Tải bản đầy đủ (.docx) (143 trang)

QUẢN LÝ GIÁO DỤC THẨM MĨ CHO TRẺ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH Ở CÁC TRƯỜNG MẦM NON THÀNH PHỐ HÒA BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.54 MB, 143 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI
----------------

NGUYN TH THC

Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua
hoạt động tạo hình ở các trờng Mầm non
Thành phố Hòa Bình

Chuyờn ngnh : Qun lý giỏo dc
Mó s

: 60.14.01.14

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Nguyn Th Yn Phng

1


HÀ NỘI - 2015LỜI CẢM

ƠN

Luận văn thạc sĩ này là một phần quan trọng trong quá trình đào tạo cao
học. Với tất cả tình cảm chân thành tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô
khoa Quản lí giáo dục, phòng sau đại học trường ĐHSP Hà Nội đã quan tâm
và tạo điều kiện cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin dành cho người hướng


dẫn của tôi, PGS.TS Nguyễn Thị Yến Phương, người đã luôn tận tình chỉ
dẫn, giúp đỡ, động viên và chia sẻ với tôi những kinh nghiệm quý báu trong
suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin được trân trọng cảm ơn quý nhà trường MN Tân Thịnh B, MN
Unicef, MN Dân Chủ, MN Phương Lâm, MN Yên Mông các thầy cô đã nhiệt
tình hợp tác và đóng góp những ý kiến quý báu cho bản thân tôi trong quá
trình thực hiện nghiên cứu thực trạng tại trường.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè và
đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, động viên tôi trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với những điểm mới, hy vọng luận văn này sẽ đóng góp tích cực vào
quản lý hoạt động sau đại học ở các nhà trường sư phạm, tuy nhiên luận văn
không thể tránh khỏi sự thiếu sót. Tôi nghĩ rằng để có một luận văn hoàn
chỉnh hơn, bản thân tôi còn phải nghiên cứu rất nhiều và cần có sự đóng góp ý
kiến, giúp đỡ của Hội đồng khoa học.
Tôi xin trân trọng cảm ơn và kính chúc tốt đẹp!
Hà Nội, ngày 22 tháng 9 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Thực

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Viết tắt
CBQL
GD
GD&ĐT
GV

GDTM
HS
HĐTH
MN
NT
NTTH
QLGD
QLNT
TCSP

Viết đầy đủ
Cán bộ quản lí
Giáo dục
Giáo dục và đào tạo
Giáo viên
Giáo dục thẩm mĩ
Học sinh
Hoạt động tạo hình
Mầm non
Nhà trường
Nghệ thuật tạo hình
Quản lý giáo dục
Quản lý nhà trường
Trung cấp Sư phạm

MỤ `C LỤC

3



DANH MỤC BẢNG

4


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

5


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục Quốc
dân, là nền tảng cho sự phát triển ở các giai đoạn tiếp theo. Mục tiêu của giáo
dục mầm non là giúp trẻ phát triển toàn diện các mặt giáo dục: Đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ, lao động. Làm tiền đề cho sự hình thành và phát triển
nhân cách con người trong xã hội hiện đại.
Giáo dục thẩm mĩ là một trong 5 lĩnh vực của chương trình giáo dục
Mầm non. Bởi trẻ ở lứa tuổi này đều có tâm hồn nhạy cảm với thế giới xung
quanh, vì ở đó chứa đựng bao điều mới lạ hấp dẫn. Trẻ thường tỏ ra dễ xúc
cảm với cảnh vật xung quanh, trẻ dễ bị cuốn hút trước đồ vật có nhiều màu
sắc, hay những bông hoa đẹp, bức tranh sinh động, đồ chơi ngộ nghĩnh…Từ
đó năng khiếu nghệ thuật thường được nảy sinh ngay từ tuổi ấu thơ. Vì vậy
việc giáo dục thẩm mĩ là điều kiện tốt nhất để ươm trồng những tài năng nghệ
thuật cho tương lai.
Hoạt động tạo hình trong trường Mầm non là một phương tiện phát
triển thẩm mĩ cho trẻ rất hữu hiệu. Thông qua hoạt động tạo hình giúp trẻ phát
triển các chức năng tâm lí như khả năng tri giác, phân tích, khái quát hóa các
sự vật hiện tượng xung quanh, từ đó buộc trẻ phải tư duy và quá trình đó làm
phát triển óc tưởng tượng sáng tạo, ham muốn tạo ra cái đẹp. Đây là yếu tố

cần thiết góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách.
Thực tiễn trong các trường Mầm non chưa quan tâm nhiều đến việc
giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Trong khi đó giáo dục thẩm mĩ có vai trò quan
trọng làm tăng khả năng tư duy, trí tưởng tượng sáng tạo và làm phong phú
thêm đời sống tinh thần cho trẻ. Đặc biệt là rèn cho trẻ kỹ năng cầm bút tô,
vẽ, tư thế ngồi tạo tiền đề và tâm thế tốt cho trẻ bước vào lớp một.

