Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Bản sắc văn hóa dân tộc trong tản văn Y Phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.51 KB, 119 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Toàn cầu hóa cùng với quá trình giao lưu văn hóa giữa các quốc gia
trên thế giới đã làm cho văn hóa nhân loại càng phong phú, sinh động. Trong
quá trình này, các nền văn hóa bổ sung, tiếp nhận và làm giàu cho nhau dẫn
đến sự phát triển, biến đổi không ngừng. Trong bối cảnh nước ta đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, hoàn thiện nền kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc đang đặt ra những vấn đề cần thiết hơn bao giờ hết. Việc
quan tâm hàng đầu trong thời điểm này là vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, kết hợp học hỏi những
tinh hoa văn hóa nhân loại với phương châm “hòa nhập không hòa tan”. Là
một lĩnh vực tinh tế của văn hóa, văn học nghệ thuật nói chung và văn học nói
riêng có mối quan hệ chặt chẽ với văn hóa. Nghiên cứu văn hóa trong mối
quan hệ với văn chương đang trở thành một hướng đi mới trong việc khám
phá cái hay, cái đẹp của văn chương.
1.2 Cùng đội ngũ nhà văn các dân tộc thiểu số như: Nông Quốc Chấn,
Bàn Tài Đoàn, Triều Ân, Vi Hồng, Nông Minh Châu, Lò Ngân Sủn, Cao Duy
Sơn, Lâm Tiến… luôn ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong sáng tác
của mình, Hứa Vĩnh Sước – Y Phương là một trong số những nhà thơ như
vậy. Người trai Tày sinh ra và lớn lên ở làng Hiếu Lễ, dưới chân núi Bo Păn ở
gần biên giới Việt – Trung, thuộc huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) nổi lên như
một gương mặt thơ tiêu biểu, xuất sắc, một phong cách riêng, độc đáo cho
vùng văn hóa dân tộc miền núi vừa đậm đà bản sắc “người đồng mình”, vừa
rộng mở giao hòa với vùng văn hóa rộng lớn để hợp lưu thành con sông văn
chương Việt Nam.

1




Là một trong những cây bút tiêu biểu của dân tộc Tày, cầm bút từ những
năm chiến tranh lửa đạn khốc liệt cho tới bây giờ, Y Phương vẫn miệt mài
trên từng con chữ, lao động sáng tạo không ngừng để hôm nay là “ông chủ”
sở hữu một “gia tài” văn chương (thơ, tản văn…) đồ sộ. Các tác phẩm của
ông đã góp phần đưa văn học của các dân tộc thiểu số đến gần hơn với độc
giả và trở thành một bộ phận không thể thiếu đóng góp vào thành tựu chung
của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Là nhà thơ người dân tộc Tày sinh ra và lớn lên trên quê hương Cao
Bằng, Y Phương luôn cháy bỏng một khát khao đem đến cho bạn đọc một cái
nhìn chân xác nhất về cảnh sắc thiên nhiên và con người quê hương ông, cũng
như cuộc sống và con người của đồng bào Tày ở Cao Bằng nói chung và vùng
quê Trùng Khánh nói riêng. Chính vì vậy, đọc tác phẩm nào của ông, độc giả
cũng sẽ cảm nhận được chất “miền núi” thấm sâu và lan tỏa trên từng con
chữ, câu văn.
1.3 Tản văn trong những năm gần đây bắt đầu được sự công nhận từ góc
độ giới chuyên môn. Dường như “Tản văn Việt Nam hiện đại – một thể loại
bị lãng quên” (Trần Đình Sử) đang có sự hồi sinh và ngày càng chứng tỏ thế
mạnh cũng như sự hấp dẫn của mình với nhiều cây bút như: Tản mạn trước
đèn của Đỗ Chu, Nhân trường hợp chị Thỏ bông của Thảo Thảo, Tản văn
Nguyễn Ngọc Tư… Tản văn Kung fu người Co Xàu, đặc biệt tản văn Tháng
giêng, tháng giêng một vòng dao quắm của Y Phương nhận được giải thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam… Đọc tản văn của Y Phương người đọc thấy chất
miền núi, chất Tày vẫn không bị mất đi mà kết hợp hài hòa lối tư duy hiện đại
tạo nên những trang viết bình dị mà sâu lắng, thiết tha nghĩa tình, thấm đượm
bản sắc văn hóa dân tộc.
Việc khai thác văn nghiệp Y Phương đã được tiến hành khá sớm và càng
ngày người ta càng yêu, càng nhận ra nét đẹp trong nhân cách, trong văn


2


chương Y Phương. Tuy thế, việc đánh giá, thẩm định của giới nghiên cứu về
ông chủ yếu tập trung ở thể loại thơ, còn tản văn thì hầu như ít được nhắc đến
trong khi đây là một trong những thể loại mới mà ông gặt hái được nhiều
thành công. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài “Bản sắc văn hóa dân tộc
trong tản văn Y Phương” với mong muốn sẽ đưa tới một cái nhìn toàn diện
hơn khi đánh giá những giá trị nổi bật của tập tản văn và bước đầu thấy được
một số đóng góp của tản văn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về thơ Y Phương
Thơ Y Phương mang bản sắc rất riêng, độc đáo đã thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà văn, giới nghiên cứu, phê bình văn học, như: Tế Hanh, Phạm
Hổ, Chu Văn Sơn, Nguyễn Hữu Tiến, Trúc Thông, Hồng Diệu, Thái Vĩnh
Linh, Tạ Duy Anh, Đỗ Trung Lai, Trần Mạnh Hảo, Phạm Quang Trung, Lê
Thị Bích Hồng, Bảo Thu…
Nhận xét về thơ Y Phương Nguyễn Hữu Tiến nhận thấy: “Thơ Y Phương
vừa hiện đại vừa dân tộc là bởi vì anh đã kết hợp truyền thống văn hóa của
quê hương mình với mọi miền quê của đất nước”. (Nguyễn Hữu Tiến: Y
Phương – Một cây bút chung thủy với quê hương. Thơ Y Phương – NXB Hội
Nhà Văn 2002.)
Tác giả Tạ Duy Anh đánh giá Y Phương là: “Người gảy khúc đàn trời để
viết những bài ca vút lên từ đất, ca ngợi xứ sở đã nuôi ông thành thi sĩ”. (Tạ
Duy Anh, Người gảy khúc đàn trời, Thơ Y Phương, Nxb Hội nhà văn, 2002)
TS Chu Văn Sơn nhận thấy sự gắn kết sâu sắc của Y Phương với cội
nguồn xứ sở: “Sự tha thiết với xứ sở dân tộc mình chính là nhịp tim thầm kín,
bền vững nhất trong từng bài thơ Y Phương, là cốt lõi của giọng hát Y
Phương”. (Chu Văn Sơn, Giọng hát Y Phương trong Tiếng hát tháng Giêng,
Nxb Hội nhà văn, 2002)


