Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.69 KB, 28 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN MINH TÂN





CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH CÁC TỔ CHỨC
NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN KHAI CHUYỂN GIAO
CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP TỈNH BẮC NINH



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ












Hà Nội, 2013


2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình công nghiệp hoá, giá trị sản xuất nông nghiệp có xu hướng giảm
dần và chiếm tỷ trọng ngày càng thấp trong cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, từ xuất phát điểm
nước ta là một nước nông nghiệp, với hơn 60% lao động hiện nay vẫn làm nghề nông và
nông nghiệp vẫn có vị trí quan trọng trong việc góp phần ổn định kinh tế thì việc tăng
cường đầu tư, chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của lĩnh vực này vẫn luôn là đòi hỏi đối với các
nhà quản lý, các nhà khoa học và đối với cả nông dân.
Hoạt động CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong những năm
qua đã được quan tâm; tuy nhiên hiệu quả công tác chuyển giao, ứng dụng chưa cao, thiếu
các biện pháp huy động các nguồn lực cho công tác chuyển giao (đội ngũ cán bộ KH&CN
làm nhiệm vụ chuyển giao, sự tham gia của các tổ chức KH&CN, việc huy động vốn đầu
tư, việc liên kết “các nhà”…). Thực tiễn trên đây đặt ra vấn đề phải nghiên cứu, phân tích,
đánh giá để chỉ ra những tồn tại, nguyên nhân nhằm đề xuất được các giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trên
đây xin được chọn đề tài Chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai
CGCN phục vụ phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh làm Luận văn Thạc sĩ của tác giả.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Các tác giả Phạm Đỗ Chí, Đặng Kim Sơn, Trần Nam Bình, Nguyễn Tiến Triển đã

tổng kết trong cuốn sách Làm gì cho nông thôn Việt Nam (Nxb TP Hồ Chí Minh, 2005),
trong đó có đề xuất việc khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức nghiên cứu và triển khai
CGCN cho nông nghiệp, tuy nhiên đề cập ở phạm vi cả nước, không bàn đến điều kiện đặc
thù của từng địa phương.
- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Xuân Thăng (Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn) trong đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động các mô hình chuyển giao kỹ thuật và
công nghệ tiến bộ trong sản xuất nông nghiệp của thanh niên nông thôn tỉnh Hải Dương”
đã khảo sát các mô hình CGCN trong sản xuất nông nghiệp của thanh niên nông thôn tỉnh
Hải Dương, nhưng chỉ giới hạn trong đối tượng tiếp nhận CGCN là thanh niên, chưa đề
cập nhiều đến các chủ thể CGCN cũng như các chính sách để khuyến khích các hoạt động
CGCN cho nông nghiệp.
- Ở tỉnh Bắc Ninh, năm 2001, tác giả Nguyễn Tiến Thịnh đã thực hiện đề tài Xã hội
hoá các hoạt động chuyển giao và ứng dụng tiến bộ KH&CN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Tuy nhiên, đề tài thực hiện ở phạm vi rộng hơn và hướng nhiều vào các giải pháp huy
động các lực lượng xã hội tham gia vào công tác nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến

3
bộ KH&CN phục vụ sản xuất và đời sống. Tác giả không đi sâu nghiên cứu về các hoạt
động CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất được các chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển
khai chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các tổ chức nghiên cứu và triển khai hoạt động chuyển
giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh; các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, các hộ nông dân.
- Thời gian nghiên cứu: giai đoạn 2007-2011.
5. Mẫu khảo sát
- Cơ quan nghiên cứu và triển khai ở Trung ương khảo sát 10 đơn vị;
- Các đơn vị thực hiện chức năng CGCN của địa phương khảo sát 10 đơn vị;