6


Với công tác quản lý giáo dục thẩm mĩ trong hoạt động tạo hình ở
trường Mầm non những năm qua đã được chú ý và đã đạt được những thành
tựu nhất định thông qua việc: Quản lý xây dựng và phát triển chương trình,
quản lý đổi mới hình thức dạy học. Tuy nhiên lại vẫn tồn tại những hạn chế
nhất định như việc giáo viên chỉ lựa chọn nội dung đưa vào kế hoạch giảng
dạy sao cho phù hợp với từng chủ đề. Bên cạnh đó việc quản lý sinh hoạt
chuyên môn bồi dưỡng chất lượng đội ngũ chưa được chú trọng nhiều, phần
nhiều các tổ chuyên môn mới chỉ thực hiện đủ số buổi sinh hoạt theo Điều lệ
2 lần/tháng nhưng chưa chú ý đến chất lượng, nội dung sinh hoạt chuyên môn
để bồi dưỡng giáo viên theo các chuyên đề và đổi mới chương trình giảng dạy
sao cho hiệu quả. Mặt khác việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trong các
nhà trường chưa đồng bộ, đồ dùng, đồ chơi ở các nhóm lớp mới chỉ đạt ở điều
kiện tối thiểu theo danh mục quy định, trang thiết bị hiện đại chưa được đầy
đủ, đồ dùng tự tạo theo các chủ đề thực hiện hẳng tháng, tuần, ngày chưa
phong phú và hấp dẫn trẻ em nên ảnh hưởng việc nâng cao chất lượng giảng
dạy của đội ngũ. Công tác kiểm tra, đánh giá các nhà trường đã quan tâm,
hằng năm xây dựng kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học, kiểm tra chất lượng
đầu năm, song mới chỉ là thực hiện theo kế hoạch, các biện pháp đánh giá
trong công tác quản lý, chất lượng đội ngũ, sự phát triển khả năng của trẻ ở
từng lĩnh vực chưa có sự đổi mới, đôi lúc dẫn đến kết quả chưa thực sự chính

xác và khách quan, chất lượng các nhà trường có phần chưa đáp ứng được với
những yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Hiện nay có một số công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động trong
trường Mầm non nhưng chỉ tập trung vào nghiên cứu việc chăm sóc nuôi
dưỡng giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng; giáo dục kỹ năng sống; dạy trẻ phát
triển ngôn ngữ qua thơ truyện; tổ chức hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ vừng
dân tộc thiểu số hay giáo dục trẻ nói chung hoặc khi đề cập đến một khía cạnh
7


nào đó của hoạt động quản lý tổ chức hoạt động tạo hình. Tuy nhiên đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu về quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua
hoạt động tạo hình cho trẻ lứa tuổi Mầm non.
Xuất phát từ lý do trên tôi đã tiến hành nghiên cứu và chọn đề tài
"Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở các
trường Mầm non Thành phố Hòa Bình”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng, đề xuất các biện
pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở các
trường Mầm non Thành phố Hòa Bình nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ ngay từ tuổi ấu thơ.
3. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở
trường Mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo
hình ở các trường Mầm non - Thành phố Hòa Bình.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình ở

trường Mầm non đã đạt được nhiều thành tựu nhưng vẫn còn những tồn tại
như: Quản lý đầu tư và sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học trong các nhà
trường chưa hiệu quả; Chỉ đạo thiết kế và tổ chức thực hiện nội dung chương
trình chưa đáp ứng tốt mục tiêu đặt ra; Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ
giáo viên...Vì vậy nếu đề xuất được các biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ
cho trẻ thông qua tạo hình phù hợp thì sẽ nâng cao được chất lượng giáo dục
thẩm mĩ ở trường Mầm non.
8


5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ
thông qua hoạt động tạo hình ở trường Mầm non.
5.2. Khảo sát thực trạng quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua
hoạt động tạo hình ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông
qua hoạt động tạo hình ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng trong
việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo (từ 3- 5 tuổi) thông qua hoạt động tạo
hình ở một số trường Mầm non Thành phố Hòa Bình.
6.2. Địa bàn nghiên cứu
- Nghiên cứu tại 05 trường Mầm non trên địa bàn Thành phố Hòa Bình:
+ Trường Mầm non Phương Lâm – Phường Phương Lâm
+ Trường Mầm non Unicef – Phường Hữu Nghị
+ Trường Mầm non Tân Thịnh B – Phường Tân Thịnh
+ Trường Mầm non Dân chủ – Xã Dân Chủ
+ Trường Mầm non Yên Mông – Xã Yên Mông
6.3. Khách thể khảo sát

- Nghiên cứu 45 người
+ Cán bộ quản lý: 15 người
+ Giáo viên: 30 người
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc, tìm hiểu, nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, khái quát và hệ thống
hóa các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài, nhận định của các nhà khoa học
về vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
9


7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát
- Quan sát đàm thoại: Đàm thoại với cán bộ quản lý, giáo viên và trẻ ở
trường Mầm non.
- Quan sát và ghi biên bản: Dự giờ, qua sát quá trình hoạt động tạo
hình của cô giáo và trẻ.
- Xử lý từng bảng, lập kết quả tổng hợp: Lập bảng tổng hợp kết quả
- Định lượng kết quả quan sát nghiên cứu (qua bảng số và sơ đồ): Sử
dụng một số công thức toán học để xử lý các số liệu.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu
Lập phiếu hỏi (xác định loại câu hỏi phù hợp với người được hỏi).
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
- Kiểm tra thực tế sản phẩm hoạt động tạo hình qua vè, nặn, xé dán,
làm đồ dùng, đồ chơi của cô giáo và trẻ.
7.2.4. Phương pháp chuyên gia
Sử dụng các bước để xin ý kiến chuyên gia:
- Bước 1: Xác định tiêu chí và xin ý kiến về phiếu điều tra
- Bước 2: Lựa chọn chuyên gia (số lượng, thành phần). Các chuyên gia
có nhiều công trình nghiên cứu trong giáo dục mầm non và đóng góp xây

dựng chương trình giáo dục mầm non mới.
- Bước 3: Xin ý kiến chuyên gia về xử lý kết quả của phiếu điều tra.
7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Sử dụng các công thức toán học để xử lý các số liệu đã thu được làm
tăng tính chính xác của các số liệu điều tra.

