Lời cảm ơn
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài tôi đã nhận được rất
nhiều sự giúp đỡ của các cá nhân và tổ chức.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến
PGS.TS. Đặng Văn Đức, người thày đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi
trong suốt quá trình thực hiện đề tài này, người đã cho tôi nhiều bài học quý
báu về phương pháp nghiên cứu khoa học, về lòng yêu nghề, sự nhiệt tình,
tâm huyết với công việc.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng sau Đại học và các
thày cô giáo khoa Địa lí – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường THPT Tây Hồ, cùng
toàn thể các đồng nghiệp, tập thể học sinh khối 12, đặc biệt lớp chủ nhiệm
12D đã quan tâm, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi điều tra, nghiên
cứu thực trạng và thực nghiệm sư phạm.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn những tình cảm quý báu của những
người thân trong gia đình, bạn bè đã cổ vũ động viên, tiếp thêm tinh thần và
nghị lực để tôi hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Thủy
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DHDA
Dạy học dự án
THPT
Trung học phổ thông
THCS
Trung học cơ sở
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
CNTT&TT
Công nghệ thông tin và truyền thông
KT – XH
Kinh tế - Xã hội
PP
Phương pháp
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Cấu trúc SGK Địa lí 12 cơ bản....................................................21
Bảng 2.1 : Phiếu điều tra nhu cầu của HS..................................................47
Bảng 2.2: Bảng hỏi đánh giá Tự định hướng và siêu nhận thức...............48
Bảng 2.3: Bảng hỏi: Tôi giúp nhóm của tôi bằng cách..............................49
Bảng 2.4 Xây dựng các bảng tiêu chí đánh giá và bảng cho điểm sản
phẩm HS.........................................................................................................50
Bảng 2.5 : Biểu mẫu 2:..................................................................................53
Bảng 2.6: Mẫu lịch trình của dự án.............................................................61
Bảng 2.7: Mẫu phân bố các hoạt động trong dự án...................................61
Bảng 2.8: Lĩnh vực và nội dung quản lí dự án............................................62
Bảng 2.9 : Mẫu kế hoạch thực thi dự án.....................................................62
Bảng 2.10: Công việc của GV và HS trong giai đoạn 2..............................63
Bảng 2.11: Công việc của GV và HS trong giai đoạn 3..............................65
Bảng 2.12: Công việc của GV và HS trong giai đoạn 4..............................66
Bảng 2.13 : Điều kiện dạy học tại lớp 12A4 – THPT Tây Hồ - Hà Nội....68
Bảng 2.14.: Kế hoạch đánh giá dự án nông nghiệp nghiệp hàng hóa.......69
Bảng 2.15. Lịch trình dự án Nông nghiệp hàng hóa Tây Hồ.....................71
MỤC LỤC
1.Lý do chọn đề tài..........................................................................................1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
1.1.Thực trạng dạy và học
Ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và công nghệ xuất hiện hết sức bất
ngờ và đổi mới một cách cực kì nhanh chóng. Theo đó hệ thống giáo dục
cũng đặt ra những yêu cần phải đổi mới. Nước ta đang trên con đường hội
nhập và phát triển nên đổi mới giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy
học là hết sức cần thiết. Luật giáo dục công bố năm 2005, điều 28.2 có ghi:
“Phương pháp dạy học phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập của học sinh”. Đổi mới giáo dục đòi hỏi nhà trường không
chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức đã có của nhân loại mà còn phải
bồi dưỡng, hình thành ở học sinh tính năng động, óc tư duy sáng tạo và kĩ
năng thực hành áp dụng, tức là đào tạo những người lao động không chỉ có
kiến thức mà phải còn có năng lực thực hành.
Để thực hiện các yêu cầu đó, giáo dục Việt Nam đã trải qua các cuộc
cải cách với nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn không ít tồn tại cần từng bước
khắc phục. Tài liệu chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010(2002, tr.14) đã
khẳng định: “ Chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục chậm đổi mới.
Chương trình giáo dục còn nặng tính hàn lâm, kinh viện, nặng về thi cử, chưa
chú trọng đến tính sáng tạo, năng lực thực hành và hướng nghiệp; chưa gắn
bó chặt chẽ với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội cũng như nhu cầu của
người học; chưa gắn bó chặt chẽ với nghiên cứu khoa học - công nghệ và
triển khai ứng dụng ”
1
1.2. Những đòi hỏi phát triển của xã hội
Hiện nay với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, kiến
thức không còn là tài sản riêng của trường học, học sinh có thể tiếp cận nguồn
thông tin từ nhiều kênh, nhiều nguồn khác nhau. Các nguồn thông tin phong
phú đa chiều mà người học có thể tiếp nhận được đã đặt giáo dục trước yêu
cầu cấp bách là cần phải đổi mới cách dạy và cách học. Vấn đề đặt ra với nhà
trường là làm thế nào để học sinh có thể làm chủ, tự lực chiếm lĩnh kiến thức,
tích cực, chủ động, sáng tạo, có kĩ năng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong
cuộc sống. Đó thực sự là một thách thức lớn đối với ngành giáo dục nói
chung, nhà trường, giáo viên nói riêng. Giáo viên không chỉ là người mang
kiến thức đến cho học sinh mà cần dạy cho học sinh cách tìm kiếm, chiếm
lĩnh kiến thức để đảm bảo cho việc tự học suốt đời.
1.3.Những đòi hỏi từ sự phát triển kinh tế
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: từ
nay đến năm 2020 chúng ta phải phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp hiện đại. Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đòi hỏi đất nước cần có nguồn nhân lực có
trình độ học vấn rộng, có thể thực hiện được nhiều nhiệm vụ và chuyên môn
hóa nhằm đảm bảo chất lượng công việc với hiệu quả cao.