3


Theo Trúc Thông, “Y Phương không yêu dân tộc mình ở đầu lưỡi, lạm
dụng chất dân tộc. Qua tất cả những cảnh huống sinh hoạt vật chất và tinh
thần hiện thực, những đam mê và đau khổ trần trụi, những chìm lặng không
sao nói hết và những sự thật cuộc đời… Y Phương tiếp tục phát hiện về dân
tộc mình” (Y Phương, 2002, Thơ Y Phương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội)
Trần Mạnh Hảo: “Y Phương nhìn cuộc đời bằng đôi mắt thơ ngây của
hoa lá dân tộc mình, rung động bằng trái tim suối nguồn và tư duy bằng sừng
đá”. (Trần Mạnh Hảo, Y Phương – Nhẩn nha sống, nhẩn nha thơ, Thơ Y
Phương, Nxb Hội nhà văn, 2002)
Lê Thị Bích Hồng đã phát hiện “người con làng Hiếu Lễ” không thể
đứng ngoài “dàn đồng ca” thời ấy, nhưng Y Phương đã bứt phá, vượt thoát rất
nhanh khỏi tiếng “tiếng nói chung” để khẳng định một lối đi riêng, một phong
cách cá nhân với một gia tài thi ca “săn chắc, vạm vỡ” mang hồn làng”: “Thời
kỳ đầu, thơ anh vẫn không thể khác giọng thơ chung hào sảng vốn đã chi
phối cả một thế hệ sáng tác: “Câu hát thiêng liêng lắm chứ-Hát bây giờ còn
để hát mai sau”. Nhưng chỉ sau các tập “Lửa hồng một góc”, “Lời chúc”,
“Đàn then”, anh đã sớm tạo ra tiếng nói riêng, không nhòe lẫn có sự bồi hồi
dân tộc đặc trưng và có sự khao khát chiếm lĩnh đỉnh cao”. Y Phương đã trở
thành nhà thơ có phong cách riêng bởi sự ý thức đi tìm cái mới, cái độc đáo.
Lê Thị Bích Hồng cho rằng: “Với nhà thơ, sáng văn chương nghệ thuật không
mới, không độc đáo thì khó lòng tạo được dấu ấn, thu hút được độc giả và
không thể có đời sống trong lòng công chúng. Văn chương với anh là “một
thứ chơi. Chơi cho mình thích và cho người ta thích”. Lao động sáng tạo
mang dấu ấn cá nhân đậm nét và không bao giờ là dễ dàng như kiểu vận
hành sản xuất để ra sản phẩm hàng loạt. Khi con tim không rung, đôi tay
không buồn, cầm cây bút sao nổi. Cầm bút không nổi lấy đâu ra thơ ca.

Người ta phải yêu tiếng mẹ đẻ cái đã. Yêu hết mình mới có thơ ca. Yêu từ tim

4


gan bên trong xương thịt mình. Cảm xúc sáng tạo không phải là thứ đặt
hàng”.(15-224 Người đàn ông sinh ra ở làng Hiếu Lễ”).
Các nhà nghiên cứu, phê bình trong các bài viết mới chỉ nhìn nhận hay
đánh giá tác phẩm của ông trên một vài phương diện.
Những năm gần đây, thơ Y Phương thu hút nhiều nghiên cứu, trong đó
có một số luận văn đặt thơ Y Phương trong mối liên hệ với văn hóa, với bản
sắc văn hóa dân tộc”: Đó là: “Bản sắc dân tộc trong thơ Y Phương – Dương
Thuấn” (Hà Thị Thu Trang, Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007); “Ngôn từ nghệ
thuật trong thơ Y Phương” (Nguyễn Thúy Hằng, Đại học Sư phạm Hà Nội,
2011); “Bản sắc Tày trong thơ Y Phương và Dương Thuấn” (Nguyễn Thị Thu
Huyền, Đại học Thái Nguyên, 2009)....
2.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề về tản văn Y Phương
Là nhà thơ Tày thành danh, liên tiếp trong hai năm 2009-2010, Y
Phương ra mắt bạn đọc hai tập tản văn “Tháng Giêng, tháng Giêng một vòng
dao quắm” (Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành) và tản văn “Kung fu người Co
Xàu”(Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2010) đã thu hút nhiều độc giả
và giới nghiên cứu phê bình.
Nhận xét về tập tản văn Y Phương, Lâm Tiến viết “Mỗi tản văn của Y
Phương như một lát cắt, một tầng vỉa làm lộ dần chiều sâu văn hóa của quê
hương, của dân tộc. Y Phương không phải chỉ kể lại, tả lại những sự vật, những
hiện tượng mà đi sâu phân tích ý nghĩa cội nguồn của nó, đẩy những sự kiện,
tình huống đi đến tận cùng để từ đó khám phá, phát hiện tâm hồn, tính cách dân
tộc, nói rộng ra là ngọn nguồn, chiều sâu văn hóa của dân tộc”.
Tuy Hòa cho rằng “Tháng Giêng, tháng Giêng một vòng dao quắm
không khác gì những bài thơ mà Y Phương từng tin cậy “Câu hát thiêng liêng

lắm chứ/ Hát bây giờ còn để lại mai sau”… Tản văn Y Phương không chinh
phục người đọc bằng ánh mắt sắc sảo, mà bằng cái nhìn đầy âu yếm”.

5


Lê Thị Bích Hồng khi viết về “Người đàn ông sinh ra ở làng Hiếu Lễ”
đã khẳng định: “Chất Tày được bộc lộ độc đáo, trong trải nghiệm cuộc đời, ở
một tầng vỉa làm lộ dần tầm cao và chiều sâu văn hóa. Anh coi trọng giá trị
văn hóa, coi văn hóa là nền tảng tinh thần bền vững nhất, là “cái còn lại sau
khi người ta đã quên đi tất cả”. Anh hiểu hơn ai hết văn hóa là sức mạnh nội
sinh, là cội cuồn giá trị của làng Tày “Vách nhà ken câu hát” với niềm tin
vững chắc “Còn quê hương thì làm phong tục”. Nhưng điều đáng trân trọng là
tác phẩm của nhà thơ Tày ấy không "đóng đinh" bó hẹp trong cuộc sống sinh
hoạt của người Tày mà vượt lên, vươn xa như một dấu nối với thơ ca các dân
tộc khác trong thời kỳ hội nhập. Tác phẩm vì thế mà mở rộng biên độ, phong
phú đề tài về cuộc sống, con người miền núi – thành thị, tình yêu đất nước –
quê hương, tình cảm gia đình – bạn bè - tình yêu lứa đôi…và điều quan trọng
là thẫm đẫm bản sắc văn hóa “người đồng mình”. Tình yêu với đồng bào dân
tộc mình đã cho anh nguồn xúc cảm cùng bản sắc văn hóa Tày khó lẫn” [15].
Những ý kiến nhận xét về tản văn Y Phương chủ yếu dừng lại ở những
bài viết trong sách, báo, tạp chí có dung lượng nhỏ, khai thác một số nét nổi
bật chủ yếu của tản văn. Đây là những tư liệu quý, giúp người viết rất nhiều
khi tìm hiểu bản sắc văn hóa dân tộc trong tản văn của Y Phương.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề này chúng tôi tập trung vào tập tản văn Tháng Giêng
tháng Giêng một vòng dao quắm - Nhà xuất bản Phụ nữ 2009 và tản văn
Kung fu người Co Xàu - Nhà xuất bản Hội nhà văn 2010 của Y Phương.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.