10


8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục. Luận văn bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt
động tạo hình cho trẻ ở trường Mầm non.
- Chương 2: Thực trạng về quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt
động tạo hình cho trẻ ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình.
- Chương 3: Các biện pháp quản lý giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt
động tạo hình cho trẻ ở các trường Mầm non – Thành phố Hòa Bình.

11


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC THẨM MĨ CHO TRẺ
MẪU GIÁO THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TẠO HÌNH
Ở TRƯỜNG MẦM NON
1.1. Tổng quan nghiên cứu vân đề
* Một số công trình nghiên cứu ở nước ngoài:
Các nhà tâm lí, giáo dục ở Liên xô cũ có nhiều công trình nghiên cứu

về vấn đề giáo dục thẩm mĩ cho trẻ em thông qua HĐTH. Các tác giả như:
N.P.Xaculinna, N.A.Vetlughina, E.A.Kôtxakopxkaia đã đưa ra chương trình,
nội dung, phương pháp dạy trẻ mẫu giáo ở các dạng HĐTH khác nhau như
vẽ, nặn, xé dán, gấp giấy, làm đồ chơi... Các tác giả đều thấy được vai trò của
sản phẩm NTTH đối với sự phát triển thẩm mĩ ở trẻ em và đưa ra các biện
pháp cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
Trong công trình nghiên cứu“Phương pháp dạy trẻ em MG vẽ, lắp
ghép và cắt dán” tác giả N.A.Vetlughina, ngoài việc giới thiệu các phương
pháp, biện pháp dạy trẻ vẽ, lắp ghép và cắt dán, tác giả còn chú trọng đến
mảng nghệ thuật dân gian với nội dung dạy trang trí. Tác giả đã chỉ cho giáo
viên cách khai thác những bức vẽ trang trí dân gian Nga để dạy trẻ vẽ.
Tác giả N.P.Xaculinna trong tác phẩm “Phương pháp dạy trẻ HĐTH và
chắp ghép” rất chú trọng việc đưa những sản phẩm NTTH, cụ thể là các
nguồn tranh ảnh, hiện vật vào môi trường hoạt động của trẻ trong các loại
hình và các hình thức tổ chức HĐTH khác nhau. Đồng thời chỉ ra cho cô giáo
mầm non những phương pháp, thủ thuật hướng dẫn trẻ làm quen với các sản
phẩm NTTH.
Tác giả E.A. Kôtxakopxkaia nghiên cứu về “Dạy nặn trong trường
MG”, thấy rằng trẻ rất hứng thú với sản phẩm nghệ thuật nặn. Đây cũng là
12


một trọng những dạng hoạt động tạo hình được trẻ mầm non yêu thích. Tác
giả chỉ ra vai trò của nó đối với sự phát triển khiếu thẩm mĩ, mở rộng tầm
hiểu biết làm phong phú trí tưởng tượng của trẻ và là một trong những biện
pháp giáo dục thẩm mĩ.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu về nghệ thuật dân gian, các nhà tác giả:
E.I.Kovanxkoi, E.I. Vaxilieva...đã chứng minh và thấy được ảnh hưởng to lớn
của chúng tới sự phát triển năng lực thẩm mĩ của trẻ em. Theo họ thì nó vừa
đáp ứng được nhu cầu của trẻ, lại vừa là “nguồn dinh dưỡng giàu có” cho khả

năng tri giác nghệ thuật và chúng có tác động tới sự phát triển những rung
động thẩm mĩ của trẻ em.
Cũng về vấn đề này, nhà giáo dục học Xô viết D.A. Bogacheva đã
nghiên cứu về việc sử dụng nghệ thuật trang trí ở nước mình. Trong cuốn
“Cắt dán trang trí theo kiểu dân tộc ở mẫu giáo” bà cũng đã hướng dẫn cho
giáo viên cách đưa trang trí dân tộc vào việc dạy trẻ mẫu giáo trong hoạt động
tạo hình.
*Một số công trình nghiên cứu ở Việt Nam:
Ở Việt Nam bắt đầu từ những năm 50 của thế kỷ trước đã có một số tác
phẩm mang mầu sắc của nghệ thuật tạo hình. Tuy nhiên trong thời gian đầu
không thấy đề cập rõ đến khái niệm giáo dục thẩm mĩ, nên khi nghiên cứu nội
dung giáo dục thẩm mĩ được gắn với giáo dục nghệ thuật (giáo dục âm nhạc
và giáo dục tạo hình). Những năm 60- 70 một số tài liệu dịch, biên soạn để
giảng dạy nội bộ, giáo dục thẩm mĩ được dùng với thuật ngữ “mĩ dục”. Mĩ
dục được quan niệm là “giáo dục về cái đẹp”, là công tác “giáo dục thẩm mĩ”.
Những năm 80 đến nay, nội hàm của khái niệm giáo dục thẩm mĩ được xem
xét trên nhiều bình diện khác nhau, xuất phát từ hai khái niệm gốc: Khái niệm
giáo dục và khái niệm thẩm mĩ. Quá trình hình thành và phát triển mặt thẩm

