nhằm hình
thành và phát triển năng lực của chủ thể thẩm mĩ” [Đỗ Huy (1987), Giáo dục
thẩm mĩ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Thông tin lý luận [tr. 31].
Như vậy chúng ta có thể hiểu khái niệm Giáo dục thẩm mĩ là quá trình
hoạt động chung của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hình
thành và phát triển ở người được giáo dục những quan hệ thẩm mĩ đúng đắn
với hiện thực bằng cách thông qua các phương tiện thẩm mĩ, đặc biệt là
phương tiện nghệ thuật nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện hài hoà
cho người được giáo dục.
18
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thực chất là quá trình nhà giáo dục giúp đứa
trẻ biến đổi mình trở thành một chủ thể thẩm mĩ đích thực với quan hệ thẩm
mĩ đúng đắn được biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau:
1. Hình thành và phát triển được những tình cảm thẩm mĩ trong quá
trình cảm thụ và lĩnh hội cái đẹp trong nghệ thuật, trong tự nhiên, trong các
mối quan hệ xã hội, tạo được hứng thú đối với các khía cạnh thẩm mỹ của
hiện thực, cảm nhận và hiểu biết được cái đẹp trong những biểu hiện đa dạng
của nó.
2. Hình thành thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ đúng đắn.
3. Hình thành năng lực sáng tạo nghệ thuật, lòng ham muốn và khả
năng đem cái đẹp vào đời sống.
1.3.2.2. Nội dung giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non
Giáo dục thẩm mĩ là một trong những nội dung giáo dục quan trọng,
góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ và là một việc cần phải tiến hành
một cách nghiêm túc. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc động
đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay bổng
và phong phú, bởi vậy, đây là thời điểm lí tưởng cho việc thực hiện nội dung
giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Các nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ gồm có:
* Giáo dục ý thức thẩm mỹ:
Nội dung giáo dục thẩm mĩ đầu tiên nhà giáo dục cần hướng tới đó là
giáo dục ý thức thẩm mĩ. Thông qua nhiều hoạt động khác nhau ở trường
mầm non, đặc biệt là hoạt động tạo hình, giáo dục trẻ biết yêu quý cái đẹp, cái
tốt, phân biệt được cái thiện cái ác. Trẻ ý thức được việc giữ vẻ đẹp cho bản
thân trong hành động, trang phục hay cách ứng xử với bè bạn, người thân. Từ
đó hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày và
định hướng cho trẻ cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh.
19
* Giáo dục thái độ, tình cảm thẩm mỹ:
Giáo dục thái độ, tình cảm thẩm mĩ cho trẻ là một trong những nội
dung giáo dục quan trọng. Trẻ em mầm non là thời kì tình cảm, xúc cảm phát
triển mạnh mẽ nhất. Hoạt động tạo hình sẽ giúp trẻ phát triển khả năng cảm
thụ thẩm mĩ và bồi dưỡng những tình cảm thẩm mĩ trong sáng. Những vẻ đẹp
đa dạng của hình dáng, sự phong phú về mầu sắc của đồ vật, thiên nhiên và sự
lặp đi lặp lại của các yếu tố tạo hình như sự cân đối đa dạng về cấu trúc hình
dáng về tính truyền cảm của đường nét... đã thu hút hứng thú và gây cho trẻ
những xúc cảm. Tình cảm thẩm mĩ ở trẻ được nẩy sinh và trở nên sâu sắc
cùng với sự phát triển của cảm giác và sự phong phú của các biểu tượng, trẻ
tri giác thế giới xung quanh ngày càng có ý thức hơn. Dần dần trẻ có khả năng
cảm thụ, nhận thức đánh giá được vẻ đẹp hay không đẹp của các đồ vật, hiện
tượng trong thiên nhiên, cuộc sống và các tác phẩm nghệ thuật ở mức độ sơ
đẳng, được biểu hiện qua thái độ: thích hay không thích, yêu hay ghét, phân
biệt đẹp hay xấu.
* Giáo dục hành vi thẩm mĩ
Nội dung giáo dục hành vi thẩm mĩ được thực hiện việc chăm sóc, giáo
dục và làm quen với môi trường xung quanh diễn ra trong cuộc sống hàng ngày
của trẻ. Các hoạt động trong đời sống sinh hoạt sẽ làm nảy sinh những tình
huống để trẻ thể hiện hành vi đẹp, cách suy nghĩ, ứng xử, thái độ, việc làm cụ
thể. Bên cạnh đó, thông qua việc làm quen, tiếp xúc với các tác phẩm nghệ
thuật (tạo hình, âm nhạc, thơ truyện...) còn giúp trẻ cảm thụ sâu sắc hơn vẻ đẹp
của thiên nhiên, cuộc sống và các hành vi thẩm mĩ được củng cố, được trẻ vận
dụng vào việc xử lí tình huống có ý nghĩa cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
1.3.3. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua họat động tạo hình giúp trẻ cảm
thụ được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thể hiện qua ngôn ngữ đặc trưng
20
của dạng hoạt động này, đó là đường nét, hình dáng, mầu sắc, bố cục... được
thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật. Khi miêu tả đồ vật, hiện tượng trẻ
không chỉ miêu tả lại hình dáng một cách thụ động mà bằng cảm xúc tích cực
của trẻ, nảy sinh yếu tố sáng tạo. Góp phần tích cực trong việc hình thành ở
trẻ những thao tác tư duy như: phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá;
phát triển tư duy trực quan hình tượng và trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo.
Đồng thời quá trình hoạt động tạo hình, tình cảm, xúc cảm thẩm mĩ và ngôn
ngữ nghệ thuật của trẻ cũng phát triển.
* Giáo dục thẩm mĩ ở trường mầm non thông qua hoạt động vẽ
Trong các dạng họat động tạo hình ở trường mầm non, hoạt động vẽ là
một trong những nội dung tạo hình cơ bản góp phần giáo dục thẩm mĩ nhằm
phát triển toàn diện cho trẻ. Thông qua hoạt động vẽ, trẻ được phát triển các
giác quan như cảm giác, tri giác, phát triển khả năng cảm thụ và khả năng
sáng tạo, đồng thời khi vẽ còn là sự biểu lộ thái độ, tình cảm yêu ghét của trẻ
đối với thế giới xung quanh.
Đối với trẻ mầm non, thế giới xung quanh thật mới mẻ và lý thú, trẻ
luôn muốn thông qua mọi phương tiện để biểu đạt những cảm xúc của mình.
Trong điều kiện khả năng ngôn ngữ phát triển chưa hoàn thiện thì hội họa là
phương tiện để biểu đạt hiệu quả nhất, lý thú nhất, đặc biệt là với trẻ ở tuổi
mẫu giáo. Hơn thế nữa, tranh vẽ cũng là một phương pháp truyền đạt thông
tin khá hiệu quả của trẻ.
Trong cuộc sống hàng ngày, trẻ đã tiếp thu một lượng tri thức đáng kể
về thế giới xung quanh do trẻ trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy và sờ thấy hoặc
do người lớn kể lại qua các câu chuyện, phim ảnh. Từ đó thế giới biểu tượng
của trẻ cũng phong phú dần lên và làm nảy sinh tính ham hiểu biết, hứng thú
nhận thức, muốn khám phá những điều mới lạ. Xuất phát từ đó trẻ bắt đầu
quan tâm đến các kiểu dáng, cách trang trí, thiết kế, bỗng kết hợp lại với nhau
21