Đáp ứng yêu cầu trên, người lao động phải năng động, sáng tạo, có kiến
thức và kĩ năng mang tính chuyên nghiệp, sẵn sáng gánh vác trách nhiệm,
dám chịu trách nhiệm là một trong những yếu tố quan trọng của người lao
động và là mối quan tâm hàng đầu của các tổ chức kinh doanh. Yêu cầu đối
với người lao động không chỉ đơn thuần là kiến thức mà còn là năng lực giải
quyết các vấn đề. Cách giải quyết vấn đề linh hoạt, sáng tạo trước các tình
huống khó khăn phức tạp của cuộc sống và sự dám chịu trách nhiệm không
phải là những phẩm chất sẵn có ở mỗi con người mà nó được hình thành và
2
phát triển trong quá trình giáo dục. Như vậy là đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho sự phát triển. Ngành giáo dục không ngừng đổi mới trong đó cần quan
tâm đến đổi mới phương pháp dạy học để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
1.4. Tâm sinh - lý người học
Các nhà giáo dục đã nghiên cứu hơn một phần tư thế kỉ và họ đã chứng
minh rằng: mỗi học sinh đều có một cách học theo sở thích riêng hay còn gọi
là phong cách học. Có học sinh thích học theo cách nghiên cứu tài liệu, phân
tích dựa trên lí thuyết, có học sinh thích học qua trải nghiệm, khám phá, làm
thử, có học sinh thích học qua thực hành áp dụng, có học sinh thích học qua
quan sát...Nếu như dạy học không quan tâm đến đặc điểm người học, giáo
viên truyền thụ một chiều, dạy kiến thức mang tính thông báo đồng loạt thì sẽ
hạn chế khả năng tiếp thu của người học, người học hoàn toàn thụ động trong
việc lĩnh hội kiến thức, đồng thời cũng sẽ thụ động trước những thách thức
khó khăn của cuộc sống. Vì vậy cần thiết phải có những phương pháp dạy học
phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.
1.5. Ở nước ta, mục tiêu giáo dục với quan điểm giáo dục toàn diện,
chú trọng bốn mặt: trí, đức, thể, mĩ nhằm đào tạo những người lao động
mới có khả năng xây dựng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Luật giáo dục năm 2005 nhấn mạnh cần thiết phải đổi mới phương
pháp dạy và học theo hướng tích cực. Song hành cùng xu thế hội nhập, nền
giáo dục Việt Nam đã bước đầu tiếp cận với một số phương pháp giáo dục
tiên tiến của thế giới. Phương pháp dạy học dựa trên dự án, từ lý luận đến
thực tiễn đã bước đầu chứng minh là một trong những công cụ hiệu quả, đáp
ứng được mục tiêu đổi mới giáo dục hiện nay của nước ta, góp phần đào tạo
những con người năng động sáng tạo, có năng lực tổ chức, có kĩ năng giao
tiếp, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn sinh động. Có thể khẳng định rằng
3
Dạy học dự án, nếu được thiết kế và tổ chức thực hiện đúng đắn sẽ là công cụ
hữu hiệu để thực hiện phương châm: “Học đi đôi với Hành, Lí luận gắn liền
với Thực tiễn”; mang lại niềm hứng khởi trong học tập, tạo điều kiện cho học
sinh tự đánh giá bản thân, nhận diện đúng sở trường, nắm bắt được nhu cầu xã
hội, từ đó định hướng nghề nghiệp đúng đắn và phù hợp. Đồng thời góp phần
tích cực trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, tạo cơ hội cho học
sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng
tạo vào thực tế cuộc sống.
1.6. Môn Địa lí lớp 12
Trang bị cho học sinh những vấn đề rất cơ bản và sâu sắc về tự nhiên
và kinh tế - xã hội, đó cũng là vấn đề của thực tiễn đang diễn ra ở nước ta.
Đồng thời Địa lí 12 – một môn học cuối cấp thể hiện mối quan hệ liên môn
thật đặc trưng và sâu sắc. Vì vậy, có thể khẳng định: nội dung, chương trình
Địa lí 12 có những điều kiện tối ưu trong thiết kế và thực hiện các dự án, là
địa chỉ phù hợp nhất để thực hiện dạy học dự án trong tương quan so sánh với
môn Địa lí ở các cấp, lớp khác cũng như với các môn học khác. Ngược lại
PPDA sẽ tạo điều kiện thể hiện tốt nhất đặc trưng khoa học của môn học, giúp
hoàn thành hiệu quả mục tiêu tổng quát và cụ thể của chương trình, SGK Địa
lí 12-THPT.
Với HS lớp 12 – sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành những công dân thực
thụ, đứng trước những vấn đề cấp bách của Việt Nam và thế giới cần có nhận
thức và hành vi đúng đắn, nhiều ngả đường nghề nhiệp cần có sự lựa chọn
chính xác, nhiều khó khăn, tồn tại của đất nước cần có sự tham gia góp phần
giải quyết. Đồng thời nhận thức được chính xác tiềm năng, thế mạnh của đất
nước để tìm cách phát huy....PP dự án là lựa chọn tối ưu có thể góp phần hình
thành các giá trị trên. Ngược lại, HS lớp 12 – lứa tuổi cuối cấp THPT có đủ
điều kiện và năng lực nhất để thực hiện các dự án học tập.