13


mĩ ở con người có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau: Góc độ xã
hội, góc độ phát triển nhân cách, phát triển thẩm mĩ của nhân cách.
Nghiên cứu chuyên sâu và bài bản về giáo dục thẩm mĩ được tiến hành
từ thập kỷ 90 đã có một hệ thống đề tài nghiên cứu cả từ góc độ lí luận, thực
tiễn về giáo dục thẩm mĩ, bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu thực tiễn,
nghiên cứu ứng dụng triển khai, kết quả nghiên cứu đã góp phần hình thành
hệ thống giáo dục chung về giáo dục thẩm mĩ ở nước ta.
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc giáo

dục thẩm mĩ. Tiêu biểu như: GS Đỗ Xuân Hà (1990) và các cộng sự. Các tác
giả đã đi sâu làm rõ vai trò của giáo dục thẩm mĩ. Tác giả Lê Quang Vinh
nghiên cứu về "Giáo dục thẩm mĩ ở nước ta hiện nay". Tác giả Nguyễn Thị
Yến Phương đã nghiên cứu về giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non thông qua
hoạt động tạo hình. Tác giả Ngô Tú Hiền nghiên cứu "Giáo dục thẩm mĩ công cụ quan trọng để xây dựng nhân cách có văn hóa trong văn hóa giáo dục
- giáo dục và văn hóa". Tác giả Lê Thanh Thủy đã quan tâm tới việc cho trẻ
làm quen với tác phẩm nghệ thuật tạo hình...
Tác giả Đỗ Xuân Hà khi nghiên cứu về vấn đề giáo dục thẩm mĩ cho
học sinh bằng nghệ thuật tạo hình đã khẳng định vai trò của các tác phẩm
nghệ thuật tạo hình và chú trọng tới nghệ thuật dân tộc : “Các tác phẩm nghệ
thuật có thể đưa vào vốn kinh nghiệm cá nhân của con người ngày nay cái
kho tàng to lớn, bất tận những tình cảm tốt đẹp của tổ tiên và bằng cách đó,
nghệ thuật sẽ nhân đạo hoá con người, làm cho tình cảm của họ phát triển tốt
đẹp hơn, trí tuệ của họ thông minh hơn”. Tác giả Đỗ Xuân Hà cũng đưa ra các
nguyên tắc giáo dục thẩm mĩ bằng nghệ thuật tạo hình, trong đó ông đề cao
nguyên tắc: “Đi từ văn hoá - nghệ thuật dân tộc tới văn hoá - nghệ thuật của
toàn nhân loại.” [11;97]

14


Trong những năm gần đây đã có một số luận văn thạc sỹ nghiên cứu về
vấn đề giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua HĐTH như: Tác giả Đàm Thị
Hoài Dung cho trẻ làm quen với các bố cục hoa văn dân tộc thông qua hoạt
động xếp dán tranh trang trí; Ths Ngô Minh Tâm nghiên cứu các biệp pháp
bồi dưỡng cho giáo sinh TCSP Mầm non khả năng sử dụng sản phẩm thủ
công mỹ nghệ truyền thống trong tổ chức môi trường HĐTH cho trẻ; Ths
Kiều Thị Hồng Thủy nghiên cứu một số biện pháp cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
làm quen với nghệ thuật tạo hình truyền thống ở tỉnh Hoà Bình; TS Nguyễn
Thị Yến Phương nghiên cứu Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo lớn (5-6

tuổi) qua hoạt động tạo hình ở trường mầm non...
Việc quản lý giáo dục mầm non là nội dung được nhiều người quan
tâm, đặc biệt là các nhà quản lý giáo dục. Bởi đây là một trong những nội
dung trọng tâm trong công tác quản lý. Chính vì vậy các nhà khoa học đã thể
hiện trong các công trình nghiên cứu: Tác giả Đinh Văn Vang Một số vấn đề
quản lý trường mầm non; Với đề tài Đổi mới quản lý cơ sở giáo dục mầm non
ngoài công lập trong quá trình hội nhập quốc tế, tác giả Trần Thị Ngọc Trâm
cùng một số tác giả khác đã khẳng định quản lý cơ sở GDMN nói chung và
quản lý cơ sở GDMN NCL nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục. Đề tài đã làm rõ hệ thống cơ sở lý luận về quản
lý giáo dục MN ngoài công lập và đưa ra những giải pháp quản lý nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý cơ sở GDMN ngoài công lập.
Hai tác giả Hoàng Văn Cân và Huỳnh Văn Sơn trong nghiên cứu Một
số giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu cầu giáo dục Mầm non
tại TP Hồ Chí Minh đã đề cập đến một số giải pháp phát triển giáo dục Mầm
non nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục mầm non tại TP Hồ Chí Minh. Đó là việc
quy hoạch, lập kế hoạch phát triển đội ngũ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
của giáo dục mầm non trong giai đoạn mới.
15


