Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Địa lí nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (852.18 KB, 123 trang )

MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Là ngành sản xuất vật chất lâu đời nhất, với chức năng cung cấp lương thực
thực phẩm, nông nghiệp (theo nghĩa rộng) cho đến nay vẫn là ngành kinh tế có vai tṛò
quan trọng không thể thay thế được trong đời sống kinh tế - xã hội của nhân loại.
Chiếm 22,0% GDP và 48,4% lao động (năm 2011), nông nghiệp hiện
đang là ngành kinh tế quan trọng ở nước ta. Trong công cuộc CNH, HĐH đất
nước, vai trò của nông nghiệp không hề suy giảm, mà ngược lại, phát triển
nông nghiệp còn là một khâu quan trọng trong chiến lược công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp, nông dân và nông thôn
đang là mối quan tâm ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển nền kinh tế
- xã hội ở nước ta hiện nay.
Bắc Ninh là một tỉnh đất chật, người đông, diện tích đất nông nghiệp
bình quân đầu người thấp, thấp hơn mức trung bình cả nước và còn tiếp tục
giảm do quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và do gia tăng số dân. Tuy
nhiên, hiện nay ngành nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng với tỉnh,
ngành góp phần giải quyết một cách cơ bản vấn đề lương thực trong tỉnh
đồng thời cung cấp cho một số tỉnh lân cận. Hiện ngành giải quyết việc làm
cho đại bộ phận lao động chưa qua đào tạo ở khu vực nông thôn và thu hút
tới 44,1 % số lao động toàn tỉnh (năm 2011).
Trong những năm qua, sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh đã đạt
được những thành tựu đáng kể. Trong thời gian 10 năm, giá trị sản xuất nông,
lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 4,4%; sản lượng thóc tăng 3,2%, rau tăng 5,3%,
thịt hơi gia súc và gia cầm xuất chuồng tăng 8,9%. Mặc dù trong cơ cấu GDP,
giá trị tương đối của ngành nông nghiệp giảm do tốc độ tăng trưởng chậm hơn
so với công nghiệp và dịch vụ nhưng giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng
nhanh. Điều đó chứng tỏ ngành nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế của tỉnh
nói chung phát triển rất tích cực.

1



Tuy nhiên, nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế, diện tích đất nông nghiệp đang bị thu hẹp nhanh chóng, phần lớn sản
xuất mang tính nhỏ lẻ tự cung tự cấp, năng suất lao động còn chưa cao, ngành
dịch vụ nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, chưa khai thác hết
tiềm năng của vùng.
Đề tài “ Địa lí nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh” nhằm đánh giá các nhân tố
cũng như tìm hiểu, phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh,
từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp góp phần thúc đẩy tăng trưởng sản xuất
nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế của tỉnh nói chung.
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp, đề tài tập
trung đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển và phân bố nông
nghiệp, phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp
góp phần đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp của Bắc Ninh.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan cơ sở lí luận và thực tiễn địa lí nông nghiệp để vận dụng
vào địa bàn tỉnh Bắc Ninh
- Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp
(theo nghĩa rộng) của tỉnh Bắc Ninh.
- Phân tích thực trạng sản xuất nông nghiệp Bắc Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp cho phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh
hiệu quả và bền vững..
III. GIỚI HẠN, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu địa lí nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh theo nghĩa
rộng (nông – lâm – thủy sản) với nội dung:
- Đánh giá các nhân tố phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
2



- Phân tích thực trạng sản xuất, cơ cấu ngành, sự phân hoá lãnh thổ sản
xuất nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh, có chú ý đến các hình thức tổ chức lãnh thổ
nông nghiệp.
2. Phạm vi lãnh thổ
Nghiên cứu lãnh thổ toàn tỉnh, có sự phân hóa tới cấp huyện đồng thời
có sự so sánh với một số tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).
3. Thời gian
Tập trung nghiên cứu thời gian 10 năm (từ năm 2001 đến 2011).
IV. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Nông nghiệp và các khía cạnh của địa lí ngành nông nghiệp đã được đề
cập trong nhiều công trình nghiên cứu ở cả lý thuyết và thực tiễn.
Trong cuốn “ Giáo trình kinh tế nông nghiệp” của Nguyễn Thế Nhã,
Vũ Đình Thắng và Kinh tế nông nghiệp của Phạm Đình Vân, Đỗ Kim Chung.
Hai tác phẩm đã đề cập đến các vấn đề cơ bản của kinh tế nông nghiệp, như:
đặc điểm, các nguồn lực chủ yếu trong phát triển nông nghiệp; lí thuyết cung,
cầu trong nông nghiệp và các vấn đề phát triển nông nghiệp bền vững. Đó là
những cơ sở lí luận rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu, phân tích, đánh
giá thực trạng phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh .
Trong cuốn “Địa lí kinh tế - xã hội đại cương” của Nguyễn Minh Tuệ,
Nguyễn Viết Thịnh, Lê Thông – NXB ĐHSP Hà Nội; “Giáo trình Địa lí kinh tế
- xã hội Việt Nam” của Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức – NXB Giáo dục,
2011; Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam của Lê Thông – NXB ĐHSP, 2011. Các
tác phẩm đã nêu ra những vấn đề lí luận và thực tiễn của Địa lí kinh tế - xã hội
nói chung và Địa lí nông nghiệp nói riêng: vai trò, các nhân tố ảnh hưởng, sự
phân bố địa lí của sản xuất nông nghiệp, đặc điểm phát triển sản xuất nông
nghiệp trên thế giới và Việt Nam. Đó là những vấn đề cơ sở lí luận rất quan
trọng cho việc nghiên cứu Địa lí nông nghiệp vào một lãnh thổ cụ thể như tỉnh
Bắc Ninh.