4
Với những lí do trên tôi mạnh dạn đề xuất nghiên cứu đề tài ”Vận
dụng phương pháp dự án trong dạy học Địa Lí lớp 12 – THPT theo
hướng tích cực” với mong muốn: góp phần hoàn thiện hơn việc xác định PP
phù hợp và hiệu quả trong dạy học Địa lí nói chung và Địa lí 12 nói riêng,
khẳng định giá trị môn Địa lí Tổ quốc trong nhà trường phổ thông, góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học.
2.Lịch sử nghiên cứu đề tài
Phương pháp dạy học theo dự án đã được các nhà nghiên cứu lí luật
giáo dục Việt Nam tiếp cận và giới thiệu trong một số cuốn sách, luận văn,
các tài liệu tập huấn cũng như các bài báo, cụ thể:
Phương pháp DHDA đã được trình bày trong giáo trình ”Lí luận dạy
học Địa lí đại cương” và trong cuốn sách “Phương pháp dạy học điạ lí theo
hướng tích cực” của PGS.TS. Đặng Văn Đức. Trong tài liệu Dạy học Project
hay dạy học theo dự án và một số tài liệu tập huấn về Lí luận giáo dục dạy
học hiện đại các tác giả Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier đã đề cập khá rõ
vấn đề DHDA.
Một số đề tài luận văn tốt nghiệp cũng đã đi sâu tìm hiểu vấn đề DHDA
ví dụ như: Tổ chức dạy học dự án một số kiến thức chương chất rắn và chất
lỏng, sự chuyển thể trong SGK Vật lí 10 BCB(Nguyễn Thị Phương Dung);
Vận dụng phương pháp dự án trong dạy học Tiếng việt 4 cho học sinh khá
giỏi(Châu Thị Lan Chi);Tổ chức dạy học dự án”sử dụng năng lượng mặt
trời” cho học sinh lớp 11(Nguyễn Cao Cường); Tổ chức DHDA các nội dung
kiến thức chương”Mắt-các dụng cụ quang học”trong SGK Vật lí 11(Trần Thị
Hải); Tổ chức DHDA giáo dục vì sự phát triển bền vững tronng chương trình
SGK Địa lí 10(Nguyễn Thị Thúy Hường).
Trên các báo, tạp chí và kỉ yếu hội thảo khoa học đã xuất hiện một số
bài viết về DHDA, đáng chú ý là bài viết Sử dụng sơ đồ tư duy trong DHDA
5
các nội dung kiến thức chương từ trường môn Vật lí 9 của tác giả Trần Văn
Thành; Vận dụng DHDA trong ứng dụng kĩ thuật của Vật lí của Đỗ Hương
Trà, Phạm Văn Ngọc; Sử dụng phương pháp DHDA có ứng dụng CNTT ở
trường phổ thông của tác giả Trần Thị Thanh Thủy.
Các tài liệu tập huấn của các dự án đào tạo kĩ năng cho GV của Bộ
Giáo Dục và các tập đoàn lớn như: Chương trình dạy học Intel của tập đoàn
Intel Việt Nam, chương trình Partners in learning của tập đoàn Microsoft,
dự án Việt – Bỉ áp dụng cho 17 tỉnh miền núi phía Bắc...đã đề cập ở mức độ
khác nhau đến DHDA...Từ đó khẳng định được hiệu quả của việc vận dụng
PP dự án thông qua các môn học, các chuyên đề trên.
Các nghiên cứu vận dụng DHDA trong môn Địa lí ở trường THCS và
trường THPT cũng không kém phần phong phú và đa dạng qua các Khóa luận
tốt nghiệp của học viên cao học, SV khoa Địa lí, cụ thể: Tổ chức cho học sinh
thực hiện các dự án về biến đổi khí hậu với sự hỗ trợ của Internet trong dạy
học Địa lí lớp 6 – THCS, Luận văn thạc sĩ Khoa học Giáo dục, trường ĐHSP
Hà Nội; Nguyễn Hoàng Linh(2010): Giáo dục du lịch bền vững qua môn Địa
lí 12-chương trình cơ bản bằng phương pháp dạy học dự án, Khóa luận tốt
nghiệp chuyên ngành phương pháp giảng dạy khoa Địa lí, ĐHSP Hà Nội;
Trần Thị Mai Vân(2010) Giáo dục biến đổi khí hậu qua môn Địa lí
12(chương trình cơ bản)bằng phương pháp dạy học dự án, khóa luận tốt
nghiệp chuyên ngành phương pháp giảng dạy khoa Địa lý, ĐHSP Hà Nội...
Thông qua thực nghiệm, các tác giả đã phần nào khẳng định được hiệu quả
dạy học dự án trong dạy học Địa lí nói chung và giáo dục các vấn đề thông
qua môn Địa lí nói riêng.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công
trình nêu trên, đề tài của tôi đã vận dụng để giải quyết một nhiệm vụ nghiên
6
cứu cụ thể - “Vận dụng phương pháp dự án trong dạy học Địa lí lớp 12 –
THPT theo hướng tích cực”
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Nghiên cứu cách thức vận dụng phương pháp DHDA
trong môn Địa lí 12 có hiệu quả nhằm đổi mới phương pháp theo hướng phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, phát triển năng lực của học
sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở trường Trung học phổ thông.
- Nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc thiết kế và tổ chức
thực hiện các dự án trong dạy học Địa lí 12
Xác định được hệ thống và cách thức thiết kế các dự án trong dạy
học Địa lí 12.