- Các hợp tác xã, doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh: khảo sát 10 đơn vị;
- Các hộ nông dân có tiếp nhận CGCN vào sản xuất trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh: 30
hộ;
- Phỏng vấn một số cán bộ quản lý ở các Sở, ngành: Sở Nông nghiệp và PTNT, Hội
Nông dân; UBND, Phòng Kinh tế, Phòng Công thương, Phòng Nông nghiệp và PTNT các
huyện/thị xã…
6. Câu hỏi nghiên cứu
- Còn tồn tại những khó khăn, vướng mắc gì đòi hỏi phải có những chính sách hỗ
trợ của địa phương trong việc huy động các cơ quan nghiên cứu và triển khai chuyển giao
công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh ?
- Cần phải có những chính sách gì để hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức nghiên cứu
và triển khai chuyển giao công nghệ phục vụ nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh ?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Những khó khăn vướng mắc ở địa phương hiện nay như: hạn chế về năng lực
chuyển giao của các cơ quan nghiên cứu và triển khai của địa phương; thiếu các hoạt động
liên kết; thiếu các cơ chế, chính sách phù hợp của tỉnh… đã ảnh hưởng đến kết quả hoạt
động CGCN trong nông nghiệp. Từ đó đòi hỏi cần phải có những chính sách của tỉnh được
xây dựng, bổ sung, hoàn thiện nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt
động CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp, gồm:

4
- Nhóm các chính sách hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao KH&CN phục vụ sản xuất nông nghiệp của các cơ quan nghiên cứu và triển
khai của địa phương.
- Nhóm các chính sách về hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ cho nông
dân, cho doanh nghiệp; thúc đẩy tăng cường liên kết 4 nhà.
- Nhóm các chính sách về đầu tư, về tài chính nhằm khuyến khích các hoạt động
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các thành tựu KH&CN trong nông nghiệp.
8. Phƣơng pháp chứng minh giả thuyết

- Phương pháp phân tích tài liệu: phân tích và tổng hợp các tài liệu liên quan đến
nội dung đề tài (cơ sở lý thuyết liên quan, các báo cáo tổng hợp về công tác nghiên cứu,
chuyển giao KHCN trong lĩnh vực nông nghiệp; hồ sơ các nhiệm vụ KH&CN trong lĩnh
vực nông nghiệp; các tài liệu khảo sát thực tiễn…)
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn một số nhà quản lý, chuyên gia về CGCN,
phỏng vấn bên CGCN và bên nhận CGCN.
- Phương pháp thu thập số liệu bằng phiếu điều tra với các đối tượng cụ thể: các
đơn vị thực hiện hoạt động CGCN, các cán bộ quản lý, các doanh nghiệp, các hộ nông dân
tiếp nhận CGCN.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và các biểu số
liệu, nội dung của Luận văn gồm có 3 chương: 1) Cơ sở lý luận về công nghệ, CGCN và
chính sách khuyến khích CGCN; 2) Thực trạng hoạt động CGCN và việc thực hiện các
chính sách khuyến khích CGCN trong nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2007-2011; 3)
Chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai CGCN phục vụ phát triển
nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.









5
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬN VĂN

Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHỆ, CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ VÀ CHÍNH

SÁCH KHUYẾN KHÍCH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ

Chương 1 được kết cấu thành 3 mục lớn, 13 mục nhỏ và các tiểu mục đề cập đến
các nội dung lý thuyết có liên quan làm căn cứ luận giải cho những phân tích, đánh giá và
những đề xuất ở các Chương sau.
Trong chương này, tác giả đi sâu tổng hợp, phân tích, hệ thống hóa, làm rõ các khái
niệm về công nghệ, chuyển giao công nghệ; những nội hàm liên quan đến công nghệ như
đặc điểm công nghệ, trình độ công nghệ, năng lực công nghệ; những vấn đề liên quan đến
hoạt động chuyển giao công nghệ như: đặc điểm, hình thức, hợp đồng chuyển giao công
nghệ; đồng thời luận văn cũng đề cập và làm rõ các chủ thể chuyển giao công nghệ trong
nông nghiệp bao gồm các tổ chức nghiên cứu phát triển, tổ chức dịch vụ KH&CN, các
doanh nghiệp và doanh nghiệp KH&CN, một số tổ chức khác như các cơ quan quản lý, các
đơn vị sự nghiệp thuộc ngành nông nghiệp, các tổ chức đoàn thể, quần chúng… là những
đối tượng tham gia trong các hoạt động chuyển giao, phổ biến, tuyên truyền, tập huấn các
kiến thức khoa học và công nghệ cho nông dân, các đoàn viên, hội viên của họ. Luận văn
cũng đề cập, làm rõ những nội dung liên quan đến chính sách, chính sách KH&CN, tác
động dương tính, âm tính, tác động ngoại biên, các chuỗi tác động của chính sách…
Tóm lại, những nội dung đề cập, hệ thống hóa và làm rõ trong Chương 1, là những
căn cứ lý thuyết quan trọng luận giải cho việc phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp
về chính sách để khuyến khích và hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu và triển khai chuyển giao
công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong các Chương tiếp theo.