3


Tác giả Đinh Phi Hổ đã đưa ra hướng tiếp cận mới trong đánh giá phát
triển nông nghiệp theo phương pháp định lượng trên nền tảng lý thuyết kinh
tế học. Theo đó, các vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp như: thế nào là
phát triển nông nghiệp bền vững, các vấn đề kinh tế nông thôn và các yếu tố
tác động đến tăng trưởng và phát triển nông nghiệp đều được đánh giá bằng
các công cụ định lượng để có được những kết luận khoa học nhất về thực
trạng phát triển kinh tế nông nghiệp của một lãnh thổ trong cuốn “Kinh tế học
nông nghiệp bền vững” . Đó là những gợi ý quan trọng trong quá trình nghiên
cứu địa lí nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
Tác giả Đặng Văn Phan trong cuốn sách “Tổ chức lãnh thổ nông
nghiệp Việt Nam” cũng đề cập đến những vấn đề lí luận và thực tiễn của
TCLT nông nghiệp: khái niệm, các nhân tố và các hình thức TCLT nông
nghiệp nói chung, thực trạng TCLT nông nghiệp ở Việt Nam… Đó là những
cơ sở quan trọng để đề tài đưa ra những phân tích, nhận định về thực trạng
TCLT nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Các luận văn về Địa lý nông nghiệp có thể nhắc đến: Nghiên cứu nông
nghiệp thành phố Hà Nội sau thời điểm 1/8/2008 của Lê Mỹ Dung (2011),
Địa lý nông nghiệp tỉnh Phú Thọ của Nguyễn Thương Huyền (2012), Địa lý
nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp của Hoàng Thị Việt Hà (2010)…Các đề tài này
đã đề cập đến một số vấn đề Địa lý nông nghiệp của từng lãnh thổ nghiên
cứu, tuy nhiên, chưa có đề tài nào nói dược đầy đủ các tiêu chí đánh giá sự
phát triển nông nghiệp.
Nghiên cứu về Bắc Ninh đã có luận án : Nông thôn, nông nghiệp và
nông dân Bắc Ninh trên đường đổi mới của Trần Văn Túy cũng đã nghiên cứu
về thực tiễn bức tranh nông nghiệp, nông thôn và nông dân Bắc Ninh qua một
số chặng đường phát triển trên con đường đổi mới và hội nhập.

Đề tài “Địa lí nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh” kế thừa, bổ sung và cập nhật
những vấn đề mới của địa lí nông nghiệp hiện đại mà cụ thể là các chỉ tiêu

4


đánh giá phát triển nông nghiệp và vận dụng các chỉ tiêu đó trong suốt quá
trình phân tích thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh.
V. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Quan điểm nghiên cứu
1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Bất kì một sự vật, hiện tượng địa lí nào cũng tồn tại trên một không
gian lãnh thổ nhất định. Tìm ra mọi sự phân hoá theo lãnh thổ, giải thích
nguyên nhân và dự kiến sự phân hoá ấy trong tương lai là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của nghiên cứu địa lí.
Vận dụng quan điểm lãnh thổ trong nghiên cứu địa lí nông nghiệp tỉnh
Bắc Ninh nhằm đánh giá tác động của các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối
với sản xuất nông nghiệp và sự phân hoá của chúng theo các đơn vị lãnh thổ
khác nhau. Từ sự khác biệt lãnh thổ trong sản xuất nông nghiệp cho phép người
nghiên cứu tìm ra thế mạnh của từng vùng sản xuất nông nghiệp của tỉnh để đưa
ra kế hoạch phân vùng sản xuất nông nghiệp một cách hợp lí và hiệu quả.
1.2. Quan điểm tiếp cận hệ thống
Quan điểm này cho phép xem xét lãnh thổ nghiên cứu là một hệ thống,
với nhiều khía cạnh có quy mô, bản chất khác nhau cùng tồn tại trong mối
quan hệ tác động qua lại; mặt khác lãnh thổ đó lại là một bộ phận của hệ
thống cấp cao hơn và có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác.
Quan điểm tiếp cận hệ thống và tổng hợp không xem Bắc Ninh là một
đơn vị độc lập mà đặt nó trong các hệ thống cấu thành lãnh thổ sản xuất lớn hơn
là vùng ĐBSH và toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, bản thân tỉnh là một hệ

thống kinh tế - xã hội được cấu tạo bởi mối quan hệ giữa các thành phần tự
nhiên, kinh tế, xã hội, dân cư,... Hệ thống các ngành kinh tế, trong đó có nông
nghiệp lại bao gồm các bộ phận cấu thành như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, chúng tồn tại trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Bất kì sự thay

5


đổi của một thành phần nào cũng sẽ làm ảnh hưởng đến các thành phần khác và
toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội nói chung.
1.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Các quá tŕnh kinh tế - xã hội không ngừng vận động trong không gian và
biến đổi theo thời gian. Sự hình thành và phát triển của ngành kinh tế nông
nghiệp tỉnh Bắc Ninh cũng là một quá tŕnh luôn vận động và phát triển. Hiện
trạng phát triển của sản xuất nông nghiệp hiện tại là sự kế thừa kết quả của các
quá trình trước đó, đồng thời cũng là cơ sở để phát triển trong tương lai.
Vận dụng quan điểm lịch sử - viễn cảnh trong nghiên cứu địa lí nông
nghiệp tỉnh Bắc Ninh để xem xét sự biến đổi của nó theo không gian và thời
gian, rút ra được những quy luật chung về sự phát triển ngành, đánh giá đúng
hiện trạng trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, đồng thời dự đoán về
triển vọng phát triển trong tương lai cùng với những thay đổi của các yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội...
1.4. Quan điểm môi trường sinh thái và phát triển bền vững
Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng tất yếu trong mọi kế hoạch,
chương trình, chiến lược phát triển của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Đối với sản xuất nông nghiệp – một hoạt động chủ yếu dựa vào tự
nhiên, càng phát triển càng tác động nhiều vào tự nhiên thì vấn đề bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững trở thành một vấn đề sống c̣òn để có thể đạt và
duy trì được sự phát triển.
Phát triển bền vững vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu nghiên cứu. Phát

triển bền vững thể hiện ở việc đạt được hiệu quả cao trên cả ba phương diện:
kinh tế - xã hội - môi trường. Cụ thể: về kinh tế, đó là tốc độ tăng trưởng cao và
ổn định; về hội, là sự đảm bảo vấn đề lương thực, xoá đói giảm nghèo, giảm áp
lực dân số đối với nông nghiệp; về môi trường đó là vấn đề bảo vệ đa dạng sinh
học, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chống suy thoái và ô nhiễm môi trường.