Thiết kế một số dự án trong dạy học Địa lí 12
Tổ chức thực hiện các dự án trong dạy học Địa lí 12
Thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng tính khả thi và hiệu quả
của đề tài nghiên cứu.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cách thức và phương pháp tổ chức cho học sinh
thực hiện các dự án trong dạy học Địa lí lớp 12 – THPT theo hướng tích cực.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ hiệu quả phương pháp dạy học
theo dự án thông qua môn Địa lí 12
+ Thiết kế và tổ chức một số dự án tiêu biểu trong chương trình Địa lí
12 – THPT
Căn cứ vào nội dung chương trình địa lí lớp 12, căn cứ vào những vấn
đề thực tiễn đất nước, các khu vực và địa phương liên quan, chúng tôi tập
trung vào các vấn sau đây:
7
Vấn đề Địa lí tự nhiên: Bài đại diện: Bài 15. Bảo vệ môi trường và
phòng chống thiên tai
Vấn đề địa lí dân cư: Bài đại diện: Bài 17. Lao động và việc làm
Vấn đề Địa lí các ngành kinh tế: Bài đại diện: Bài 21. Đặc điểm nền
nông nghiệp nước ta.
Vấn đề Địa lí các vùng kinh tế và Địa lí địa phương: Bài đại diện:
Bài 33: Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng Đồng bằng sông Hồng.
5.Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã vận dụng phối hợp các phương pháp,
trong đó có các phương pháp chủ yếu sau:
5.1.Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết
-Phương pháp hệ thống cấu trúc: Phương pháp này coi quá trình dạy
học là một hệ thống, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ tương hỗ và tạo
nên cấu trúc chặt chẽ. Nghiên cứu chương trình Địa lí 12 trong mối quan hệ
với toàn bộ chương trình Địa lí phổ thông, đặc biệt trong mối tương quan trực
tiếp với chương trình Địa li lớp 8 và lớp 9; nghiên cứu tâm – sinh lí lứa tuổi
HS 12; nghiên cứu điều kiện dạy học Địa lí 12 hiện tại. Trên cơ sở đó xác
định hệ thống các đề tài dự án trong mối liên quan với thực tiễn địa phương,
đất nước, từ đó xác định quy trình thiết kế và thực hiện các dự án Địa lí 12 có
hiệu quả.
-Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Nghiên cứu lịch sử phát triển PP dạy
học dựa trên dự án, làm sáng tỏ những khả năng và hiệu quả của việc áp dụng
phương pháp dự án vào dạy học ở trường phổ thông. Nghiên cứu thực trạng
việc áp dụng phương pháp dự án thông qua môn Địa lí 12 ở một số trường
THPT và tìm ra hướng đi thích hợp cho đề tài.
-Phương pháp nghiên cứu các công trình lí luận có liên quan đến đề
tài: Phương pháp được sử dụng để nghiên cứu các công trình, các cuốn sách,
8
các phương pháp, các đề tài, các khóa luận tốt nghiệp ... là nguồn tư liệu tham
khảo chủ yếu giúp tác giả xác lập được cơ sở khoa học của dạy học dự án, từ
đó xây dựng phương pháp thiết kế và thực hiện các dự án trong môn Địa lí 12.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Phương pháp này nhằm
nghiên cứu tổng hợp các tài liệu trong và ngoài nước, các vấn đề liên quan
đến DHDA, thiết kế và tổ chức các dự án. Từ đó tìm ra phương thức tối ưu
trong thực thi phương pháp DHDA trong dạy học Địa lí 12.
5.2.Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra giáo dục: Phương pháp này vận dụng để xây
dựng các bảng hỏi, điều tra đại trà, trả lời tự nguyện để điều tra tình hình áp
dụng phương pháp DHDA và tính khả thi một số dự án Địa lí 12 do người
nghiên cứu sản xuất.
- Phương pháp chuyên gia: Các vấn đề của đề tài được đem gia tham
khảo ý kiến và thảo luận với các chuyên gia giáo dục, cán bộ chương trình,
giáo viên...những người quan tâm, có nhiều kiến thức, kinh nghiệm trong
DHDA và vận dụng trong Địa lí 12.
- Phương pháp thực nghiệm: Phương pháp thu thập và xử lý các thông
tin về thực trạng thiết kế và thực hiện các dự án Địa lí 12 ở một số trường
THPT làm cơ sở thực tiễn cho đề tài nghiên cứu. Đồng thời thu thập các đánh
giá của giáo viên và học sinh THPT về PP dự án và tính khả thi của một số dự
án Địa lí 12 do người nghiên cứu đề xuất.
- Phương pháp quan sát sư phạm: Sử dụng phương pháp này để thu thập
thông tin hỗ trợ cho việc đánh giá về thực trạng và đánh giá kết quả thực nghiệm.
-Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán
học để xử lí và đánh giá các kết quả điều tra và thực nghiệm.
6.Những đóng góp mới của đề tài
- Đề tài tổng quan được cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
9
- Đề tài đề ra được nguyên tắc thiết kế và tổ chức thực hiện các Dự án
Địa lí 12 - THPT
- Đề tài xây dựng được quy trình thiết kế và tổ chức cho HS thực hiện
các Dự án Địa lí 12
- Đề tài thiết kế được 4 dự án tiêu biểu tương ứng với nội dung của 4
phần kiến thức: Địa lí tự nhiên, Địa lí dân cư, Địa lí các ngành kinh tế và Địa
lí các vùng kinh tế
- Đề tài đã thực nghiệm chứng minh được tính hiệu quả của phương
pháp DHDA áp dụng trong giảng dạy môn Địa lí 12 - THPT.
7.Cấu trúc của Luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, chương 1, chương 2, chương 3, kết luận.
Trong đó:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp
Dự án trong dạy học Địa lí 12 – THPT.