Chƣơng 2.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CGCN VÀ VIỆC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH
KHUYẾN KHÍCH CGCN TRONG NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH GIAI ĐOẠN 2007-
2011

2.1. Đóng góp của nông nghiệp vào kết quả phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh 5 năm
2007-2011
2.1.1.Tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Ninh

Bắc Ninh là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, cửa ngõ phía bắc của Thủ
đô Hà Nội, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và tam giác tăng trưởng kinh tế Hà
Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh. Trong những năm qua, kinh tế của tỉnh Bắc Ninh luôn
tăng trưởng ở mức cao, bình quân giai đoạn 2007-2011 đạt 15,1% một năm. Về quy mô,
đến năm 2011, GDP (giá thực tế) đạt 46.760 tỷ đồng, gấp 3,5 lần so với năm 2007; GDP
bình quân đầu người năm 2011 đạt 2.130 USD, gấp 2,23 lần so với năm 2007. Cơ cấu kinh

6
tế chuyển dịch nhanh theo hướng CNH-HĐH, năm 2007 tỷ trọng chiếm trong GDP của 3
khu vực: nông-lâm nghiệp-thủy sản là 16,61%, công nghiệp-xây dựng là 57,24% và dịch
vụ là 26,15%; năm 2011 tỷ lệ tương ứng là: 8,5% - 70,7% - 20,8%.
2.1.2. Nông nghiệp trong phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh
Cùng với sự phát triển chung của tỉnh, nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong những năm
qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giai đoạn
2006-2010 tăng bình quân 3,9%/năm; cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch tích cực, tỷ trọng
ngành trồng trọt giảm từ 50,83% năm 2007 xuống còn 46% năm 2011; tương ứng tỷ trọng
chăn nuôi-thuỷ sản tăng từ 45,57% lên 49%, sản lượng lương thực tăng từ 429.575 tấn lên
477.600 tấn, giá trị sản xuất trên 1ha đất canh tác tăng từ 49 triệu đồng lên 97,3 triệu đồng.
Đời sống dân cư ở các vùng nông thôn ngày càng nâng lên; thu nhập bình quân đầu người
tăng từ 1.137.000đồng/tháng (2007) lên 2.109.000 đồng/tháng năm 2011, tăng 19%/năm;
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới giảm từ 7,5% năm 2007 xuống còn 5,8% năm 2011.
2.2. Thực trạng hoạt động CGCN trong nông nghiệp của các tổ chức nghiên cứu và
triển khai ở tỉnh Bắc Ninh
2.2.1. Vai trò của KH&CN trong phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh
Những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực nông nghiệp những năm vừa qua, cùng với
cơ chế, chính sách, sự đầu tư của nhà nước và nỗ lực của bà con nông dân, KH&CN đóng
góp một phần quan trọng. Các tiến bộ kỹ thuật (TBKT) về giống cây trồng, vật nuôi, biện
pháp thâm canh được chuyển giao, ứng dụng rộng rãi đã góp phần đáng kể nâng cao năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất ngành nông nghiệp. Trong giai đoạn 2007-2011 đã
có 55 đề tài, dự án cấp tỉnh, 4 dự án cấp nhà nước và hàng trăm TBKT ở cơ sở thông qua