6


Quán triệt quan điểm này trong quá trình nghiên cứu địa lí nông nghiệp
tỉnh Bắc Ninh có ý nghĩa định hướng cho công tác phân tích, đánh giá các
thành quả phát triển nông nghiệp cũng như việc đề ra các giải pháp nhằm khai
thác lãnh thổ một cách hợp lí, hiệu quả và bền vững.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp thu thập, phân tích tài liệu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện dựa trên nhiều nguồn tài liệu, số
liệu, do vậy phương pháp thu thập, phân tích tài liệu là rất quan trọng và cần
thiết. Trên cơ sở nguồn tài liệu thu thập được, tác giả đã tiến hành xử lí, đối
chiếu, so sánh để có được những tài liệu tin cậy nhất, đảm bảo tính thống nhất
đồng bộ và cập nhật nhằm đưa ra những đánh giá chính xác về thực trạng phát
triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh cũng như việc dự báo xu hướng
phát triển của ngành trong tương lai.
2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
Việc tiến hành điều tra, khảo sát thực địa là một yêu cầu cần thiết để
đánh giá hiện trạng phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Đây là
phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu địa lí. Điều tra, khảo sát thực địa
nhằm đối chiếu số liệu thu thập được và bổ sung những thông tin từ thực tế
cho những nhận xét đã được đưa ra trước đó.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã có sự lựa chọn các địa điểm
quan trọng để khảo sát nhằm có những đánh giá tổng quát nhất về thực trạng

phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh .
2.3. Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
Nghiên cứu địa lí ngành nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh cần phân tích, so
sánh và đối chiếu với các tỉnh khác trong ĐBSH để thấy rõ bản chất chung
nhất, xu hướng phát triển cũng như mối quan hệ giữa chúng. Nhờ so sánh mà
có thể thấy được sự thay đổi, giữa các ngành nông – lâm – ngư nghiệp, giữa
các huyện trong tỉnh qua các năm. Sau khi phân tích, so sánh cần tiến hành
7


bước tổng hợp để có được cái nhìn tổng quát về đối tượng nghiên cứu và đưa
ra được những đánh giá đúng đắn theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của
đề tài.
2.4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ và hệ thống thông tin địa lí (GIS)
Bản đồ là “ngôn ngữ” tổng hợp, ngắn gọn, xúc tích, đồng thời nó là
phương tiện trực quan hoá các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội của các lãnh
thổ. Sử dụng bản đồ là phương pháp truyền thống và đặc trưng của địa lí.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã vận dụng kiến thức về bản đồ, ứng
dụng công nghệ GIS và Mapinfo để thành lập bản đồ hành chính, bản đồ nhân
tố ảnh hưởng và bản đồ thực trạng sản xuất nông nghiệp, bản đồ phân vùng
nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
Phương pháp bản đồ, biểu đồ được sử dụng trong suốt quá tŕnh thực hiện
đề tài, ngay từ trong quá trình tìm hiểu, khảo sát và nghiên cứu địa lí nông
nghiệp tỉnh Bắc Ninh kết hợp với phương pháp điều tra, khảo sát thực địa và các
tài liệu liên quan. Các kết quả nghiên cứu lại được thể hiện qua các biểu đồ, bản
đồ với ý nghĩa thông tin mới và phản ánh những kết quả nghiên cứu của đề tài.
Biểu đồ được sử dụng để phản ánh quy mô, cơ cấu, động lực của các sự
vật, hiện tượng và quá trình địa lí kinh tế - xã hội theo thời gian hoặc không
gian. Cùng với bản đồ, biểu đồ làm cụ thể hoá các sự vật, hiện tượng, giúp
cho việc thể hiện các kết quả nghiên cứu trở nên trực quan và sinh động hơn.

VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Đúc kết, làm sáng tỏ những cơ sở lí luận và thực tiễn về địa lí nông nghiệp.
- Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố
nông nghiệp, chỉ ra những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển và phân
bố nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
- Phân tích thực trạng sản xuất nông nghiệp Bắc Ninh theo ngành, theo
thành phần và theo lãnh thổ. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của nông
nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
8


- Trên cơ sở định hướng phát triển nông nghiệp đến năm 2020, từ đó
đưa ra đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp Bắc
Ninh hiệu quả đến năm 2020.
VII. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn gồm có 3
chương chính:
- Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của địa lí nông nghiệp.
- Chương 2. Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển, phân bố
nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh..
- Chương 3. Định hướng và những giải pháp phát triển và phân bố
nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020.

9


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CỦA ĐỊA LÍ NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Vai trò của sản xuất nông nghiệp
1.1.1.1. Nông nghiệp đáp ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực
phẩm cho đời sống con người
- Các Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn rồi sau đó
mới đến các hoạt động khác. Nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt
cho con người…và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên cho
sự sống của họ và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Dù xã hội loài người
có phát triển đến trình độ nào đi chăng nữa thì không một ngành kinh tế nào
có thể thay thế được vai trò của nông nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu
lương thực, thực phẩm cho con người. Sự gia tăng dân số và sự thu hẹp diện
tích đất nông nghiệp đang đặt xã hội loài người trước nguy cơ thiếu hụt nguồn
lương thực, thực phẩm. Vấn đề an ninh lương thực không còn là mối quan
tâm của riêng một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào mà nó đã trở thành một
thách thức lớn cho toàn nhân loại.
Từ việc đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho con người, sự phát
triển ngành nông nghiệp có tác động đến sự mở rộng các ngành kinh tế khác.
Khi lượng lương thực, thực phẩm được sản xuất ra vượt mức tiêu dùng của
người sản xuất (người nông dân), thì lượng lương thực thặng dư này sẽ được
cung cấp cho nhu cầu lương thực, thực phẩm của dân cư và những người sản
xuất trong các ngành kinh tế khác. Có quan điểm cho rằng, sự đóng góp này
là không đáng kể vì sự thiếu hụt lương thực, thực phẩm hoàn toàn có thể được
giải quyết bằng cách nhập khẩu. Nhưng trên thực tế, việc nhập khẩu lương
thực, thực phẩm có thể sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế, đặc biệt đối với các
nước đang phát triển do việc nhập khẩu sẽ dẫn tới thiếu hụt ngoại tệ và chi phí
10


cao. Hơn nữa, chúng ta đều biết rằng, nhập khẩu lương thực, thực phẩm là
nhập khẩu hàng tiêu dùng và nó không tạo ra giá trị thặng dư giống như việc
nhập khẩu các thiết bị sản xuất, máy móc hay nguyên vật liệu khác. Ở đây, có