Chương 2: Thiết kế và tổ chức Dự án trong dạy học Địa lí 12 – THPT.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 12- THPT
THEO HƯỚNG TÍCH CỰC
1.1.Cơ sở lí luận
1.1.1.Phương pháp dạy học dựa trên dự án
1.1.1.1. Khái niệm dạy học dự án
Thuật ngữ dự án trong tiếng Anh là “Project”, có nguồn gốc từ tiếng La
tinh và ngày nay được hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo
hay một kế hoạch. Khái niệm dự án được sử dụng phổ biến trong hầu hết các
lĩnh vực kinh tế - xã hội: trong sản xuất, doanh nghiệp, trong nghiên cứu khoa
học cũng như trong quản lý xã hội...
Phương pháp dự án được áp dụng vào trong giáo dục từ những năm đầu
của thế kỉ XX và được xác định như một hoạt động thực hành quan trọng,
song có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau. DHDA được nhiều tác giả
coi là một hình thức dạy học vì khi thực hiện một dự án có nhiều phương
pháp cụ thể được sử dụng, cũng có tác giả cho rằng đó là phương pháp dạy
học. Với tôi định nghĩa được chính thức sử dụng trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài là:
“Dạy học dự án là một phương pháp dạy học phức hợp, điển hình về
xu hướng dạy học lấy học sinh làm trung tâm, trong đó giáo viên tổ chức
hướng dẫn người học tự lực thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp thông
qua quá trình giải quyết một bài tập tình huống sát với thực tiễn gắn liền với
nội dung bài dạy – dự án, có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, tạo ra
các sản phẩm có thể giới thiệu được, người học tham gia vào hầu hết các
khâu trong quá trình thực hiện dự án: từ việc xác định mục đích, lập kế
hoạch, đến việc thực hiện, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả
11
thực hiện; làm việc nhóm và tích hợp CNTT là phương thức cơ bản của dạy
học dự án. Qua đó người học lĩnh hội, vận dụng kiến thức và rèn luyện kĩ
năng hành động, sáng tạo của thế kỉ XXI ”
1.1.1.2. Những đặc điểm quan trọng của dạy học dự án
Trong các tài liệu về DHDA có rất nhiều đặc điểm được đưa ra. Các nhà
sư phạm Mỹ đầu thế kỉ XX khi xác lập cơ sở lí thuyết cho PPDH này đã nêu ra
3 đặc điểm cốt lõi của DHDA: định hướng học sinh, định hướng thực tiễn và
định hướng sản phẩm. Có thể cụ thể hóa các đặc điểm của DHDA như sau:
Định hướng thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống
của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng như thực tiễn đời sống.
Nhiệm vụ dự án cần chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả
năng của người học.
Có ý nghĩa thực tiễn xã hội: Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập
trong nhà trường với thực tiễn đời sống, xã hội. Trong những trường hợp lý
tưởng, việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực.
Định hướng hứng thú người học: HS tham gia chọn đề tài, nội dung
học tập phù hợp với khả năng và hứng thú cá nhân. Ngoài ra, hứng thú của
người học cần được tiếp tục phát triển trong quá trình thực hiện dự án.
Tính phức tạp: Nội dung dự án sự kết hợp tri thức của nhiều lĩnh vực
hoặc môn học khác nhau nhằm giải quyết một vấn đề mang tính phức hợp.
Định hướng hành động: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp
giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào hoạt động thực tiễn, thực
hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố, mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng như
rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn của người học.
Tính tự lực cao của người học: Trong DHDA, người học cần tham gia
tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi
hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của người học. GV chủ yếu
12
đóng vai trò tư vấn, hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy nhiên mức độ tự lực cần phù
hợp với kinh nghiệm, khả năng của HS và mức độ khó khăn của nhiệm vụ.
Công tác làm việc: Các dự án học tập thường được thực hiện theo
nhóm, trong đó có sự cộng tác làm việc và sự phân công công việc giữa các
thành viên trong nhóm. DHDA đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng
cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa học sinh và giáo viên
cũng như với các lực lượng xã hội khác tham gia trong dự án. Đặc điểm này
còn được gọi là học tập mang tính xã hội.
Định hướng sản phẩm: Trong quá trình thực hiện dự án, các sản phẩm
được tạo ra. Sản phẩm của dự án không giới hạn trong những thu hoạch lý
thuyết, mà trong đa số trường hợp các dự án học tập tạo ra những sản phẩm
vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử
dụng, công bố, giới thiệu.
1.1.1.3. Các hình thức cơ bản của dạy học dự án
DHDA có thể phân loại theo nhiều phương diện khác nhau. Sau đây là
một số cách phân loại dạy học theo dự án:
- Phân loại theo chuyên môn:
+Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học
+Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm ở nhiều môn khác nhau.
+Dự án ngoài chuyên môn: là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào
các môn học, ví dụ như dự án chuẩn bị cho các lễ hội trong trường.
- Phân loại theo sự tham gia của người học: dự án cho nhóm học
sinh, dự án cá nhân. Dự án dành cho nhóm học sinh là hình thức dự án dạy
học chủ yếu. Trong trường phổ thông còn dự án toàn trường, dự án dành cho
một khối lớp, dự án cho một lớp học.
- Phân loại theo sự tham gia của giáo viên: dự án dưới sự hướng dẫn
của một GV, dự án với sự cộng tác hướng dẫn của nhiều GV.
13
- Phân loại theo quỹ thời gian: K.Frey đề nghị cách phân chia như sau:
+Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2-6 giờ học
+Dự án trung bình: dự án trong một hoặc một số ngày(“Ngày dự
án”) nhưng giới hạn là một tuần hoặc 40 giờ học.