- Phương pháp liên ngành (văn hóa học, dân tộc học...).
- Phương pháp đối chiếu so sánh.

6


5. Đóng góp của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn của chúng tôi góp phần xác định vị trí,
những đóng góp của tản văn Y Phương trong tản văn hiện đại Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn của chúng tôi hi vọng sẽ có đóng góp
trong việc phát huy và bảo tồn những giá trị truyền thống của bản sắc văn hóa
dân tộc.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tư liệu tham khảo, nội dung của luận
văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Quan niệm về thể loại, một số vấn đề chung về bản sắc văn
hóa dân tộc và vị trí của tản văn trong văn nghiệp Y Phương.
Chương 2: Bản sắc văn hóa dân tộc nhìn từ phương diện nội dung tư
tưởng trong tản văn Y Phương.
Chương 3: Bản sắc văn hóa dân tộc nhìn từ phương diện nghệ thuật.

7


NỘI DUNG
Chương 1
Quan niệm về thể loại, một số vấn đề chung về bản sắc văn hóa dân tộc
và vị trí của tản văn trong văn nghiệp Y Phương
1.1 Quan niệm về thể loại
“ Thể loại tản văn khai sinh từ những thập kỉ đầu thế kỉ XX nhưng nó

tồn tại mờ nhạt, không gây được sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình bởi
trong ý thức của nhiều người thì tản văn là thể loại đi ngoài lề đời sống văn
học; hơn nữa nó lại là một thứ văn không có diện mạo, không tiếng nói,
không được định danh một cách nhất quán. Từ những thập niên 90 của thế kỉ
XX, tản văn bắt đầu gây sự chú ý nhiều hơn bởi quá trình giới thiệu tản văn
Trung Quốc vào Việt Nam diễn ra mạnh mẽ hơn, cũng từ đây ý thức thể loại
được định hình rõ hơn” [tr4, Lê Trà My,(2008), Tản văn Việt Nam thế kỉ XX
( từ cái nhìn thể loại, Luận án tiến sĩ, ĐHSP Hà Nội].
Trong cuốn “Năm bài giảng và thể loại” (Trường Viết văn Nguyễn Du,
Hà Nội, 1992, tác giả Hoàng Ngọc Hiến cho rằng tản văn là “ một tiểu loại kí
ngắn gọn, hàm súc theo tùy hứng của tác giả, có thể bộc lộ trữ tình, tự sự
hoặc nghị luận, thường là mấy thứ đan quyện nhau. Lối thể hiện đời sống
trong tản văn mang tính chất chấm phá, tuy vậy, ngòi bút tản văn chạm vào
những hiện tượng được tái hiện ở những khía cạnh cốt yếu và bất ngờ. Có lẽ
đặc trưng quan trọng nhất của thể loại tiểu kí này là ở chỗ tất cả những gì
được thể hiện biểu hiện trong bài tản văn đều mang đậm dấu ấn cách cảm
nhận và cảm nghĩ của riêng tác giả”. Như vậy, theo quan niệm của GS
Hoàng Ngọc Hiến thì tản văn vẫn chưa thể tách ra thành một thể loại riêng
biệt, tồn tại độc lập mà vẫn “dưới trướng” của thể kí; tuy nhiên có một số đặc
trưng nổi bật nhất của tản văn được Hoàng Ngọc Hiến đề cập tới ở đây: sự tự

8


do trong cách biểu hiện (có thể tự sự, trữ tình, nghị luận), sự luận giải mang
tính cá nhân của người viết đối với vấn đề đưa ra được đề cao.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử chủ biên):
“Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị
luận, miêu tả phong cách, khắc họa nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản
văn mang tính chất chấm phá, không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức

tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá
nhân. Tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tùy ý, cách thể hiện đa dạng, đặc
biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và cá tính tác giả, có truyền thống lâu đời
và sức sống mạnh mẽ”. [293,294]
Trong bài tản văn trên báo văn nghệ 2011, tác giả Nguyễn Thị Lan cho
rằng tản văn là một thể loại văn học độc lập:“Tản văn có những đặc điểm
khác với những thể loại khác. Tản văn là những bài viết tản mạn tương đối tự
do; về dung lượng khá ngắn gọn, hàm súc; về kết cấu: có sự linh hoạt tất cả
các phương thức, phương tiện biểu hiện nghệ thuật; về nội dung: thường biểu
hiện đời sống theo kiểu chấm phá và đặc trưng quan trọng nhất là thể hiện
đậm nét dấu ấn cá nhân của người viết; về mặt thẩm mỹ: tản văn đứng giữa
thơ và truyện ngắn”.
1.2 Một số vấn đề chung về bản sắc văn hóa dân tộc
1.2.1 Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc
Theo nghĩa chung nhất, văn hoá được xem là toàn bộ những hoạt động
sáng tạo của con người trong quá khứ cũng như trong hiện tại tạo thành
những chuẩn mực - giá trị, thị hiếu và truyền thống, gọi chung là hệ giá trị xã hội, một thành tố cơ bản làm nên bản sắc riêng của mỗi cộng đồng dân tộc.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “Văn hóa”.
Trong cuốn Từ điển bách khoa Xô viết: “Văn hóa là một tổng thể các
giá trị vật chất và tinh thần được con người sáng tạo ra và phát triển theo

9


lịch sử, khác với các đối tượng tự nhiên” (Nguyễn Đức Tồn, Tìm hiểu đặc
trưng văn hóa-dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở Người Việt (Trong sự so
sách với dân tộc khác), Nxb. Đại học quốc gia, 2002, tr16).
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc cho rằng:“Văn hóa là mối quan hệ
giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế
giới thực tại trong biểu tượng” [Phan Ngọc (1988), Bản sắc văn hóa Việt

Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr17]
GS- Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm xác định cụ thể: “Văn hóa là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường tự nhiên và xã hội” [Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt
Nam, Nxb Giáo dục, tr10].
Nhà nhân loại học phương Tây E.B.Taylo lại định nghĩa: “Văn hóa là
toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp
luật, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với
tư cách là một thành viên của xã hội” [Trần Quốc Vượng (1997), Chủ biên
Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục,tr8].
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm văn hóa nhưng các định
nghĩa vẫn xoay quanh vấn đề tương đối thống nhất: Văn hóa là một trong
những giá trị đặc trưng về vật chất, tinh thần được con người sáng tạo ra trong
sự phát triển của dân tộc.
Mỗi quốc gia có một nền văn hóa riêng và mỗi dân tộc cũng sẽ có bản sắc
văn hóa của riêng mình. “Bản” là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân
của một sự vật. “Sắc” là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa
Việt Nam tức là nói những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân
của dân tộc Việt Nam. Nói những hạt nhân giá trị hạt nhân tức là không phải
nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là nói những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất,

10


mang tính dân tộc sâu sắc biểu hiện trong mọi lĩnh vực của nền Việt Nam,
trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc,
sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của người Việt Nam... Bản sắc văn hoá
dân tộc bao hàm những mặt được hình thành và gắn bó với dân tộc từ thưở xa
xưa, các mặt này được duy trì theo quá trình của lịch sử. Đó là các kiểu quan

hệ hay một kiểu lựa chọn riêng của một cộng đồng về một phương thức ứng
xử nào đó, khiến cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo nhằm phân
biệt với các dân tộc khác.
Nói đến bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là nói đến những tinh hoa,
những giá trị bền vững được hun đúc, vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử
hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Những giá trị
ấy, những tinh hoa ấy đã tạo nên những nét đặc sắc, riêng có ở cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, trong con người Việt Nam.
Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với lịch
sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó không
phải là một hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những giá trị mới được
hình thành, bồi tụ trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn hóa.
Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng,
khiến cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân
tộc. Và yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc
văn hóa dân tộc là cái "hồn", là sức sống nội sinh, là “thẻ căn cước” của mỗi
dân tộc, để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó nó có thể biểu lộ một
cách trọn vẹn nhất sự hiện diện của mình trong quá trình giao lưu và hội nhập.
Điều đó đã được thể hiện trong quan điểm chỉ đạo, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Nghị Quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định “xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ

11


đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người”. Trong cương lĩnh xây dựng
đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm
2011), Đảng ta tiếp tục hoàn chỉnh: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,

thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Nghị
quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Ban chấp hành Trung ương khóa XI
về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định bản sắc dân tộc “Xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học”.
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Bản sắc là những
nét riêng biệt, độc đáo của một dân tộc thể hiện trong nền văn hóa, nghệ
thuật trong phong tục tập quán, trong đời sống muôn màu của dân tộc”
[Phạm Văn Đồng (1980), góp phần nghiên cứu bản lĩnh, bản sắc các dân tộc ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr11].
Trong cuốn Cơ sở văn hóa, GS Trần Quốc Vượng cho rằng: “Bản sắc là
sự lan tỏa tự nhiên trong sắc thái tư duy ngôn ngữ, trong tâm hồn, trí tuệ,
trong phong tục, cung cách, hành vi, ứng xử, trong lề thói, tập tục, trong văn
chương, nghệ thuật, và trong toàn bộ các giá trị văn hóa vật chất, văn hóa
tinh thần của con người. Bản sắc dân tộc trong mọi sắc thái là sự lan tỏa một
cách tự nhiên không ai gò ép được, nhưng nó phải gắn liền với ý thức dân tộc
và tự khẳng định qua thử thách của thời gian, nếu không qua giao lưu và mở
rộng văn hóa, bản sắc sẽ bị biến đổi, mất đi những gì tinh túy nhất của dân
tộc. Do đó các nhà nghiên cứu trên thế giới đã từng đưa ra những ý kiến

12


thống nhất gọi bản sắc văn hóa dân tộc là một thứ căn cước, một chứng minh
thư của riêng một dân tộc” [Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở Văn hóa Việt
Nam, Nxb Giáo dục, tr78]

Theo GS Trần Đình Sử: “Bản sắc dân tộc là thuộc tính độc đáo của một
nền văn học, vừa là biểu hiện cái chung của nền văn học ấy vừa phân biệt nó
với dân tộc khác” [Trần Đình Sử: về bản sắc dân tộc trong văn học Việt Nam
và con đường của thơ, Tạp chí văn học số 11, 1994, tr19].
Tác giả Nguyễn Hùng Vĩ đưa ra ý kiến: “Bản sắc dân tộc không phải cái
gì đó tiên thiên, có sẵn trong cội nguồn mà nó luôn luôn được sáng tạo và bồi
đắp. Từng thế hệ nhà văn đã sáng tạo nên bản sắc dân tộc của văn học Việt
Nam”. [Nguyễn Hùng Vĩ: Bản sắc dân tộc như là sự vận động, Tạp chí văn
học số 11 năm 1994].
Văn hóa và văn học có mối quan hệ mật thiết bởi trước hết văn học có
thể coi là một bộ phận nằm trong chỉnh thể của nó là văn hóa, mỗi nhà văn
khi sáng tạo tác phẩm của mình đều phải dựa trên một nền tảng rộng lớn là
văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại. Có thể coi văn học là một tấm gương
vừa phản chiếu, vừa thu nhỏ bộ mặt văn hóa của từng thời đại vào trong đó.
Đặc biệt văn học sẽ kết tinh toàn bộ các phương diện của văn hóa vào trong
thế giới nghệ thuật của mình. Bielinxki từng viết: “Văn học cũng như mọi
loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm tinh thần của một cá nhân nghệ sĩ.
Mà cá nhân người nghệ sĩ đó lại thuộc về một cộng đồng, một dân tộc nhất
định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều mang dấu ấn riêng về văn hóa,
phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc mình. Vậy
tính dân tộc được xem như là một thuộc tính xã hội của văn học, là một
“thuộc tính tất yếu của việc sáng tạo”.
Bàn về tính dân tộc trong trong văn học, nhà nghiên cứu người Nga A.
Tôn xtôi cho rằng: “Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang mùi hương đất