Như vậy, việc quản lý giáo dục trong các trường Mầm non nói chung
và giáo dục thẩm mĩ qua hoạt động tạo hình cho trẻ Mầm non nói riêng đã thu
hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, bởi đây là một nội dung trọng
tâm trong công tác quản lý của các nhà trường. Chính vì vậy đã có các công
trình nghiên cứu khẳng định vai trò to lớn của các tác phẩm tạo hình đối với
hình thành và phát triển ở trẻ em những cảm xúc, tình cảm thẩm mĩ, năng lực
nghệ thuật và phẩm chất nhân cách con người mới. Tuy nhiên, quản lý giáo
dục thẩm mĩ trong trường mầm non nói chung và quản lý giáo dục thẩm mĩ
thông qua hoạt động tạo hình ở trường mầm non nói riêng là một hướng

nghiên cứu mới đòi hỏi cần phải tổng hợp và phân tích các cơ sở lý luận đã có
trước đó về quản lý giáo dục thẩm mĩ ở trường Mầm non và giáo dục thẩm mĩ
thông qua hoạt động tạo hình cho trẻ Mầm non.
1.2. Trường mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, trường mầm non nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ độ tuổi nhà trẻ và mẫu giáo.
1.2.1. Vị trí, vai trò của trường mầm non
- Nhà trường, nhà trẻ có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con dấu riêng.
- Nhà trường, nhà trẻ hỗ trợ các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập trên
cùng một địa bàn theo sự phân công theo sự phân công của cấp co thể quyền.
- Nhà trường đảm nhận việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
“Giúp trẻ phát triển về thể chất, ngôn ngữ, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ và hình
thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người, chuẩn bị tâm thế cho
trẻ vào lớp một”.
1.2.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của trường Mầm non
- Tổ chức thực hiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng
tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo dục và Đào
tạo ban hành.
16


- Huy động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; tổ chức giáo dục hòa
nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật; thực hiện phổ cập
giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Hàng năm, tự kiểm tra theo tiêu chuẩn quy
định về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ năm tuổi , báo cáo cấp có thẩm
quyền bằng văn bản.
- Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật.
- Xây dựng cơ sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa hoặc

theo yêu cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn.
- Phối hợp với gia đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt
động nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
- Tổ chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia
hoạt động xã hội trong cộng đồng.
- Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ
em theo quy định.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
1.3. Giáo dục thẩm mĩ thông qua hoạt động tạo hình ở trường mầm non
1.3.1. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ ở trường Mầm non
1.3.1.1. Khái niệm về giáo dục thẩm mĩ
Trong thực tế có rất nhiều quan điểm khác nhau bàn về giáo dục thẩm
mĩ về bản chất của cái đẹp, cái thẩm mĩ.
Theo quan điểm của mĩ học Mác - Lênin thì giáo dục thẩm mĩ được coi
là một loại hình giáo dục đặc thù tương ứng với các loại hình giáo dục khác,
nó có nhiệm vụ phát triển một năng lực đặc thù ở con người: năng lực thẩm
mĩ. Như vậy, giáo dục thẩm mĩ có tư cách là một bộ phận cấu thành của hệ
thống giáo dục xã hội, hệ thống có nhiệm vụ giáo dục để phát triển toàn diện
17


con người. Giáo dục thẩm mĩ, hiểu theo nghĩa rộng, chính là sự hình thành
thẩm mĩ; nghĩa là không chỉ những hoạt động thẩm mĩ đặc thù, mà ngay cả
những hoạt động ngoài thẩm mĩ (chính trị, khoa học...) cũng đều phải mang
tính nhân văn, đều phải góp phần hoàn thiện con người văn hoá - thẩm mĩ.
Giáo dục thẩm mĩ giúp hình thành những năng lực hoạt động theo quy
luật của cái đẹp trong mọi hoạt động của xã hội và con người, bên cạnh đó
giáo dục thẩm mĩ cũng hình thành các năng lực thẩm mĩ với tính cách là
năng lực đặc thù. “Bản chất của giáo dục thẩm mĩ chính là bồi dưỡng lòng
khát khao đưa cái đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hòa giữa tự nhiên - con

người - xã hội, là quá trình tác động có định hướng và có ý thức của con
người nhằm hình thành và phát triển năng lực của chủ thể thẩm mĩ” [Đỗ Huy
(1987), Giáo dục thẩm mĩ - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Thông
tin lý luận [15;31].
Như vậy chúng ta có thể hiểu khái niệm Giáo dục thẩm mĩ là quá trình
hoạt động chung của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hình thành
và phát triển ở người được giáo dục những quan hệ thẩm mĩ đúng đắn với
hiện thực bằng cách thông qua các phương tiện thẩm mĩ, đặc biệt là phương
tiện nghệ thuật nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn diện hài hoà cho
người được giáo dục.
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thực chất là quá trình nhà giáo dục giúp đứa
trẻ biến đổi mình trở thành một chủ thể thẩm mĩ đích thực với quan hệ thẩm
mĩ đúng đắn được biểu hiện ở các dấu hiệu cơ bản sau:
1. Hình thành và phát triển được những tình cảm thẩm mĩ trong quá
trình cảm thụ và lĩnh hội cái đẹp trong nghệ thuật, trong tự nhiên, trong các
mối quan hệ xã hội, tạo được hứng thú đối với các khía cạnh thẩm mĩ của
hiện thực, cảm nhận và hiểu biết được cái đẹp trong những biểu hiện đa dạng
của nó.
18


2. Hình thành thị hiếu, lý tưởng thẩm mĩ đúng đắn.
3. Hình thành năng lực sáng tạo nghệ thuật, lòng ham muốn và khả
năng đem cái đẹp vào đời sống.
1.3.1.2. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non
Giáo dục thẩm mĩ là một trong những nội dung giáo dục quan trọng,
góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ và là một việc cần phải tiến hành
một cách nghiêm túc. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc động
đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay bổng
và phong phú, bởi vậy, đây là thời điểm lí tưởng cho việc thực hiện nội dung

giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Các nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ gồm có:
* Giáo dục ý thức thẩm mĩ:
Nội dung giáo dục thẩm mĩ đầu tiên nhà giáo dục cần hướng tới đó là
giáo dục ý thức thẩm mĩ. Thông qua nhiều hoạt động khác nhau ở trường
mầm non, đặc biệt là hoạt động tạo hình, giáo dục trẻ biết yêu quý cái đẹp, cái
tốt, phân biệt được cái thiện cái ác. Trẻ ý thức được việc giữ vẻ đẹp cho bản
thân trong hành động, trang phục hay cách ứng xử với bè bạn, người thân. Từ
đó hình thành cho trẻ ý thức bảo vệ cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày và
định hướng cho trẻ cảm xúc thẩm mĩ lành mạnh.
`* Giáo dục thái độ, tình cảm thẩm mĩ:
Giáo dục thái độ, tình cảm thẩm mĩ cho trẻ là một trong những nội
dung giáo dục quan trọng. Trẻ em mầm non là thời kì tình cảm, xúc cảm phát
triển mạnh mẽ nhất. Hoạt động tạo hình sẽ giúp trẻ phát triển khả năng cảm
thụ thẩm mĩ và bồi dưỡng những tình cảm thẩm mĩ trong sáng. Những vẻ đẹp
đa dạng của hình dáng, sự phong phú về mầu sắc của đồ vật, thiên nhiên và sự
lặp đi lặp lại của các yếu tố tạo hình như sự cân đối đa dạng về cấu trúc hình
dáng về tính truyền cảm của đường nét... đã thu hút hứng thú và gây cho trẻ
những xúc cảm. Tình cảm thẩm mĩ ở trẻ được nẩy sinh và trở nên sâu sắc
19


cùng với sự phát triển của cảm giác và sự phong phú của các biểu tượng, trẻ
tri giác thế giới xung quanh ngày càng có ý thức hơn. Dần dần trẻ có khả năng
cảm thụ, nhận thức đánh giá được vẻ đẹp hay không đẹp của các đồ vật, hiện
tượng trong thiên nhiên, cuộc sống và các tác phẩm nghệ thuật ở mức độ sơ
đẳng, được biểu hiện qua thái độ: thích hay không thích, yêu hay ghét, phân
biệt đẹp hay xấu.
* Giáo dục hành vi thẩm mĩ
Nội dung giáo dục hành vi thẩm mĩ được thực hiện việc chăm sóc, giáo
dục và làm quen với môi trường xung quanh diễn ra trong cuộc sống hàng ngày

của trẻ. Các hoạt động trong đời sống sinh hoạt sẽ làm nảy sinh những tình
huống để trẻ thể hiện hành vi đẹp, cách suy nghĩ, ứng xử, thái độ, việc làm cụ
thể. Bên cạnh đó, thông qua việc làm quen, tiếp xúc với các tác phẩm nghệ
thuật (tạo hình, âm nhạc, thơ truyện...) còn giúp trẻ cảm thụ sâu sắc hơn vẻ đẹp
của thiên nhiên, cuộc sống và các hành vi thẩm mĩ được củng cố, được trẻ vận
dụng vào việc xử lí tình huống có ý nghĩa cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
1.3.2. Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình
Giáo dục thẩm mĩ cho trẻ thông qua hoạt động tạo hình giúp trẻ cảm
thụ được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thể hiện qua ngôn ngữ đặc trưng
của dạng hoạt động này, đó là đường nét, hình dáng, mầu sắc, bố cục... được
thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật. Khi miêu tả đồ vật, hiện tượng trẻ
không chỉ miêu tả lại hình dáng một cách thụ động mà bằng cảm xúc tích cực
của trẻ, nảy sinh yếu tố sáng tạo. Góp phần tích cực trong việc hình thành ở
trẻ những thao tác tư duy như: phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hoá;
phát triển tư duy trực quan hình tượng và trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo.
Đồng thời quá trình hoạt động tạo hình, tình cảm, xúc cảm thẩm mĩ và ngôn
ngữ nghệ thuật của trẻ cũng phát triển.

20


* Giáo dục thẩm mĩ ở trường mầm non thông qua hoạt động vẽ
Trong các dạng họat động tạo hình ở trường mầm non, hoạt động vẽ là
một trong những nội dung tạo hình cơ bản góp phần giáo dục thẩm mĩ nhằm
phát triển toàn diện cho trẻ. Thông qua hoạt động vẽ, trẻ được phát triển các
giác quan như cảm giác, tri giác, phát triển khả năng cảm thụ và khả năng
sáng tạo, đồng thời khi vẽ còn là sự biểu lộ thái độ, tình cảm yêu ghét của trẻ
đối với thế giới xung quanh.
Đối với trẻ mầm non, thế giới xung quanh thật mới mẻ và lý thú, trẻ
luôn muốn thông qua mọi phương tiện để biểu đạt những cảm xúc của mình.