+Dự án lớn: dự án thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là
một tuần (hay 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (“Tuần dự án”)
Cách phân chia theo thời gian này thường áp dụng ở trường phổ thông,
trong đào tạo đại học, có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.
- Phân loại theo nhiệm vụ: Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án, có
thể phân loại các dự án theo các dạng sau:
+Dự án tìm hiểu: là dự án khảo sát thực trạng đối tượng
+Dự án nghiên cứu: nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện
tượng, quá trình.
+Dự án thực hành (dự án kiến tạo sản phẩm): trọng tâm là việc tạo ra
các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn,
nhằm thực hiện những nhiệm vụ như trang trí, trưng bày, biểu diễn, sáng tác.
+Dự án hỗn hợp: là các dự án có nội dung kết hợp các dạng nêu trên.
Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau. Trong từng lĩnh
vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án theo đặc thù riêng.
1.1.1.4. Tác dụng của dạy học dự án
- Dạy học dự án góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực, thay đổi phương thức đào tạo
+ Học tập dự án chuyển giảng dạy từ “giáo viên nói ” thành “học viên
làm”. Người học trở thành người giải quyết vấn đề, ra quyết định chứ không
phải người nghe thụ động. Họ hợp tác theo nhóm, tổ chức hoạt động, tiến
hành nghiên cứu, giải quyết vấn đề, tổng hợp thông tin, tổ chức thời gian và
phản ánh về việc học của mình.
14
+ Dạy học dự án tạo điều kiện cho nhiều phong cách học tập khác
nhau, sử dụng thông tin của những môn học khác nhau, nó giúp người học với
cùng một nội dung nhưng có thể thể hiện theo các hình thức khác nhau.
+ Dạy học dự án khuyến khích việc sử dụng các kĩ năng tư duy bậc
cao, giúp người học hiểu sâu sắc hơn nội dung học tập.
+ Dạy học dự án là hình thức quan trọng để thực hiện phương thức đào
tạo con người phát triển toàn diện, học đi đôi với hành, kết hợp giữa học tập
và nghiên cứu khoa học.
- Dạy học dự án tạo ra môi trường thuận lợi cho người học rèn luyện
và phát triển.
+ Người học học được nhiều hơn và hầu hết trong các dự án, học sinh
phải làm bài tập liên quan đến nhiều lĩnh vực. Học sinh nào cũng có cơ hội để
hoạt động vì nhiệm vụ học tập đến được với tất cả mọi người.
+Học sinh được rèn luyện khả năng tư duy, đặc biệt khi gặp những vấn
đề phức tạp, học sinh có thể vận dụng những vấn đề đã học ở các môn học
khác nhau, những kiến thức về khoa học công nghệ. Thông qua đó phát triển
năng lực giải quyết những vấn đề phức hợp.
+ Phát triển năng lực đánh giá của giáo viên, đánh giá lẫn nhau, tự đánh
giá và phản hồi. Đồng thời có cơ hội cộng tác với các bạn cùng lớp, học sinh
sẽ tự tin hơn khi ra trường do họ đã có kĩ năng sống cần thiết.
- Dạy học dự án phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của
người học. Người học là trung tâm của dạy học dự án, từ vị trí thụ động
chuyển sang chủ động, vì vậy dạy học dự án vừa tạo điều kiện, vừa buộc
người học phải làm việc tích cực hơn, rèn luyện được tính bền bỉ, kiên nhẫn
đồng thời phát huy được tính tích cực, tự lực, năng lực sáng tạo, năng lực giải
quyết các vấn đề của người học.
15
- Dạy học dự án giúp người học phát triển khả năng giao tiếp. Dạy học
dự án thúc đẩy sự cộng tác giữa các thành viên, giữa giáo viên và học sinh,
giữa học sinh với nhau, giữa nhóm học sinh với nhau nhiều khi mở rộng đến
cộng đồng.
Như vậy học sinh đã được gắn lý thuyết với thực hành, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, phát huy tính tự lực, tính trách nhiệm, phát triển
khả năng sáng tạo, linh hoạt.
1.1.1.5. Những hạn chế của dạy học dự án.
DHDA không phù hợp trong việc truyền thụ tri thức lý thuyết mang
tính trừu tượng, hệ thống cũng như rèn luyện hệ thống kĩ năng cơ bản.
DHDA đòi hỏi nhiều thời gian. Vì vậy DHDA không thể thay thể
phương pháp thuyết trình và luyện tập, mà là hình thức dạy học bổ sung cần
thiết cho PPDH truyền thống.
DHDA đòi hỏi phương tiện vật chất và tài chính phù hợp
DHDA đòi hỏi phải có sự chuẩn bị và lên kế hoạch thật chu đáo thì mới
lôi cuốn được người học tham gia tích cực, vì vậy yêu cầu giáo viên phải có
trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, tích cực, yêu nghề.
1.1.2.Những lí luận về thiết kế dự án học tập
Dựa trên cấu trúc của tiến trình phương pháp, người ta có thể chia tiến
trình của DHDA làm nhiều giai đoạn khác nhau. Thường DHDA có thể tiến
hành theo 6 bước sau:
Bước 1: Lựa chọn chủ đề
Bước đầu tiên là lựa chọn chủ đề. Giáo viên cần tìm hiểu các chủ đề
học sinh quan tâm để tạo cơ sở cho cả lớp tham gia tích cực vào một chủ đề
trong một khoảng thời gian đủ dài. Việc hỏi trực tiếp học sinh các câu hỏi
khai thác những chủ đề mà các em quan tâm có lẽ là cách tốt nhất để chọn
được một chủ đề thú vị với các em. Nhưng trước khi giáo viên có thể đưa ra ý
16
kiến về chủ đề, việc quan trọng là học sinh có cơ hội tham gia vào quá trình
lựa chọn và được khuyến khích để tích cực tham gia.