13


đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật…”.
Quan điểm đó rất đúng bởi vì tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm riêng

của cá nhân nghệ sĩ, nhưng đằng sau mỗi người nghệ sĩ bao giờ cũng mang
bóng dáng của dân tộc, giai cấp mà họ đang sống. Vậy nên bản sắc văn hóa
dân tộc luôn thấm đẫm trong từng câu chữ, trong cách cảm cách nghĩ của
mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng chính đặc thù của đời sống dân tộc đã mang
lại cho văn học của dân tộc ấy một bản sắc riêng độc đáo được bảo tồn lưu
giữu qua nhiều thế hệ”. (Phương Lựu (chủ biên), lí luận văn học, Nxb giáo
dục, 2006)
1.2.2 Khái quát về văn hóa dân tộc Tày
Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, là cư
dân đông nhất ở vùng núi phía Bắc và chiếm tỉ lệ cao so với các dân tộc thiểu
số khác. Theo số liệu điều tra dân số công bố năm 2001 của Tổng cục Thống
kê dân tộc Tày có 1.477.514 người, “cư trú trên một địa bàn rộng lớn miền
thượng du Việt Bắc, Đông Bắc… Vùng người Tày cư trú thường xen kẽ các
dân tộc Mông, Dao, Nùng, Sán Chay, Giáy”: [Nguyễn Đăng Duy (2004),
Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
tr284].
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Sử sách còn ghi rõ ngay từ
buổi bình minh của lịch sử, thế kỷ thứ II trước công nguyên, liên minh bộ lạc
Âu Việt (Tày, Nùng) đã cùng liên minh với bộ lạc Lạc Việt (Việt, Mường)
dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh An Dương Vương Thục Phán, đã có đủ sức mạnh
đánh bại quân Tần xâm lược và thành lập Vương quốc Âu Lạc. Âu Lạc chính
là nhà nước đầu tiên xuất hiện trên vũ đài lịch sử Việt Nam với tiến trình lịch
sử lâu đời của mình, dân tộc Tày chẳng những góp phần quan trọng vào sự
nghiệp dựng nước và giữ nước mà còn sớm hình thành một nền văn hóa, làm
phong phú thêm nền văn hóa truyền thống của các dân tộc Việt Nam.

14


* Văn hóa sản xuất

Từ rất lâu đời người Tày đã sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước. Do
có mặt sớm hơn các dân tộc khác nên người Tày đã khai phá và làm chủ được
những vùng thung lũng phẳng. Việc trồng lúa nước của người Tày được ghi
dấu trong truyền thuyết Phú Lương Quân của dân tộc mình. Vì địa hình đồi
núi cao, hệ thống sông, suối thường thấp hơn các cánh đồng, đám ruộng, nên
từ xa xưa người dân đã biết đào mương, đắp phai, bắc máng, làm cọn lấy
nước lên ruộng và lợi dựng sức nước để giã gạo.
Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa nương, hoa màu, cây ăn quả…
Các loại cây công nghiệp cũng được người dân chú trọng phát triển như thuốc
lá, trẩu, hồi, tre, trúc…
Người Tày rất chú trọng phát triển về chăn nuôi. Bởi ngoài trồng trọt,
chăn nuôi cũng đem lại nguồn thu lợi đáng kể cho kinh tế hộ gia đình. Từ bao
đời nay, dân tộc Tày đã có quan niệm “tu mò nhò pỏ khỏ” (con bò giúp đỡ
người nghèo). Cư dân Tày cổ cũng đã biết thuần dưỡng trâu để phục vụ sản
xuất. Chính vì vậy con trâu được chọn làm vật tế lễ trong lễ hội “Lồng
Tôồng”, hình đầu trâu được treo trong nhà ở những chỗ trang trọng nhất. Điều
này thể hiện tín ngưỡng của dân tộc đối với con vật sống gần giũ và có ích
trong đời sống của người dân.
Săn bắt, hái lượm cũng là một nét phong tục quen thuộc của dân tộc Tày,
đặc biệt là nghề đánh bắt cá ở sông, suối. Hầu như gia đình người Tày nào
cũng có dụng cụ để đánh bắt cá (bằng chài, lưới, vó, đơm…). Một số người
còn chủ yếu sống dựa vào nghề này.
Dân tộc Tày rất nổi tiếng với các nghề thủ công, như: đan lát các vật
dụng gia đình bằng tre, trúc, mây; đục đẽo đá làm cối giã, cối xay; rèn sắt,
dao… Họ biết trồng bông, làm sa quay, làm khung cửi dệt vải, và nhất là có
kỹ thuật nhuộm tạo ra loại vải màu đen rất đặc trưng (màu chàm) để may

15



quần áo, làm màn, mặt chăn. Đặc biệt là những tấm thổ cẩm được dệt với
nhiều hoa văn đẹp, độc đáo làm mặt chăn, mặt địu…
Do nông lâm thổ sản và tiểu thủ công nghiệp phong phú, cộng thêm nhu
cầu trao đổi, buôn bán của mọi người dân, nên ở vùng có người Tày cư trú,
chợ được mở ở nhiều nơi. Chợ họp theo chu kỳ năm ngày một phiên. Các chợ
bày bán sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Trong ngày chợ
phiên, nhiều hình thức văn hóa đặc sắc mang đậm dấu ấn địa phương đã tạo
nên văn hóa chợ độc đáo của các dân tộc thiểu số vùng cao.
* Văn hóa tổ chức đời sống
Tục ngữ Tày có câu “vỉ noọng tam tó bấu táy vỉ noọng sỏ rườn” (anh em
ruột ở xa không bằng người dưng ở ngay bên cạnh) cũng giống câu tục ngữ
Kinh “Bán anh em xa mua láng giềng gần” để nói lên sự cố kết dân bản và sự
đoàn kết trong lao động sản xuất, chiến đấu để chống nạn trộm cướp, chống
kẻ thù. Hơn thế, họ luôn quan tâm, giúp đỡ, chia ngọt sẻ bùi lẫn nhau mỗi khi
gia đình bạn bè có chuyện vui buồn như tình làng nghĩa xóm “tắt lửa tối đèn
có nhau” của các dân tộc khác. Trong quan hệ với các dân tộc anh em, đồng
bào có tập quán kết nghĩa anh em gọi là “lạo tồng”, thương yêu, giúp đỡ nhau
như anh em ruột thịt. Đồng bào Tày rất mến khách “Khách đến nhà bao giờ
cũng được tiếp đãi chu đáo. Khách đến làng, tuy không quen biết, nhưng cũng
được đồng bào chào hỏi thân mật” [Lã Văn Lô, Hà Văn Thư, Văn hóa Tày –
Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1984,tr8]
*Văn hóa vật chất
Người Tày ăn cơm tẻ là chính. Mỗi ngày ăn ba bữa sáng, trưa và tối.
Những ngày lễ tết (dù là tết to hay tết nhỏ), cưới hỏi đồng bào thường ăn gà,
vịt, ngan, lợn và chế biến thành những món ăn măng đậm phong vị miền núi.
Các loại bánh trái làm trong ngày tết lễ hết sức phong phú, như: bánh chưng,