hệ thống khuyến nông được chuyển giao, áp dụng rộng rãi vào sản xuất. Các loại giống
cây trồng, vật nuôi, biện pháp thâm canh mới đưa vào sản xuất đã góp phần quyết định
nâng cao năng suất, chất lượng nông sản. Năng suất lúa tăng từ 53,6tạ/ha/vụ (2007) lên
63,1tạ/ha/vụ (2011); tương ứng, các loại cây trồng khác như ngô, khoai, lạc, đậu tương đều
tăng từ 15-20%; đóng góp quan trọng vào ổn định kinh tế của tỉnh, đảm bảo an ninh lương
thực địa phương.
2.2.2. Các kênh CGCN chủ yếu trong nông nghiệp Bắc Ninh
Ở địa phương, hoạt động CGCN trong nông nghiệp được thực hiện bởi 3 nhóm cơ
quan chủ yếu:
- Các cơ quan khoa học và công nghệ ở Trung ương (viện, trường,…)
- Các cơ quan khoa học và công nghệ ở địa phương, cơ quan quản lý, các hội, tổ
chức quần chúng… (Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN, Sở Nông nghiệp và PTNT,
Hội nông dân, phụ nữ, làm vườn, đoàn thanh niên…).
- Hệ thống cơ quan khuyến nông-khuyến ngư.

7
Ngoài ra còn có sự CGCN từ một số doanh nghiệp, chủ yếu thông qua các hợp đồng
cung cấp giống, vốn, điều kiện kỹ thuật để nông dân sản xuất một loại sản phẩm nào đó
cho doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ; CGCN thông qua các chương trình, dự án hỗ
trợ của các tổ chức quốc tế… Do giới hạn phạm vi nghiên cứu, luận văn xin phép không đi
sâu nghiên cứu hoạt động của các loại hình này.
2.2.2.1.Kết quả chuyển giao của Viện, trường, tổ chức KH&CN ngoài tỉnh
Trong 5 năm, các cơ quan nghiên cứu và triển khai ở trung ương chủ trì thực hiện
28 đề tài/dự án KH&CN trong lĩnh vực nông nghiệp của tỉnh; tổng kinh phí thực hiện là
30,879 tỷ đồng; trong đó: 16,6 tỷ đồng (53,8%) từ nguồn ngân sách SNKH của tỉnh,
14,279 tỷ đồng (46,2%) từ nguồn vốn của doanh nghiệp và nông dân.
Ưu điểm của kênh chuyển giao công nghệ do hệ thống các cơ quan nghiên cứu-triển
khai là các Viện, trường, Trung tâm ở Trung ương và ngoài tỉnh:
- Chủ động trong việc lựa chọn công nghệ để chuyển giao, lực lượng cán bộ khoa
học có trình độ chuyên môn cao. Có sự đầu tư lớn của nhà nước về cơ sở vật chất, trang