Bước 2: Lập kế hoạch
Bước thứ hai là “thương thảo”. Trong bước này, học sinh sẽ động não
về các yếu tố cần giải quyết trong chủ đề. Các em có thắc mắc gì? Các em
muốn tìm hiểu điều gì về chủ đề? Các em có thể làm gì với chủ đề này? Trong
bước này, học sinh và giáo viên cùng hình thành các câu hỏi cụ thể, phân
công và thống nhất nhiệm vụ.
Bước 3: Thu thập thông tin
Bước thứ ba là bước “thu thập dữ liệu”. Học sinh sẽ bắt đầu tìm câu trả
lời cho câu hỏi nghiên cứu. Việc tập hợp gồm một số các hoạt động: nghiên
cứu, khảo sát thực tế, tìm tài liệu, phỏng vấn, tìm hiểu và khám phá các tài
liệu khác nhau...Trong bước này, giáo viên có thể hỗ trợ để học sinh khai
thác sâu các yếu tố cho dự án, giúp học sinh có được cách tiếp cận sâu hơn
với dự án.
Bước 4: Xử lý thông tin
Trong bước thứ tư, học sinh sẽ bắt đầu xử lý các tài liệu thu thập được.
Bước 4 được gọi là bước “phát triển”. Học sinh sẽ kết hợp các yếu tố, giải
nghĩa các yếu tố đơn lẻ và sẽ có cái nhìn toàn cảnh về những gì đã khám phá
và tìm hiểu. Sự phát triển của dự án cũng có thể được đánh gía theo nhiều
cách, không chỉ dưới dạng các báo cáo viết mà có thể là các bài báo, ảnh,
hoặc các sản phẩm kèm nhận xét, bản tin radio, truyện kịch, mô hình, tranh
vẽ, hoặc tượng, bài hát...
Bước 5: Trình bày kết quả
Trong bước 5 học sinh sẽ trình bày kết quả công việc của mình. Đây là
một giai đoạn quan trọng của hoạt động dự án. Việc học sinh cảm thấy tự hào
17
với công việc của mình có ý nghĩa quan trọng giúp các em tự nhận thưc năng
lực của bản thân mình, đồng thời giúp áp dụng những điều đã học vào thực tế.
Các hình thức báo cáo có thể được thực hiện theo nhiều cách khác
nhau: triển lãm, thuyết trình, góc trưng bày trong lớp, múa rối, tác phẩm nghệ
thuật, dã ngoại, các sự kiện...
Trong trường hợp dự án thực hiện liên quan đến các vấn đề xã hội đặc
biệt khi học sinh đã có kết luận về các tình huống xã hội, kết quả dự án có thể
dẫn tới hành động: làm cho mọi người có ý thức hơn có thể bằng hình thức
trưng bày các khẩu hiệu, triển lãm tranh cổ động, ví dụ ở chương trình Địa lí
12 các dự án về chống biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường...
Bước 6: Đánh giá kết quả
Bước cuối cùng được dành cho việc đánh giá. GV và HS đánh giá quá
trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm đạt được. Từ đó rút ra
những kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án tiếp theo. Kết quả của dự án
cũng có thể được đánh giá từ bên ngoài.
Việc phân chia các giai đoạn trên đây chỉ mang tính chất tương đối.
Trong thực tế chúng có thể xen kẽ và xâm nhập lẫn nhau. Việc tự kiểm tra,
điều chỉnh cần được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án. Với những
dạng dự án khác nhau có thể xây dựng cấu trúc chi tiết riêng phù hợp với
nhiệm vụ dự án.
Tóm lại, DHDA là một hình thức dạy học quan trọng để thực hiện quan
điểm dạy học tích cực: dạy học định hướng vào người học, định hướng hoạt
động. DHDA góp phần gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành động, nhà
trường và xã hội, tham gia tích cực vào việc đào tạo năng lực làm việc tự lực,
năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, tinh thần trách
nhiệm và khả năng cộng tác làm việc của người học.
18
1.2.Cơ sở thực tiễn
1.2.1.Tâm lí lứa tuổi THPT với dạy học dự án
- Đặc điểm thể chất – trí tuệ: Học sinh THPT đang ở độ tuổi giai đoạn
đầu của tuổi thanh niên, tuy có những nét của người lớn nhưng thanh niên chưa
hoàn toàn là người lớn, vẫn đến trường học tập dưới sự chỉ đạo của giáo viên.
Nhà trường không thể là nơi đáp ứng tất cả nhưng nhà trường luôn được mong
đợi là một trong những địa chỉ quan trọng và tin cậy nhất. DHDA nếu được
thiết kế và thực hiện đúng đắn sẽ góp phần phát huy năng lực, hình thành phát
triển nhân cách, chắp cánh ước mơ, định hướng vào đời cho thanh niên.