sự lựa chọn giữa nhập khẩu lương thực, thực phẩm và tư liệu sản xuất.
1.1.1.2. Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp
Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các ngành
công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống;
công nghiệp dệt, da và đồ dùng bằng da… đều sử dụng nguồn nguyên liệu từ
nông nghiệp [23] . Vì vậy, sự phát triển của các ngành công nghiệp này lệ
thuộc vào sự phát triển của sản xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của các
ngành công nghiệp, ngược lại, sự phát triển của các ngành công nghiệp nêu
trên sẽ làm tăng giá trị nông sản, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, nông nghiệp có ảnh hưởng quyết
định đến sự phát triển và phân bố các ngành công nghiệp chế biến.
1.1.1.3. Nông nghiệp góp phần tạo ra nhiều việc làm cho dân cư
Nông nghiệp tạo ra nhiều việc làm, thu hút lao động dư thừa của xã hội.
Ở các nước đang phát triển, nông nghiệp, nông thôn là khu vực dự trữ nguồn
lao động và cung cấp nguồn lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Sự
phát triển và ứng dụng khoa học kĩ thuật trong sản xuất nông nghiệp góp phần
tăng nhanh năng suất lao động, tạo nguồn lao động dư thừa bổ sung cho phát
triển công nghiệp, dịch vụ. Bên cạnh đó, quá trình công nghiệp hóa và đô thị
hóa một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác làm cho năng suất lao
động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động nông nghiệp
được giải phóng ngày càng nhiều. Đây là xu hướng có tính chất quy luật gắn
liền với sự chuyển dịch lao động theo ngành trong quá trình CNH, HĐH [8].
1.1.1.4. Nông nghiệp cung cấp nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế
Nguồn vốn từ nông nghiệp cung cấp cho các ngành kinh tế khác được
thể hiện dưới hai khía cạnh:

11



a. Nông nghiệp cung cấp nguồn hàng hóa lớn cho xuất khẩu
Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hóa xuất
khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển. Trong cơ cấu kim ngạch
xuất khẩu – nhất là dưới dạng thô có xu hướng giảm đi, nhưng về giá trị tuyệt
đối thì vẫn tăng lên. Vì vậy, trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nhiều nước, nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu,
tạo ra tích lũy để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân [23].
Ở Việt Nam năm 2011, tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông –
lâm – thủy sản chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (trên 15 tỉ
USD) với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là thủy sản, gạo, cà phê, cao su, hạt
điều, rau quả…
b. Sự chuyển dịch vốn từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế khác
Trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, nguồn vốn đầu tư cho phát
triển kinh tế chủ yếu lấy từ nông nghiệp vì nguồn vốn đầu tư và hỗ trợ từ
nước ngoài là không nhiều. Nông nghiệp lúc đó là nguồn tiết kiệm và đầu tư
chủ yếu của nền kinh tế.
Nguồn vốn đóng góp của nông nghiệp được lấy từ nhiều nguồn khác
nhau, như: từ thuế đất nông nghiệp, thuế xuất khẩu nông sản, thuế nhập khẩu
tư liệu sản xuất nông nghiệp… Ở nhiều nước, trong giai đoạn đầu phát triển
kinh tế, họ thậm chí phải hi sinh từ nông nghiệp để đảm bảo cho phát triển các
ngành khác và ở giai đoạn sau, khi nền kinh tế phát triển cao lại quay lại bảo
hộ cho nông nghiệp. Ví dụ: Nhật Bản đánh thuế đất nông nghiệp tới 80%
trong tổng giá trị thuế của nền kinh tế. Hay Ấn Độ đã từng áp dụng chính sách
giữ giá nông sản thấp và ổn định để duy trì sự ổn định của nền kinh tế…
Nhưng chính sách quản lí giá cả của Nhà nước theo xu hướng giá sản phẩm
công nghiệp tăng nhanh hơn giá nông sản là tạo tích luỹ cho công nghiệp từ
sự hi sinh của nông nghiệp.

12



1.1.1.5. Nông nghiệp và nông thôn là thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm hàng
hóa của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
Nông nghiệp vừa là thị trường đầu vào vừa là đầu ra của các ngành
kinh tế khác. Tuy thu nhập của lao động nông nghiệp không cao bằng các lĩnh
vực kinh tế khác, nhưng ở các nước đang phát triển, với ưu thế quy mô dân số
trong nông nghiệp đông, nông nghiệp và nông thôn thực sự là thị trường tiêu
thụ đầy tiềm năng. Mặt khác, việc cung cấp các yếu tố lương thực, thực phẩm
và nguyên liệu nông sản cho các ngành kinh tế khác cũng thể hiện vai trò
không nhỏ của nông nghiệp trong nền kinh tế.
Đời sống dân cư nông thôn càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông
thôn càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp và nông thôn
sẽ trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân.
1.1.1.6. Nông nghiệp trực tiếp tham gia vào việc giữ gìn cân bằng sinh thái,
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng thường
xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hóa chất…với việc trồng và bảo vệ rừng,
luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống, đồi trọc…Tất cả những điều đó đều
có sự tác động đến môi trường. Chính việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên, môi trường sinh thái còn là điều kiện để sản xuất nông nghiệp có thể
phát triển và đạt hiệu quả cao [23].
1.1.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội, với những đặc điểm riêng biệt. Nghiên cứu các đặc điểm của nó có vai
trò quan trọng trong việc xác định phương hướng phát triển, hoạch định chính
sách và tiến hành các biện pháp quản lý có hiệu quả.
1.1.2.1. Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế
Trong công nghiệp, giao thông, đất đai chỉ là nơi xây dựng nhà xưởng,
hệ thống giao thông còn trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ
13