16



bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh khảo, chè lam, bánh trứng kiến, bánh
cuốn… đã trở thành nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của dân tộc Tày.
Nước chè của người Tày chủ yếu được nấu bằng các loại lá cây do đồng
bào hái trên rừng và đều có tác dụng về y học. Từ lâu, người Tày đã biết cất
rượu bằng ngô, gạo, sắn ủ với men lá tự chế. Rượu được uống trong sinh hoạt
ngày thường, khi có khách đến nhà chơi thể hiện lòng hiếu khách vào những
ngày lễ tết.
Người Tày từ lâu đã cư trú tập trung thành bản. Vì thế, tên bản thường
gọi theo tên cánh đồng, khúc sông suối, hay dốc núi. Ở những nơi đất rộng
ruộng nhiều có bản tập trung tới hàng trăm nóc nhà, nơi ruộng ít thì cũng dăm
chục nóc nhà. Bản làng thường dựa lưng vào núi, trước mặt trông ra cánh
đồng. Nhà ở của dân tộc Tày thường là nhà sàn, nhà sàn đá, nhà đất; mái nhà
lợp bằng ngói âm – dương hoặc lá cọ, lá gianh…
Người Tày có câu nói “Chiêm slao, chiêm tin slửa” (kén gái nhìn tà áo)
để nói về tài nghệ của người phụ nữ Tày trong việc trồng bông, kéo sợi vải,
nhuộm chàm, cắt quần áo... Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện rất rõ qua trang
phục.
Trong trang phục truyền thống của dân tộc, “cả nam lẫn nữ đều mặc quần
áo màu chàm và hầu như cùng một kiểu, không thêu trang trí” [Nguyễn Đăng
Duy, Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc,
2004, tr290]. Riêng chiếc áo của phụ nữ thường may vừa vặn cơ thể: hơi nhân
thêm eo, ống tay nhỏ để tôn những đường nét của cơ thể. Khi mặc áo, bao giờ
người phụ nữ cũng thắt ra ngoài một chiếc thắt lưng bằng vải chàm để xõa
mối ra đằng sau tạo nên sự mềm mại. Người phụ nữ Tày cũng mặc áo dài năm
thân, cài khuy áo bên nách phải như nhiều dân tộc khác, nhưng vẫn tạo ra
dáng vẻ riêng của mình, nhờ thân áo dài chấm gót, tay áo hẹp bó sát giống
như áo dài của phụ nữ Kinh, cổ áo không ôm khít vòng cổ như áo dài Kinh,

17



mà vẫn để hở một khoảng tạo cảm giác như chiếc áo ‘mềm mại” hơn. Độc
đáo hơn cả có lẽ là màu sắc của áo dài người Tày. Đó là màu vải chàm sậm
đen ánh sắc tím hay màu tím hồng. Để tôn thêm sự duyên dáng, phụ nữ Tày
còn vấn tóc, chít khăn vuông màu chàm theo kiểu chít vuông trước trán, các
góc khăn thường đính tua chỉ màu. Họ cũng hay đeo vòng cổ, vòng tay, chân
và dây xà tích bằng bạc.
Do địa hình không bằng phẳng, nhiều núi đồi, khe suối nên phương tiện
người Tày dung để đi lại, vận chuyển sản phẩm nông nghiệp thường bằng
ngựa. Vật dụng chứa mang vận chuyển thường bằng gánh đôi dậu, đôi xỏng
và đôi cuôi. Tất cả những vật dụng này đều do bàn tay người dân đan lát mà
tạo thành. Dùng trâu kéo và bè, mảng để chuyên chở cũng là một nét đặc sắc
riêng của dân tộc Tày.
* Văn hóa tinh thần
Thanh niêm nam nữ Tày được tự do tìm hiểu qua các cuộc hội hè, hát
lượn. Nhưng để đi đến hôn lễ hay không lại do hai gia đình quyết định. Người
Tày có phong tục “Khai lục nhình” (bán con gái) nên lễ vật và tiền cưới nhà
trai phải mang đến nhà gái rất hậu hĩnh. Việc tiến hành hôn nhân phải qua rất
nhiều khâu; đánh tiếng (đi hỏi), lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt. Lễ cưới thể hiện
rõ nhất nét đẹp văn hóa của người Tày qua việc hát đối đáp sli lượn trong đám
cưới. Đó là tiếng hát của ông quan lang (người chủ đón dâu) và đại diện nhà
gái để được lên nhà gái làm kễ tổ tiên và đón dâu, đưa dâu về nhà chồng.
Tiếng hát “quan lang” mang ý nghĩa cao quỹ bởi nó thể hiện tình cảm trân
trọng của nhà trai đối với nhà gái và ngược lại; đồng thời nó cũng thể hiện
văn hóa ứng xử của cả gia tộc nói riêng, tộc người nói chung thông qua đại
diện của hai gia đình. Đó còn là tiếng lượn của những người đến dự đám cưới
cất lên để mừng cho cô dâu chú rể, mừng cho gia chủ có được con dâu, con rể

18



thảo hiền, mừng cho cuộc sống mới… Tất cả các điệu si lượn đó đã tạo nên
một phần quan trọng trong đời sống văn nghệ của dân tộc Tày.
Người Tày là dân tộc theo tín ngưỡng đa thần. Các thần đều được gọi là
ma (phi), gồm phi phạ ở trên trời, phi đông ở trong rừng, phi pú pẩu là tổ
tiên… Bên cạnh quan niệm về các loại ma như trên, trong tâm thức của dân
tộc này còn có lại ma gà (phi cáy) ngự trị ở một số người. Đây là một loại ma
ác, thường làm hại nên người Tày rất ghét, sợ những ai bị mang tiếng là ma
gà. Mỗi khi gia đình có việc vui, buồn, ốm đau, bệnh tật… dân tộc Tày đều
hay mời thày mo, thày tào, bà bụt (pựt) về để hành lễ.
Trong một năm, người Tày có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác
nhau, Những dịp tết dù nhỏ hay to, người Tày đều làm những thứ bánh theo
từng thời điểm. Các loại bánh trái luôn biểu hiện cho bản sắc dân tộc của dân
tộc. Ví như mùng 3 tháng 3 là ngày tết ăn xôi ngũ vị, bánh trứng kiến; rằm
tháng bảy là tết bánh gai, bánh dợm và ăn thịt vịt quay… Đặc biệt nhất là
những ngày hội “Lồng Tôồng” (xuống đồng) tổ chức vào dịp đầu xuân ở
nhiều địa phương trong vùng với nhiều hình thức văn hóa và tín ngưỡng dân
gian mang đậm bản sắc dân tộc càng làm phong phú hơn đời sống văn nghệ,
đời sống tín ngưỡng của người dân.
Người Tày có kho tàng truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, tục ngữ,
truyện thơ phong phú, tiêu biểu là truyện Qủa bầu, Thạch Sanh, Cẩu Khây,
Phú Lương Quân, Báo Luông - Sao Cải, Khảm hải (vượt biển)… Ngoài ra,
dân tộc tày còn có dân ca với các làn điệu đặc trưng như hát sli, lượn, phong
slư, phuối pác, puối rọi, vén eng… các làn điệu dân ca này phục vụ trong đời
sống sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng của người Tày.
Cũng giống như một số dân tộc thiểu số ở vùng cao khác, người Tày còn
có một nền y học nhân dân khá phong phú “Hầu như gia đình nào cũng biết
nhiều cây thuốc chữa bệnh, thuốc bổ” [Nguyễn Đăng Duy, Nhận diện văn hóa