Trong điều kiện khả năng ngôn ngữ phát triển chưa hoàn thiện thì hội họa là
phương tiện để biểu đạt hiệu quả nhất, lý thú nhất, đặc biệt là với trẻ ở tuổi
mẫu giáo. Hơn thế nữa, tranh vẽ cũng là một phương pháp truyền đạt thông
tin khá hiệu quả của trẻ.
Ban đầu là những kiến thức, kỹ năng cơ bản, theo thời gian, qua luyện
tập, dần dần trẻ tích luỹ được kinh nghiệm và phát triển khả năng thẩm mĩ,
năng khiếu thẩm mĩ. Thế giới trong mắt trẻ thơ là một thế giới sinh động, rực
rỡ sắc màu và được trẻ thể hiện những điều trẻ muốn nói qua những “tác
phẩm nghệ thuật” mang dấu ấn của riêng mình. Những gì trẻ miêu tả trong
tranh vẽ thể hiện trí tưởng tượng vô cùng phong phú, đáng yêu và ngộ nghĩnh.
Màu sắc, đường nét mà trẻ vẽ nhiều khi phi lí, trái với thực tế nhưng lại vô
cùng có lí khi nghe trẻ lí giải đằng sau những nét vẽ ngộ nghĩnh, ngây thơ.
Khả năng thể hiện tư duy hình tượng và xúc cảm, tình cảm trong tranh vẽ của
trẻ được phát triển theo từng lứa tuổi.
Khả năng cảm nhận và thể hiện cách vẽ của trẻ có sự thay đổi rõ rệt về
cả tư duy cũng như trí tưởng tượng và sáng tạo tùy theo lứa tuổi. Điều đó cho
ta thấy hoạt động vẽ của trẻ mẫu giáo là hoạt động trẻ sử dụng hệ thống các
biểu tượng mĩ thuật mang tính hình học không gian đa dạng để thể hiện
21


những cảm xúc và tình cảm chính bản thân trẻ. Trẻ em nói chung đều thích vẽ
tranh mặc dù đó là những bức tranh vẽ theo cảm hứng, dẫu động tác còn vụng
về nhưng trẻ vẫn muốn thể hiện “tài năng” của mình. Trẻ được tự do tưởng
tượng, bộc lộ niềm vui, ý thích của mình trong tranh vẽ. Bởi vậy, người lớn,
đặc biệt là cô giáo mầm non cần hướng dẫn trẻ vẽ một cách phù hợp, đúng
với lứa tuổi kết hợp với rèn kỹ năng cơ bản để khai thác và phát huy được trí
tưởng tượng sáng tạo cũng như năng lực bên trong của trẻ. Những hoạt động
vẽ tranh đối với trẻ mẫu giáo vừa có giá trị giáo dục sâu sắc, vừa tích hợp
được tất cả các lĩnh vực phát triển khác và vẽ tranh còn giúp trẻ có được

những giây phút thư giãn, sáng tạo cũng như khả năng diễn đạt thông minh, dí
dỏm của trẻ. Ngoài ra, thông qua hoạt động này, các bậc cha mẹ, cô giáo còn
hiểu được những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của trẻ về thế giới xung
quanh, từ đó giúp trẻ thể hiện được sự hiểu biết phong phú về cuộc sống đời
thường thông qua những bức tranh của trẻ.
* Giáo dục thẩm mĩ ở trường mầm non thông qua hoạt động nặn
Nặn là một trong những dạng hoạt động tạo hình được trẻ yêu thích.
Khi trẻ 2-3 tuổi tuy cơ tay và vận động của bàn tay, ngón tay còn non nớt
vụng về nhưng trẻ rất thích nặn, thích chơi với đất nặn bởi tính mềm dẻo của
nó. Sang các độ tuổi lớn hơn, trẻ biết phản ánh thế giới đồ vật, đồ chơi xung
quanh vào hoạt động nặn.
Đặc biệt, tuổi mẫu giáo là lứa tuổi tràn ngập xúc cảm, phát triển trí tò
mò, trí tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng mạnh. Vì vậy đây là giai
đoạn tối ưu, là “mảnh đất” màu mỡ để gieo hành vi sáng tạo. Mọi trẻ em đều
tiềm ẩn năng lực sáng tạo, sự sáng tạo của trẻ không giống sự sáng tạo của
người lớn. Sáng tạo của người lớn là tạo ra cái mới, cái độc đáo, gắn với tính
chủ đích, có tính bền vững và thường là kết quả của quá trình nỗ lực tìm tòi...
Sự sáng tạo của trẻ em lại khác, thường bắt đầu bằng sự tái tạo, bắt chước, mô
22


phỏng và thường không có tính chủ đích. Sự sáng tạo của trẻ em phụ thuộc
nhiều vào cảm xúc, vào tình huống và thường kém bền vững. Bởi vậy, các sản
phẩm nặn của trẻ nhỏ chưa phải là những tác phẩm nghệ thuật thực thụ, mỗi
sản phẩm được trẻ tạo ra trong niềm say mê, yêu thích, là động cơ thúc đẩy
những tình cảm, xúc cảm thẩm mĩ trong sáng, lành mạnh, thường liên hệ với
các đồ vật quen thuộc và tự đặt tên cho nó, các đồ vật thường mang tính
tượng trưng khái quát.
* Giáo dục thẩm mĩ ở trường mầm non thông qua hoạt động xé dán
Xé dán đối với trẻ nhỏ khó hơn vẽ và nặn tuy nhiên, là một trong dạng

hoạt động tạo hình yêu thích của trẻ em đặc biệt là độ tuổi mẫu giáo. Xé dán
tranh là loại hoạt động tạo hình trên mặt phẳng. Sau khi được cắt, xé các hình
mảng sẽ dán lên nền giấy,....Giấy nền có thể là giấy màu hoặc là giấy trắng.
Bằng cách cắt, xé, dán hình có thể tạo thành tranh tĩnh vật, chân dung, phong
cảnh, tranh sinh hoạt và tranh về các con vật. Có thể nói, cùng với các dạng
hoạt động tạo hình khác, xé dán mang lại cho trẻ những cảm xúc thẩm mĩ tích
cực, góp phần hình thành thị hiếu thẩm mĩ cũng như giáo dục ý thức, hành vi
thẩm mĩ cho trẻ.
Trẻ mẫu giáo thích xé, dán, thích giấy mầu sắc rực rỡ. Trẻ đã có cảm
nhận về không gian, nhịp điệu trong cách sắp xếp các hình. Trẻ biết phân biệt
hình dáng của vật, sự đa dạng của các mầu và đã cố gắng thể hiện hình ảnh
một cách có cảm xúc. Cũng giống như hoạt động vẽ, hoạt động xếp dán tranh
là một loại hình của hoạt động tạo hình trong trường mầm non. Nó có tác
dụng lớn trong việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ. Hoạt động xếp dán tranh giúp
phát triển tri giác thị giác đặc biệt là tri giác không gian. Trẻ nắm bắt được
hình dạng, kích thước, định hướng không gian, đường nét. Việc trẻ suy nghĩ
cách sắp đặt, xê dịch các hình đã được cắt hoặc xé giúp trẻ hình dung lại cấu
trúc, hình dạng, kích thước, đường nét…của những hình ảnh đã ghi nhớ. Để
23