yếu, đặc biệt và không thể thay thế. Thường thì không thể có sản xuất nông
nghiệp nếu không có đất đai.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt vì nó vừa là đối tượng lao động, vừa
là tư liệu lao động. Đất đai là đối tượng lao động vì nó chịu sự tác động của
con người (như cày, xới) để có môi trường tốt cho sinh vật phát triển; là tư
liệu lao động vì nó phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người
dùng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi. Vì thế, số lượng và chất lượng đất đai
quy định quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ thâm canh, phương
hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp. Chỉ có thông qua
đất, các tư liệu sản xuất khác mới tác động được đến cây trồng và con người
mới sử dụng đất đai đúng hướng để tạo ra sản phẩm nông nghiệp. Do vậy, cần
sử dụng đầy đủ và hợp lí để vừa làm tăng năng suất vừa bảo vệ đất đai. Tất
nhiên, việc duy trì, nâng cao độ phì trong đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
đầu tư vốn và sức lao động, phương tiện sản xuất hiện đại, áp dụng rộng rãi
các thành tự khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
1.1.2.2. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, cơ thể sống
Nông nghiệp có đối tượng sản xuất là cây trồng và vật nuôi, đó là những
cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo các quy luật sinh học, đồng
thời lại chịu tác động rất nhiều từ các điều kiện tự nhiên (thời tiết, khí hậu, môi
trường). Các quy luật sinh học và quy luật tự nhiên tồn tại độc lập với ý muốn
chủ quan của con người. Vì thế, mọi sự tác động của con người trong sản xuất
nông nghiệp đều phải xuất phát từ nhận thức đúng đắn về các quy luật tự nhiên
và quy luật sinh học.
Từ đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi, chúng
ta thấy rằng: Nguyên liệu ban đầu của sản xuất nông nghiệp là hạt giống, con
giống, quá trình sản xuất sẽ làm cho thành phẩm tăng lên gấp bội lần khi được
mùa và cũng có thể là trắng tay khi mất mùa. Vì thế, cần tìm ra giống cây, con
tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, đồng thời phải không

14


ngừng lai tạo, chọn lọc để có được những giống cây, con thích nghi rộng với
điều kiện ngoại cảnh.
1.1.2.3. Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ
Tính thời vụ là một đặc trưng riêng biệt, nổi bật nhất của sản xuất nông
nghiệp. Tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp thể hiện: thời gian lao động
không trùng khớp với thời gian sản xuất. Thời gian sản xuất là thời gian mà
đối tượng sản xuất nằm trong chu kì sản xuất. Thời gian lao động là thời gian
mà sức lao động của con người tác động vào đối tượng lao động. Do đối
tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi, mỗi loài phát triển theo
quy luật riêng và có chu kì khác nhau, có lúc cần tác động của con người,
nhưng có lúc chúng tự phát triển dựa vào điều kiện môi trường sống. Từ đây
nảy sinh tình trạng có lúc đòi hỏi lao động căng thẳng và liên tục, nhưng có
lúc lại thư nhàn, thậm chí không cần lao động, vì thế việc sử dụng đất đai và
lao động thế nào cho hợp lí là rất cần thiết. Chẳng hạn để khắc phục tính thời
vụ, chúng ta có thể xây dựng một cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lí, thực hiện
đa dạng hóa sản xuất, phát triển các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn.
1.1.2.4. Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên
Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi, chịu tác
động của điều kiện tự nhiên như khí hậu, đất đai, nguồn nước,…nên sản xuất
nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên đó
với tư cách là tài nguyên nông nghiệp đã quyết định khả năng về mặt tự nhiên
đối với việc nuôi trồng các loại cây, con cụ thể. Nếu có sự thay đổi của một
yếu tố thì sẽ có hàng loạt các kết hợp khác nhau, điều này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới nông nghiệp. Vì vậy, muốn phát triển và phân bố hợp lí nền nông
nghiệp cần hiểu rõ điều kiện tự nhiên, đồng thời tăng cường các biện pháp
khoa học kĩ thuật để hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào tự nhiên trong sản xuất
nông nghiệp.

15


1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp
1.1.3.1. Vị trí địa lí và phạm vi lãnh thổ
Vị trí địa lí cùng với khí hậu, thổ nhưỡng quy định sự có mặt của các
hoạt động nông nghiệp. Vị trí địa lí của lãnh thổ với đất liền, với biển, với các
quốc gia trong khu vực và nằm trong một đới tự nhiên nhất định sẽ có ảnh
hưởng tới phương hướng sản xuất, tới việc trao đổi và phân công lao động
trong nông nghiệp. Chính v́ì vậy, các nước nằm ở khu vực nhiệt đới, gần biển
có khí hậu hải dương, mưa nhiều sẽ thuận lợi cho trồng lúa c̣òn các nước nhiệt
đới nằm sâu trong nội địa thường ít mưa, tạo ra khu vực bán hoang mạc khô
cằn, mất đi khả năng để phát triển một nền nông nghiệp lúa nước; những nước
giáp biển có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển ngành đánh bắt hải sản (như
Việt Nam, Trung Quốc, Pêru, Thái Lan…), ngược lại những nước không có
biển (như Lào, Mông Cổ,…) thì không thể phát triển được ngành này.
1.1.3.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
a. Địa hình
Địa hình có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp. Địa
hình bằng phẳng tạo điều kiện cho canh tác, áp dụng cơ giới hoá trong nông
nghiệp, giữ được độ ẩm cho đất, hình thành những vùng sản xuất nông nghiệp
chuyên canh quy mô lớn. Ngược lại, địa hình dốc, việc làm đất, làm thủy lợi
đều gặp khó khăn, tốn kém trong công tác chống xói mòn, rửa trôi… Địa hình
cũng có ảnh hưởng tới việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
b. Đất trồng
Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu trong nông nghiệp. Con người dùng
đất để trồng trọt và chăn nuôi, không có đất thì không có sản xuất nông nghiệp.
Tài nguyên đất, đặc điểm về số lượng và chất lượng của đất là nhân tố có ảnh
hưởng quyết định đến quy mô, cơ cấu, sự phân bố các sản phẩm nông nghiệp.
Năng suất cây trồng cũng như việc sản xuất các sản phẩm nông nghiệp

khác phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đất, độ mùn trong đất, thành phần cơ
16