19



các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, 2004, tr30] cho con
người và gia súc, gia cầm để tự do phục vụ nhu cầu cuộc sống.
Từ những điều vừa tìm hiểu về đặc điểm văn hóa của dân tộc Tày chúng
ta có thể nhận ra rằng: Mỗi một dân tộc đều mang trong mình những dấu ấn
văn hóa riêng hòa trong những nét văn chung của nhiều dân tộc. Chính cái
riêng tạo nên đặc sắc của dân tộc đó. Còn những nét chung đã tạo nên nét hài
hòa giao lưu giữa các dân tộc anh em. Bản sắc văn hóa hay truyền thống dân
tộc là quá trình chọn lọc, tích lũy qua nhiều thế hệ. Trong xu hướng phát triển
kinh tế hội nhập ngày nay, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Tày cùng các
dân tộc anh em khác như giữ lại những trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn
hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội là điều không phải dễ dàng; Do đó việc
phát hiện, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của từng dân tộc theo
hướng ngày càng hiện đại nhưng vẫn giữ được dấu ấn riêng là vấn đề ý nghĩa
mang tính thời sự, cập nhật.
1.3 Cuộc đời và văn nghiệp Y Phương
1.3.1 Cuộc đời và văn nghiệp Y Phương
Tên khai sinh của Y Phương là Hứa Vĩnh Sước (các bút danh: Y
Phương, Chu Văn Păn, Hứa Hiếu Lễ) sinh ngày 24 tháng 12 năm 1948 trong
một gia đình nông dân dân tộc Tày ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh
Cao Bằng. Thân là cụ Hứa Văn Cường biết chữ nho, làm thầy tào và chữa
bệnh điên cứu người. Ngày bé, cậu bé Vĩnh Sước hiếu động đã theo cha gõ
trống, đánh não bạt cho đám ma. Cậu cũng đã từng ước ao ước có được
những phép thuật của thầy tào, học được những bài thuốc của cha, nhưng cha
nhìn thấy số mạng Vĩnh Sước không hợp nghề đó “Con là người nóng tính,
ham hố nhiều như tóc. Riêng hai điều đó không thể học được để làm thày
tào”. Cha tôn trọng thiên hướng bẩm sinh và bài học đầu tiên là dạy con là
cách xử thế nhân văn:


20


“Không bao giờ quỳ gối và nói lời cong”
“Con phải sống thẳng băng như đường mực”.
Thân mẫu ông là bà Nông Thị Lộc - một phụ nữ, tảo tần, đảm đang,
tháo vát, hiểu biết rộng, giàu đức hy sinh, luôn khích lệ con trai lòng can đảm,
ý chí phấn đấu vươn lên, quý trọng tinh thần tự chủ: "Tốc đin rà mạ tấc. Tốc
đin than mạ mè" (Sống tại đất mình thành ngựa đực. Sống ở nơi người là
ngựa cái). Mẹ luôn răn dạy anh: “Hãy giữ mình như giữ lửa-Cứ ngồi -Đừng
sợ bóng người cong”; phải biết sống đẹp, ngẩng cao đầu kiêu hãnh “Không
bao giờ nhỏ bé được nghe con”. Ghi nhớ lời mẹ, anh đã gửi thông điệp đó vào
bài thơ “Nói với con” và cũng chính bài thơ được đưa vào chương trình giảng
dạy văn học lớp 9 đã đưa tên tuổi anh đến gần hơn với công chúng, với giáo
viên, học sinh, với những người yêu thơ…
Hứa Vĩnh Sước lớn lên trong niềm từ hào về truyền thống của quê
hương, gia đình và nhất là chú anh - ông Hứa Văn Khải ở làng Hiếu Lễ. Năm
1947, ông Hứa Văn Khải và hai cụ lão du kích đã dùng khẩu đại bác do mình
tạo ra bằng gỗ nghiến, đặt tên Sàng Là, bắn giặc Pháp khi chúng đang hành
quân qua đèo Keng Phác - một trận đánh có một không hai trong lịch sử chiến
tranh thế giới. Cảm phục chiến công của ba ông lão du kích Co Xàu, trong đó
có ông Hứa Văn Khải, Bác Hồ đã tặng bài thơ “Tặng các cụ lão du kích”:
“Tuổi cao ý chí càng cao
Múa gươm giết giặc ào ào gió thu
Sẵn sàng tiêu diệt quân thù
Tiếng thơm Việt Bắc ngàn thu lẫy lừng
Khẩu súng kỳ lạ đó hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Pháo binh ở
thủ đô Hà Nội.
Muộn hơn so với bạn bè cùng trang lứa, lên 9 tuổi, ông mới tập nói
tiếng Kinh. Ngày đầu tiên mẹ đưa đến học trường cấp I thị trấn Trùng Khánh

(Cao Bằng), cậu bé Vĩnh Sước lạ lẫm nhìn thầy cô, bạn bè, chỉ bám riết lấy áo
mẹ nằng nặc đòi về. Sự nghiêm khắc và cả sự kiên trì của pa me khiến anh

21


mới dần quen với bảng đen, phấn trắng, thầy cô, bạn bè. Niềm đam mê văn
chương manh nha và phát lộ khi pa thấy cậu con trai chắm chúi, nghiền ngẫm
như một “con mọt sách” kho sách của mình. Nhìn thấy tố chất bẩm sinh trong
con trai, pa đã ủng hộ, nâng bước cho thiên hướng lựa chọn của anh. Việc
truyền nghề cho con là điều pa me đã từng nghĩ tới, nhưng không thành.
Thời ấu thơ sống bên đá, trên đá, thở trong đá, anh làm bạn với với đá,
với sách: "Sống trên đá không chê đá gập ghềnh". Sau này khi cái tên Y
Phương đã trở thành một tên tuổi quen thuộc trong làng văn chương, tâm sự
của anh vẫn là nỗi niềm gắn bó, thủy chung với đá: “Tôi nói với núi đá. Núi
đá vọng lại. Tôi hát với núi đá. Núi đá vọng lại. Chúng tôi thân thiết nhau
hơn sáu chục năm trời. Nay tôi đang trở thành người già. Còn núi vẫn... non”.
Núi non Cao Bằng – nơi thế kỉ XV là kinh thành của nhà Mạc, nơi các ngọn
núi từ thấp đến cao đều lao vút lên trời nhọn hoắt đã góp phần hun đúc, dung
dưỡng tố chất văn chương của anh.
Ngoài đá, bạn của anh là sách. Anh tâm sự “Tôi coi sách như bạn. Vì
tôi không có hứng thú ham chơi thả diều, đá bóng như nhiều bạn cùng lứa.
Tôi cô đơn và hay buồn, ngay từ khi còn ít tuổi". Từ những cuốn sách đầu tiên
của cha, cậu bé Vĩnh Sước đã mở rộng “thư viện nhỏ” của mình bằng nguồn
sách bổ sung từ việc dành dụm số tiền ít ỏi mẹ cho 5 xu mỗi sáng ăn quà để
mua sách. Anh say mê đọc ở bất cứ nơi đâu. Sách theo anh suốt cuộc đời, là
hành trang không thể thiếu. Anh nhớ sách như nỗi nhớ của người yêu nhớ
người yêu. Những khi thấy lòng nao nao, hoang hoảng, nhà thơ trốn vào Thư
viện sách gia đình như một kẻ ẩn dật để được động viên, được tiếp nguồn
năng lượng [15].