thiết bị, nguồn nhân lực KH&CN và kinh phí cho hoạt động nghiên cứu-triển khai; có kinh
nghiệm trong việc gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai thực nghiệm và thực tiễn sản xuất.
Nhược điểm của mô hình kênh CGCN do hệ thống nghiên cứu triển khai của các
viện, trường, trung tâm là:
- Các viện, trường chưa thực sự dứt khỏi bao cấp, chậm chuyển đổi theo cơ chế thị
trường. Cơ chế đề xuất và xét tuyển các nhiệm vụ KH&CN hiện nay còn chồng chéo; chưa
có sự độc lập giữa cơ quan đề xuất nhiệm vụ với cơ quan chủ trì nhiệm vụ KH&CN của
nhà nước. Công nghệ mới tạo ra có số lượng ít và chất lượng chưa cao; còn tình trạng có
công nghệ sau khi chuyển giao không hiệu quả.
- Thiếu sự phối hợp giữa các viện, trường với cơ quan chuyển giao khác như hệ
thống khuyến nông, chính quyền địa phương, nên kết quả, đặc biệt là sự bền vững của các
mô hình và khả năng triển khai nhân rộng rất hạn chế.
2.2.2.2. Chuyển giao của các cơ quan quản lý, đơn vị sự nghiệp KH&CN (Trung
tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN tỉnh), các tổ chức quần chúng, hội nghề nghiệp (Hội nông
dân, phụ nữ, đoàn thanh niên…)
Là nhóm các đơn vị thực hiện việc CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp chủ yếu
thông qua thực hiện các đề tài, dự án được đầu tư từ kinh phí sự nghiệp khoa học của tỉnh
hoặc tài trợ của các tổ chức phi chính phủ (Sở Nông nghiệp-PTNT, Chi cục Thủy sản, Thú
y, Bảo vệ thực vật…); các chương trình hoạt động nghiệp vụ (tập huấn chuyển giao kỹ
thuật, xây dựng các mô hình áp dụng TBKT vào sản xuất của Hội nông dân, Hội phụ nữ,
Hội làm vườn, Đoàn thanh niên…). Trong nhóm này Trung tâm Ứng dụng và chuyển giao
tiến bộ KH&CN của tỉnh là đơn vị sự nghiệp khoa học, hoạt động CGCN vào nông nghiệp

8
tương tự như các viện, trường,… ở trung ương. Ưu điểm của kênh chuyển giao này là có
sự chỉ đạo, tổ chức triển khai chặt chẽ, các tiến bộ kỹ thuật được lựa chọn chuyển giao sát
với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho sản xuất; hoạt động có hệ thống, phổ tác dụng rộng.
Hạn chế của kênh chuyển giao này là hoạt động theo kế hoạch, bao cấp; thiếu sự
chủ động, linh hoạt, gắn kết với các doanh nghiệp; cơ chế tài chính, việc thanh quyết toán
gặp nhiều khó khăn. Năng lực chuyển giao của các đơn vị nhóm này rất hạn chế; hình thức

chuyển giao, trừ một số đề tài, dự án, nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh, còn lại chủ yếu là tập
huấn kỹ thuật, tuyên truyền phổ biến thông qua tài liệu, tờ rơi…
2.2.2.3. Chuyển giao của hệ thống khuyến nông
Hiện nay toàn tỉnh có 192 cán bộ khuyến nông, trong đó: 8 người có trình độ trên
đại học và 184 người có trình độ đại học, cao đẳng. Trong 5 năm qua (2007-2011) hệ
thống khuyến nông đã tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật cho nông dân với hơn
205.000 lượt người tham gia; xây dựng được 3.250 mô hình đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản
xuất trong các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản. Nhìn chung, cho đến thời điểm hiện
nay hệ thống khuyến nông-khuyến ngư vẫn là kênh CGCN chính và có hiệu quả nhất trong
lĩnh vực nông nghiệp. Những thuận lợi của mô hình kênh CGCN do hệ thống khuyến
nông-khuyến ngư thực hiện là:
- Bộ máy được tổ chức chặt chẽ thành hệ thống từ trung ương đến cơ sở (cấp xã);
hoạt động phổ biến, CGCN được chỉ đạo và thực hiện theo kế hoạch thống nhất; có kinh
phí hỗ trợ của nhà nước; cán bộ được đào tạo, có trình độ chuyên môn, kiến thức CGCN.
- Cần ít vốn, phù hợp với trình độ, nhu cầu của nông dân; huy động nội lực, lôi kéo
được sự tham gia của nông dân, sát thực tiễn, khả năng nhân rộng cao.
- Các mô hình chuyển giao kỹ thuật trong hệ thống khuyến nông dễ gắn kết, huy
động sự tham gia của các tổ chức đoàn thể (đoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội nông dân, hội
cựu chiến binh…) thường mang lại kết quả và có tác dụng tuyên truyền mạnh.
Tuy nhiên, hoạt động CGCN của hệ thống khuyến nông cũng còn những hạn chế:
- Hoạt động mang nặng tính kế hoạch, bao cấp, thiếu tính linh hoạt và chủ động;
chủ yếu tập trung chuyển giao kỹ thuật sản xuất; ít đề cập đến các yếu tố khác như các
thông tin về thị trường; thiếu sự liên kết với các doanh nghiệp trong việc chế biến hoặc tiêu
thụ sản phẩm.
- Kinh phí đầu tư dàn trải, hoạt động nặng tính phong trào, khó tạo được vùng sản
xuất có sự đầu tư lớn, sản xuất kinh doanh theo hướng hàng hóa.
2.3. Khảo sát 1 số mô hình CGCN trong nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
Nhằm tìm hiểu các nhân tố tác động, các nguyên nhân thành công cũng như chưa
thành công của các mô hình CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh trong
những năm qua, làm cơ sở cho việc kiến nghị, đề xuất các giải pháp khuyến khích các cơ