giới, cơ cấu và tầng dày của đất. Cây thường cho năng suất cao trên đất tơi
xốp, thoát nước, thoáng khí, đủ ẩm, tầng canh tác dày và có những đặc tính
vật lư, hóa học phù hợp, ngược lại càng cho năng suất thấp khi đất chặt, chai
cứng, độ tơi xốp kém. Đặc biệt, một số cây chỉ trồng được ở một số loại đất
nhất định, vì vậy dân gian có câu: “Đất nào cây ấy”.
Đất trồng là tài nguyên đặc biệt quan trọng đối với nông nghiệp nhưng
không phải là tài nguyên vô tận. Trên phạm vi toàn thế giới, đất nông nghiệp
chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng diện tích tự nhiên, trong khi đó dân số không
ngừng tăng lên. Diện tích đất hoang ở một số khu vực tuy còn nhiều nhưng
khả năng khai hoang, mở rộng diện tích bị hạn chế. Đó là chưa tính đến việc ở
nhiều nơi đất đang bị thoái hóa do xâm thực rửa trôi, hoang mạc hóa và nhất
là sự khai thác không hợp lí của con người. Vì vậy, con người cần phải sử
dụng hợp lí diện tích đất nông nghiệp hiện có, đồng thời duy trì và nâng cao
độ phì cho đất.
c. Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng độ ẩm, gió, bão, lũ
lụt… có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác định cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thời vụ,
khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương.
Mỗi loại cây trồng vật nuôi chỉ thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất
định, vượt qua giới hạn cho phép, cây trồng, vật nuôi sẽ chậm phát triển, thậm chí
bị chết. Vì vậy, sự phân đới nông nghiệp trên thế giới phụ thuộc rõ nét vào sự
phân đới khí hậu. Trên toàn thế giới có 5 đới trồng trọt chính, đó là nhiệt đới, cận
nhiệt đới, đới ôn hòa có mùa hè dài và nóng, đới ôn hòa có mùa hè mát và ẩm, đới
cận cực. Vùng nhiệt đới có nguồn nhiệt dồi dào, lượng mưa lớn, số giờ nắng
nhiều,… thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển quanh năm của cây trồng, tăng
khả năng thâm canh, gối vụ. Ngược lại, ở vùng ôn đới mùa đông tuyết phủ dày

nên chỉ trồng được một vụ trong năm. Các điều kiện thời tiết bất thường như lũ
lụt, hạn hán, bão… cũng gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
17


d. Nguồn nước
Nước đối với sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết như ông cha ta đã
khẳng định "nhất nước, nhì phân". Nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến
năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi. Nước ngọt cần để tưới cho cây
trồng, cung cấp nước uống và tắm cho gia súc. Những nơi có nguồn nước dồi
dào thường tạo nên các vùng nông nghiệp trù phú. Ngược lại nông nghiệp
thường không phát triển được ở nơi mà nguồn nước khan hiếm. Tuy nhiên, ở nơi
có nguồn nước dồi dào th́ì vẫn có sự phân hoá lượng nước theo mùa. Do đó,
trong sản xuất nông nghiệp cần thiết phải có những biện pháp thuỷ lợi để tiêu
nước vào mùa mưa và cấp nước vào mùa khô.
e. Sinh vật
Các loài động, thực vật hoang dã trong tự nhiên xưa kia là cơ sở để thuần
dưỡng, lai tạo nên các giống cây trồng vật nuôi. Sự đa dạng về giống, loài cây,
con là tiền đề hình thành và phát triển các giống cây trồng, vật nuôi và tạo khả
năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp thích hợp với những điều kiện tự nhiên và
kiểu sinh thái khác nhau. Các diện tích đồng cỏ, bãi chăn thả và diện tích mặt
nước tự nhiên là cơ sở thức ăn để phát triển ngành chăn nuôi...
Có thể nói, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Đất,
khí hậu, nước với tư cách là tài nguyên nông nghiệp quyết định khả năng (tự
nhiên) nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả năng áp
dụng các quy trình kĩ thuật để sản xuất ra sản phẩm.
1.1.3.3. Nhân tố kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động nông nghiệp
Dân cư có ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Dân cư vừa là lực
lượng sản xuất trực tiếp vừa là nguồn tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp.

Nguồn lao động nông nghiệp là một bộ phận của nguồn lao động trong
xã hội hoạt động trong ngành nông nghiệp. Dưới góc độ là lực lượng sản xuất,
số lượng và chất lượng nguồn lao động có ảnh hưởng đến phát triển nông
18


nghiệp cả theo chiều rộng (mở rộng diện tích, quy mô sản xuất) và chiều sâu
(thâm canh, tăng vụ, xen vụ). Chính sức lao động của con người là lực lượng
sản xuất chủ yếu trong hầu hết các khâu của quá tŕnh sản xuất nông nghiệp.
Không giống như công nghiệp, trong nông nghiệp có nhiều khâu của quá tŕnh
sản xuất không thể tự động hoá bằng máy móc mà phải được thực hiện bằng
lao động chân tay.
Con người, với tư cách là chủ thể quản lí sẽ tạo ra khả năng thay
đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại. Với tư cách là lực
lượng sản xuất, con người được đào tạo, có học vấn, có trình độ chuyên
môn kĩ thuật sẽ thúc đẩy khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, giúp
tăng năng suất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Dưới góc độ là thị trường tiêu thụ, quy mô dân số có ý nghĩa quyết định
đến quy mô của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Dân số càng đông thì nhu cầu
về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng càng lớn và vì vậy, sản xuất nông
nghiệp cũng phải phát triển tương ứng với nhu cầu của dân cư. Những đặc tính
về phong tục, tập quán, thói quen tiêu dùng cũng có ý nghĩa quan trọng đối với
việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong sản xuất nông nghiệp.
b. Khoa học - công nghệ
Khoa học - công nghệ đã thực sự tạo ra bước chuyển biến mới trong
ngành nông nghiệp, đã và đang đưa nông nghiệp trở thành ngành sản xuất tiên
tiến - một dạng sản xuất kiểu công nghiệp. Nhờ nghiên cứu, ứng dụng các tiến
bộ kĩ thuật, con người đã chủ động hơn trong hoạt động nông nghiệp, tạo ra
nhiều giống cây trồng, vật nuôi cho hiệu quả cao góp phần đẩy nhanh quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công

nghiệp hóa. Việc áp dụng rộng rãi các biện pháp kỹ thuật như điện khí hóa, cơ
giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa, sinh học hóa sẽ giúp cho năng suất cây
trồng, vật nuôi được nâng cao.