Ở lứa tuổi này cơ thể phát triển cân đối, hài hòa, đẹp đẽ, khả năng tri
giác có mục đích, ghi nhớ có chủ định, khả năng tư duy lí luận – tư duy trìu
tượng phát triển ở mức độ cao, có khả năng nắm bắt được mối quan hệ nhân
quả trong tự nhiên xã hội... là điều kiện lý tưởng đảm bảo sự tự tin, sự ổn
định, sự bền vững, và trong chừng mực nhất định là sự sáng tạo để có thể giải
quyết được nhiệm vụ học tập phức tạp, yêu cầu tính tổng hợp cao, yêu cầu
phải biết kiểm nghiệm lí luận thông qua thực tiễn và từ thực tiễn khái quát
thành lý luận...đó là một yêu cầu rất cao trong dự án. Tính hoài nghi của tuổi
thanh niên sẽ giúp học sinh THPT thận trọng, cân nhắc, xem xét vấn đề ở
nhiều khía cạnh khác nhau để xác định được vấn đề của dự án, cẩn trọng
trong việc tham khảo và chọn lọc thông tin, từ đó nâng cao kĩ năng tư duy bậc
cao: so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, trìu tượng hóa...
Thanh niên lại rất nhạy cảm với cái mới, với những tiến bộ là điều kiện
lí tưởng để học sinh THPT tiếp cận nhanh với các thành tựu khoa học kĩ
thuật, đặc biệt là thành tựu về công nghệ thông tin – một công cụ hiệu quả để
HS truy cập, thu thập, chọn lọc thông tin, đồng thời xây dựng, xuất ra các sản
phẩm của dự án, đó cũng là công cụ hữu hiệu hiệu hỗ trợ đắc lực cho việc báo
cáo sản phẩm khi kết thúc dự án.
19
- Đặc điểm nhân cách: Sự hình thành cái tôi, ý nghĩa của sự hiện hữu
bản thân, nhu cầu và hứng thú nhận thức với thế giới quan, nhu cầu giao tiếp
rất cao với bạn cùng lứa tuổi, phát triển khả năng đánh giá và tự đánh giá là
những điều kiện rất cơ bản để thực hiện chất lượng các dự án học tập; ngược
lại, các dự án học tập đúng đắn sẽ góp phần phát huy các phẩm chất trên. Ví
dụ khi trả lời các câu hỏi định hướng trong quá trình thực hiện dự án: Làm thế
nào để phát triển bền vững?(chương Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên);
Làm thế nào để có được sự tự tin trong cuộc sống?(Bài Lao động và việc
làm)...ý nghĩa của cuộc sống cũng như ý nghĩa về sự hiện hữu của bản thân
dần hé lộ, cái tôi có thể được định hình rõ nét hơn như: sự phát hiện năng lực
tiềm ẩn của bản thân; Nhu cầu và hứng thú nhận thức về thế giới khách
quan...được đáp ứng tối đa khi HS sưu tầm, truy cập, nghiên cứu, chọn lọc, hệ
thống hóa, khái quát hóa thông tin.
Hình thức hoạt động nhóm, hợp tác nhóm, làm việc nhóm được yêu cầu
thực hiện xuyên suốt quá trình làm dự án đáp ứng nhu cầu giao tiếp rất cao
với bạn cùng độ tuổi của thanh niên đồng thời cũng định vị giá trị bản thân,
dần chấp nhận sự khác biệt, thích nghi với các vai trò trách nhiệm khác nhau,
khắc phục những khiếm khuyết và phát huy ưu thế. Qua đó, HS rèn luyện
được ý thức tập thể và phương pháp cùng cộng tác trong lao động, nâng cao
năng lực đánh giá và tự đánh giá lẫn nhau. Đó là những phẩm chất cần thiết
cho những lao động trong tương lai, cho những công dân trong thời đại toàn
cầu hóa.
- Là những học sinh đang học lớp 12, sau khi tốt nghiệp sẽ là những
công dân thực thụ, đứng trước nhiều vấn đề cấp bách của VN và thế giới cần
có những nhận thức và hành vi đúng đắn. Các dự án cuối cấp giúp hoạt động
học tập của học sinh gắn với khuynh hướng nghề nghiệp, hình thành kế hoạch
20
cuộc đời và lựa chọn nghề nghiệp được thực hiện tốt sẽ mang lại giá trị nhận
thức sâu sắc nhất.
1.2.2. Chương trình, SGK Địa lí 12
Đặc điểm chương trình SGK Địa lí 12 có những ảnh hưởng nhất định
đến việc thiết kế và tổ chức cho HS thực hiện dự án, cụ thể:
Chương trình Địa lí 12 Cơ bản được biên soạn dựa theo chương trình
giáo dục phổ thông môn Địa lí. Về cấu trúc, SGK Địa lí 12 theo chương trình
chuẩn gồm 45 bài, trong đó có 37 bài lí thuyết và 8 bài thực hành. Chương
trình bao gồm 5 phần: Địa lí tự nhiên, Địa lí dân cư, Địa lí các ngành kinh tế,
Địa lí các vùng kinh tế và Địa lí địa phương(từ năm học 2011-2012 đã giảm
tài bài: 4, 5 của phần Địa lí Tự nhiên và một số nội dung các bài học khác ).
Mỗi phần có một vai trò nhất định trong việc trang bị kiến thức cho HS để tạo
nên chương trình tổng thể, tương đối hoàn chỉnh về Địa lí Tổ quốc trên cơ sở
kế thừa và phát triển chương trình Địa lí ở THCS.
Bảng 1.1. Cấu trúc SGK Địa lí 12 cơ bản
Các nội dung theo chương trình
Số bài
Chia ra
Lí thuyết
Thực
Việt Nam trên đường đổi mới và hội nhập
1. Địa lí tự nhiên
1
14
1
12
hành
2
- Vị trí Địa lí và lịc sử phát triển lãnh thổ
4
3
1
- Đặc điểm chung của tự nhiên
8
7
1
-Vấn đề sử dụng và bảo vệ tự nhiên
2.Địa lí dân cư
2
4
2
3
1
21