tạo ra một sản phẩm xếp dán tranh đòi hỏi trẻ cần có trí tưởng tượng phong
phú, đặc biệt là niềm say mê với hoạt động này.
* Giáo dục thẩm mĩ ở trường mầm non thông qua hoạt động làm đồ
dùng, đồ chơi tự tạo.
Hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi là dạng hoạt động tạo hình tuy không
mới nhưng không thường xuyên được cô giáo mầm non lựa chọn tổ chức
trong hoạt động học có chủ đích của trẻ. Đây là hoạt động cần phải chuẩn bị
nhiều đồ dùng, nguyên vật liệu và cần đến sự hướng dẫn, bàn tay khéo léo, sự
sáng tạo của giáo viên.

Tuy nhiên, hoạt động làm đồ dùng, đồ chơi mang lại ý nghĩa giáo dục
thẩm mĩ đặc biệt với trẻ, thu hút được sự quan tâm, sự say mê sáng tạo khi
được sử dụng các nguyên vật liệu phế thải, nguyên vật liệu thiên nhiên làm ra
đồ dùng, đồ chơi sử dụng hàng ngày cho trẻ.
Thế giới đồ vật, đồ chơi được phản ánh trong quá trình làm ra các sản
phẩm là đồ dùng, đồ chơi luôn tạo được sự hấp dẫn với trẻ. Đặc biệt với độ
tuổi mẫu giáo lớn, trong các hoạt động trẻ đã biết chú ý đến kết quả, cho nên
khi tham gia vào hoạt động này, trẻ luôn có khao khát, mong muốn tự làm
được một đồ dùng, đồ chơi nào đó. Tất nhiên để trẻ hoàn thành được công
việc này, trẻ cần đến sự hướng dẫn, giúp đỡ của cô giáo, của người lớn.
Vẻ đẹp của thế giới đồ vật, sự kết hợp hài hòa giữa các bộ phận, chi
tiết làm nên đồ dùng, đồ chơi luôn kích thích tính sáng tạo ở trẻ. Trẻ thật sự
ngạc nhiên và đôi khi thán phục khi được quan sát từ những lon sữa, ống
hút, mảnh xốp, sợi len, miếng vải vụn... dưới bàn tay khéo léo của cô giáo
tạo ra những con vật ngộ nghĩnh: gà, lợn, thỏ... hay những giỏ hoa, bình hoa,
trống lắc...Khi trẻ được trực tiếp tham gia vào quá trình đó, niềm vui sướng,
cảm hứng sáng tạo nảy nở, đây chính là điều kiện hình thành cho trẻ những
yếu tố sáng tạo, bồi dưỡng tình cảm thẩm mĩ và trẻ sẽ có ý thức giữ gìn, bảo
24


vệ đồ dùng, đồ chơi cũng như thành quả lao động nghệ thuật của chính bản
thân mình.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được hoạt động tạo hình góp phần quan
trọng trong giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mầm non. Thông qua hoạt động tạo hình
phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ thẩm mĩ và bồi dưỡng những xúc cảm thẩm
mĩ. Vẻ đẹp đa dạng của cuộc sống xung quanh, sự phong phú về mầu sắc của
đồ vật, thiên nhiên và sự lặp đi lặp lại của các yếu tố tạo hình như sự cân đối
đa dạng về cấu trúc hình dáng về tình truyền cảm của đường nét... đã thu hút
hứng thú và bồi dưỡng cho trẻ ý thức, hành vi thẩm mĩ và bồi dưỡng cho trẻ

tình cảm, xúc cảm thẩm mĩ trong sáng, lành mạnh.
1.4. Quản lý giáo dục thẩm mĩ cho trẻ ở trường Mầm non thông
qua hoạt động tạo hình
1.4.1. Quản lý
1.4.1.1. Khái niệm về quản lý
Khái niệm về Quản lí theo từ điển “Giáo dục học”: “Quản lý là hoạt
động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến khách
thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức”[18]
Như vậy: Quản lý là một hoạt động có chủ đích, là sự tác động liên tục
của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý về nhiều mặt bằng một hệ thống
các luật lệ, chính sách, nguyên tắc và các phương pháp cụ thể nhằm thực hiện
các mục tiêu xác định.
Trong quá trình quản lý, chủ thể tiến hành các hoạt động cơ bản như:
xác định mục tiêu, chủ trương, chính sách, kế hoạch; tổ chức thực hiện, điều
chỉnh các hoạt động để thực hiện các mục tiêu đề ra. Trong đó, mục tiêu quan
trọng nhất là nhằm tạo ra môi trường, điều kiện cho sự phát triển của đối
tượng quản lý.
25


×