19


c. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật trong nông nghiệp
Cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp bao gồm hệ thống giao thông,
mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện nước ảnh hưởng rõ rệt đến sự
phát triển và phân bố nông nghiệp. Để nông nghiệp tiến dần theo hướng
sản xuất hàng hóa thì phát triển mạng lưới giao thông nông thôn rất cần
thiết để giảm thời gian và chi phí vận chuyển sản phẩm, tạo sự gắn kết
giữa người dân với thị trường.
Những tiến bộ trong việc điện khí hóa nông thôn có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, đưa công
nghệ mới vào nông nghiệp, giải phóng sức lao động của người nông dân và
công nghiệp hóa nông thôn.
Cơ sở vật chất kĩ thuật bao gồm hệ thống đê điều và thủy lợi, hệ
thống trạm trại nghiên cứu giống phục vụ sản xuất…Ở những nơi có cơ sở
vật chất kĩ thuật tốt thì nông nghiệp sẽ phát triển hiện đại và đem lại hiệu
quả cao.
Trong sản xuất nông nghiệp, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật
chất kĩ thuật hoàn thiện sẽ giúp con người hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực
của điều kiện tự nhiên, chủ động hơn trong các hoạt động sản xuất nông
nghiệp, nâng cao năng suất và sản lượng nông nghiệp.
d. Nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và phân bố
nông nghiệp, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Nguồn
vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp lớn sẽ tạo điều kiện cho việc áp dụng

các tiến bộ KHKT vào sản xuất, thúc đẩy nông nghiệp phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều sâu.
e. Chính sách nông nghiệp
Chính sách nông nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới con đường phát triển
và các hình thức TCLT nông nghiệp. Sự điều hành vĩ mô của Nhà nước với
20


các chính sách, chế độ, biện pháp đúng đắn sẽ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp
phát triển. Ngược lại, nếu hệ thống chính sách không phù hợp sẽ kìm hãm,
thậm chí đẩy lùi quá trình phát triển nông nghiệp.
Việc bảo đảm sự phát triển hài hòa, cân đối của nông nghiệp trong cơ
cấu kinh tế quốc dân đòi hỏi Nhà nước phải xác định mục tiêu chiến lược cho
từng giai đoạn cụ thể. Đây cũng là cơ sở để Nhà nước đề ra các chính sách
kinh tế - xã hội, dẫn dắt hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nông nghiệp
vận hành phù hợp với lợi ích chung của xă hội. Chính sách nông nghiệp bao
gồm các chính sách giá, chính sách đất đai, chính sách tín dụng nông thôn và
chính sách đầu tư.
f. Thị trường tiêu thụ
Trong nền kinh tế hàng hóa, thị trường tiêu thụ là yếu tố cơ bản tác
động đến cơ cấu, quy mô và giá trị của sản phẩm nông nghiệp, có tác dụng
thúc đẩy nông nghiệp phát triển và ngược lại. Nhu cầu của thị trường quyết
định hướng sản xuất nông nghiệp. Mọi biến động trên thị trường đều có tác
động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Thị trường cũng có tác dụng điều tiết đối với sự hình thành và phát
triển vùng chuyên môn hóa nông nghiệp. Ở các nước trên thế giới, xung
quanh các thành phố trung tâm công nghiệp lớn đều hình thành vành đai nông
nghiệp ngoại thành mà hướng chuyên môn hóa là sản xuất rau xanh, thịt, sữa,
trứng, dù rằng có thể điều kiện tự nhiên không thật thuận lợi. Điều đó chỉ có
thể lí giải được bằng nhân tố thị trường tiêu thụ.

1.1.4. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển nông nghiệp
Việc lựa chọn các chỉ tiêu trong nghiên cứu kinh tế - xã hội là một
vấn đề rất quan trọng nhằm đưa ra những căn cứ để đánh giá một cách sát
thực nhất vấn đề nghiên cứu, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp và mang
tính khả thi cao. Sự phát triển nông nghiệp (theo nghĩa rộng), được đánh
giá thông qua:
21


1.1.4.1. GDP nông nghiệp và tỉ trọng GDP nông nghiệp so với tổng giá
trị GDP toàn nền kinh tế
Chỉ tiêu này phản ánh vị trí của ngành nông nghiệp trong cơ cấu toàn bộ
nền kinh tế của một vùng, quốc gia hay khu vực, đồng thời cũng là thước đo để
đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đối với các nước đang
phát triển có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chủ yếu, tỉ trọng của nông nghiệp thường chiếm từ 20% – 30% GDP. Trong
khi đó, ở các nước phát triển, nông nghiệp chỉ chiếm từ 1% – 7%.
Theo xu hướng phát triển hiện nay sẽ có sự chuyển dịch theo hướng
giảm dần tỉ trọng của ngành nông nghiệp, tăng tỉ trọng của công nghiệp và dịch
vụ. Nông nghiệp sẽ ngày càng chiếm một tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế,
song quy mô giá trị sản xuất vẫn không ngừng tăng lên nhờ việc đẩy mạnh ứng
dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
1.1.4.2. Tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp
Tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp là một chỉ tiêu rất quan trọng
phản ánh mức độ phát triển, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Tốc độ này
thường thấp hơn rất nhiều so với các ngành công nghiệp và dịch vụ, bởi vì:
nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, hàm chứa nhiều rủi ro;
tiềm năng khai thác từ các yếu tố tự nhiên (như đất đai, nguồn nước) là có
giới hạn; giá trị của các sản phẩm nông nghiệp thường thấp hơn nhiều so với
các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, để GDP nông nghiệp tăng lên

được 1% thì khó hơn rất nhiều so với mức tăng 5 – 6% của ngành công
nghiệp hay dịch vụ.
Chính vì vậy, trong đánh giá thực trạng phát triển nông nghiệp, chỉ tiêu
tốc độ tăng GDP nông nghiệp còn phản ánh trình độ cơ giới hóa, hiện đại hóa
và hiệu quả của việc ứng dụng KHCN trong sản xuất nông nghiệp, bởi vì giá
trị tăng thêm của ngành nông nghiệp được tạo ra chủ yếu nhờ nâng cao năng
suất lao động trong điều kiện các yếu tố tự nhiên là có giới hạn.
22