Học hết cấp I, cấp II, đang học dở cấp III ở Trùng Khánh, lại là con
một trong gia đình chỉ có hai chị em, nhưng anh đã "lựa chọn thông
minh"[15] với ý thức "vượt lên số phận". Chàng trai làng Hiếu Lễ nhập ngũ
năm 1968 ở Binh chủng Đặc công, chiến đấu ở mặt trận miền Đông Nam Bộ.

22


Sống chiến đấu cùng đồng đội, chung chịu những ngày gian khổ, hứng bao
mưa bom bão đạn tại vùng đất Lộc Ninh, Bình Phước tưởng như không còn
có kẽ hở, có thời gian nào cho thơ ca “len chân tới”. Tưởng như thơ ca là thứ
“xa xỉ”, “phù hoa” không phù hợp với trận mạc, chiến trận. Như người cầm
bút cùng thời, anh biết tạm gác những đam mê, biết cầm lòng vậy, đành lòng
vậy, nén lại “cái tinh tế cỏ hoa”, tạm thời chưa dám nghĩ đến thơ phú…
nhưng chính thời điểm cuộc chiến tranh khốc liệt của đế quốc Mỹ của những
năm 70 của thế kỷ XX ấy dường như đã “kích hoạt”, “châm ngòi”, dung
dưỡng, tạo nên một hồn thơ cho chàng lính trẻ đặc công. Khởi nghiệp con
đường thi ca với cái tên Hứa Vĩnh Sước và trình làng hai bài thơ đầu tiên
“Bếp nhà trời” và “Dáng một con sông” in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội
(số 6 năm 1973). Dù sau này khẳng định một lối đi riêng, một phong cách cá
nhân với một gia tài thi ca “săn chắc, vạm vỡ mang hồn làng” thì thời đầu thơ
anh vẫn không thể khác giọng thơ chung hào sảng vốn đã chi phối cả một thế
hệ sáng tác:
“Câu hát thiêng liêng lắm chứ
Hát bây giờ còn để hát mai sau”
Tuy không là ngoại lệ cùng “dàn đồng ca”, nhưng chỉ sau các tập “Lửa
hồng một góc”, “Lời chúc”, “Đàn then”, anh đã sớm tạo ra tiếng nói riêng,
không nhòe lẫn “có sự bồi hồi dân tộc đặc trưng và có sự khao khát chiếm
lĩnh đỉnh cao”.
Niềm say mê con đường học vấn đưa anh đi xa hơn trên con đường đã

chọn. Anh luôn tự nhủ “Cái ta biết chỉ như một giọt nước. Cái ta chưa biết là
biển cả mênh mông”. Với tinh thần ấy, khi miền Nam giải phóng, đất nước
thống nhất, việc đầu tiên anh lính đặc công nghĩ tới là tiếp tục trở lại con
đường học vấn dang dở khi mình và bạn bè cùng trang lứa tình nguyện “Xếp
bút nghiên lên đường chiến đấu”. Từ mặt trận Đông Nam Bộ trở về làng

23


ngoài chiếc “ba lô con cóc to bè trên lưng”, Hứa Hiếu Lễ (một bút danh khác
của Hứa Vĩnh Sước) khuân về một tải sách nặng. Anh gặp cha và đứa cháu ở
chợ. Người cha đứng lặng, trân trân nhìn con ậng nước mắt. Một nỗi xúc động
dâng trào khi người con trai duy nhất của ông may mắn sống sót trở về, lại
mang theo một hành trang sách…Bà con làng Hiếu Lễ đến chia vui với gia
đình và rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy anh bộ đội từ miền Nam ra không
mang khung xe, radio, ti vi, máy lạnh…như nhiều người thời đó, mà ngoài
con búp bê “biết khóc, biết chớp chớp mi” cho đứa cháu thì… chỉ có sách.
Thầy Hứa Văn Cường có dạy chữ Nho nên hiểu hơn ai hết sự quý giá từ sách
mang lại và rất hài lòng về con trai mình. Nguồn sách ấy theo Hứa Vĩnh
Sước, chắp cánh tình yêu văn chương cho “Người trai làng Hiếu Lễ”, hối thúc
anh hiện thực hóa tình yêu ấy và anh đã chờ vào học Trường Viết văn Nguyễn
Du. Không để thời gian nghỉ, trong khoảng thời gian chờ đợi, năm 1976, anh
vào học ngay Trường Điện ảnh Việt Nam. Năm 1982, niềm mong ước mới
được thỏa nguyện khi là học viên trong danh sách cuối cùng của Trường Viết
văn Nguyễn Du (khóa II, 1982-1985). Anh say mê tiếp thu nguồn tri thức từ
thầy, không quên học hỏi những bạn văn chương ở các vùng miền đất nước
như: Pờ Sảo Mìn, Phạm Ngọc Chiểu, Đức Ban, Trần Quốc Thực, Phùng Khắc
Bắc, Thanh Kim, Hà Đình Cẩn, Nguyễn Trác, Phạm Đức… Năm 1985,
“Người trai làng Hiếu Lễ” đang dự trại sáng tác Đại Lải chuẩn bị hoàn thành
tác phẩm tốt nghiệp trường Đại Học Viết văn Nguyễn Du thì tai họa bỗng đâu

ập đến, gắn anh với căn bệnh hiếm thấy: viêm dây thần kinh mạng nhện. Quê
hương xa xôi, gia đình neo người, vợ anh một nách 2 đứa con thơ nhỏ dại,
một mình anh chống chọi với căn bệnh mà phần lớn bệnh nhân mắc bệnh đó
đều để lại dị tật. Những lúc khó khăn nhất anh đã không đơn độc. Suốt 3
tháng điều trị tại Khoa Thần kinh (Bệnh viện Bạch Mai), thầy cô giáo và bạn
bè văn chương đã tận tình chăm sóc, giúp đỡ. Người “phục sinh” sự sống,

24


×