Để tính tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp thường lấy giá so sánh
của một năm cố định hoặc so với năm gốc – đó là năm mà nền kinh tế đất
nước có ít biến động nhất, nhưng không nên quá cách xa thời điểm so sánh. Ở
Việt Nam, tính tốc độ tăng trưởng theo giá so sánh 1994.
1.1.4.3. GTSX nông nghiệp và cơ cấu GTSX nông nghiệp phân theo
ngành (nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp)
- Giá trị sản xuất nông nghiệp là tổng giá trị sản xuất và dịch vụ nông
nghiệp được tạo ra trên một đơn vị lãnh thổ, trong một thời kì nhất định.
- Cơ cấu GTSX nông nghiệp: được hiểu là tương quan về GTSX giữa
các bộ phận (nông nghiệp – lâm nghiệp – ngư nghiệp) trong tổng thể hoạt
động kinh tế nông nghiệp, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và tác động qua lại cả
về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận đó với nhau.
Cơ cấu ngành nông nghiệp bao gồm: nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư
nghiệp. Cơ cấu nội bộ các ngành bao gồm: nông nghiệp có trồng trọt, chăn
nuôi và dịch vụ nông nghiệp; lâm nghiệp có: trồng và nuôi rừng, khai thác gỗ
và lâm sản, dịch vụ và các hoạt động lâm nghiệp khác; ngư nghiệp có: NTTS,
khai thác thủy sản và dịch vụ thủy sản.
1.1.4.4. Giá trị được tạo ra trên một ha đất nông nghiệp.
Đây là chỉ tiêu cụ thể nhất phản ánh hiệu quả của việc sử dụng đất nông
nghiệp và được tính bằng GTSX nông nghiệp/diện tích gieo trồng (triệu

đồng/ha). Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tăng năng suất bằng việc áp dụng
các biện pháp KHCN, cải tiến kĩ thuật sản xuất, cải tạo đất. Như đã phân tích
ở trên, tiềm năng về diện tích cũng như độ phì tự nhiên của đất là có hạn, vậy
nên, trên cùng một diện tích đất nông nghiệp, giá trị sản phẩm nông nghiệp
được tạo ra càng nhiều khi càng sử dụng có hiệu quả các biện pháp KHCN,
thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất và việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi
hợp lí. Chính vì vậy, ở các nước phát triển, tuy diện tích nông nghiệp không
còn nhiều và ngày càng bị thu hẹp nhưng giá trị mà ngành nông nghiệp tạo ra
23


lại ngày càng tăng, đó chính là kết quả của sự phát triển nền nông nghiệp hiện
đại công nghệ cao.
1.1.4.5. Năng suất lao động nông nghiệp
Năng suất lao động nông nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của việc
sử dụng lao động, khả năng áp dụng KHCN trong sản xuất nông nghiệp và
được tính bằng GTSX nông nghiệp/số lao động nông nghiệp (triệu
đồng/người). Hoạt động sản xuất nông nghiệp cần nhiều sức lao động của con
người nhưng giá trị tạo ra lại không cao nên năng suất lao động nông nghiệp
thường thấp hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác. Mặt khác, tỉ lệ sử dụng
thời gian trong lao động nông nghiệp cũng thấp hơn so với trong công nghiệp
và dịch vụ do tính chất thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Mức độ áp dụng
KHCN càng cao thì GTSX được tạo ra trong nông nghiệp ngày càng tăng.
1.1.4.6. Năng suất cây trồng
Năng suất cây trồng được tính bằng sản lượng cây trồng /diện tích gieo
trồng. Đơn vị: tạ/ha. Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh hiệu quả và sự phát
triển của nông nghiệp (cụ thể là trồng trọt).
1.1.5. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp
Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp được hiểu là một hệ thống liên kết không
gian của các ngành, các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở

các quy trình kỹ thật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa
và hợp tác hóa sản xuất; cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo
lãnh thổ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng
suất lao động xã hội cao nhất. Có nhiều hình thức TCLTNN với những đặc
trưng khác nhau:
1.1.5.1. Hộ gia đình (nông hộ)
Hộ là một đơn vị kinh tế - xã hội tự chủ cùng một lúc thực hiện nhiều
chức năng mà ở các đơn vị kinh tế khác không thể có được. Hộ là một tế bào
của xã hội với sự thống nhất của các thành viên có cùng huyết thống, mà mỗi
24


thành viên đều có nghĩa vụ và trách nhiệm làm tăng thu nhập, đảm bảo sự tồn
tại của gia đình. Hộ gia đình là hình thức vốn có của sản xuất nhỏ, tồn tại phổ
biến ở các nước đang phát triển thuộc châu Á, trong đó có Việt Nam.
Các đặc điểm cơ bản của hộ gia đình: sản xuất chủ yếu nhằm thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng của gia đình, ít có quan hệ với thị trường; quy mô đất đai
nhỏ bé, biểu hiện rơ tính chất tiểu nông; quy mô vốn nhỏ, chủ yếu được trích
từ tiết kiệm trong thu nhập ít ỏi của gia đình, mức tích luỹ thấp làm hạn chế
khả năng đầu tư tái sản xuất; kỹ thuật canh tác và công cụ sản xuất lạc hậu,
thô sơ, mang nặng tính truyền thống; chủ yếu sử dụng lao động gia đình.
Hộ gia đình tuy là hình thức TCLTNN ở trình độ thấp, nhưng có vai tṛò
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Đặc biệt, đối với
các nước đang phát triển, hộ gia đình là đơn vị cơ sở trong việc bảo tồn xã hội,
phát triển kinh tế nông thôn, và đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại, thúc đẩy
nông thôn quá độ tiến lên một trình độ cao hơn: nông thôn sản xuất hàng hoá
[23].
1.1.5.2. Trang trại
Trang trại là thuật ngữ gọi tắt của trang trại nông nghiệp, chuyên môn
hoá sản xuất hàng hoá nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Trang trại là

hình thức phát triển cao hơn của nông hộ.
Sự hình thành trang trại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình
CNH. Sự phát triển của ngành công nghiệp đặt ra nhu cầu lớn về nguồn cung
cấp nguyên liệu từ nông nghiệp và đó là điều kiện để phát triển một nền nông
nghiệp hàng hoá mà trang trại là một hình thức TCLTNN thích hợp. Công
nghiệp hoá càng cao thì kinh tế trang trại càng phát triển.
Các đặc điểm cơ bản của trang trại bao gồm: Mục đích sản xuất là
nhằm tạo ra nông sản hàng hoá theo nhu cầu thị trường; quy mô sản xuất
tương đối lớn, tuỳ theo tính chất và loại hàng hoá nông sản mà nó sản xuất và
khác nhau giữa các nước cũng như giữa các vùng trong từng nước. Phần lớn

25


×