9
quan nghiên cứu và triển khai đẩy mạnh việc CGCN phục vụ nông nghiệp, tác giả đã lựa
chọn 4 mô hình tiêu biểu mà nơi tiếp nhận CGCN thuộc các loại hình doanh nghiệp, HTX,
hộ nông dân để phân tích, đánh giá một số yếu tố tác động dẫn đến thành công hoặc chưa
thành công của mô hình. Thông qua khảo sát, luận văn rút ra một số nhân tố ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai CGCN
trong nông nghiệp như sau:
Một là, KH&CN có vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, là khâu
then chốt, quyết định về năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của nông sản hàng
hoá. CGCN để nông dân nắm bắt, ứng dụng vào sản xuất là điều kiện để đưa KH&CN
phục vụ phát triển nông nghiệp.
Hai là, nông dân chưa có thói quen chi phí cho hoạt động CGCN, tất cả các hình
thức tuyên truyền, phổ biến, chuyển giao kỹ thuật trong nông nghiệp đều được nhà nước
bao cấp trong một thời gian dài. Chỉ có một số ít doanh nghiệp có nhận thức rõ về vai trò
của KH&CN, có điều kiện về vốn mới chủ động ký các hợp đồng CGCN.
Ba là, các cơ quan nghiên cứu và triển khai cũng chưa có thói quen thu phần kinh
phí CGCN cho nông dân, mà chủ yếu là thu từ ngân sách nhà nước hoặc các nguồn tài trợ
thông qua các chương trình, đề tài, dự án.
Bốn là, với các lợi thế về điều kiện cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, nguồn vốn, thị
trường tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp có nhu cầu và sẵn sàng chi trả để có công nghệ
mới nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm để đạt mục tiêu cao nhất
trong sản xuất kinh doanh là lợi nhuận. Hoạt động này luôn tạo ra nhu cầu đổi mới công
nghệ của doanh nghiệp.
Năm là, sự tham gia của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình liên
kết 4 nhà - điều kiện để thúc đẩy hoạt động CGCN trong nông nghiệp. Doanh nghiệp với
lợi thế về năng lực kinh doanh, nguồn vốn và thị trường luôn là khâu quan trọng trong
chuỗi sản xuất – tiêu thụ nông sản. Nhà khoa học, từ thực tiễn xây dựng các mô hình cho
thấy, chỉ có thể bán công nghệ của mình cho doanh nghiệp, thông qua doanh nghiệp
chuyển giao cho nông dân, doanh nghiệp bù đắp chi phí CGCN từ phần lợi nhuận do liên

kết với nông dân để tiêu thụ sản phẩm. Nông dân không phải chi phí cho CGCN nhưng
phải chia xẻ một phần lợi nhuận mang lại do tăng năng suất, chất lượng sản phẩm thông
qua hợp đồng giá thu mua nông sản ổn định của doanh nghiệp. Để đảm bảo mối liên kết
trên vận hành trơn tru, cần có sự tham gia của “nhà quản lý”, ở đây là chính quyền, các cơ
quan chức năng của địa phương, thông qua việc tổ chức sản xuất, hỗ trợ từ ngân sách
SNKH cho hoạt động CGCN của các cơ quan khoa học, giảm bớt một phần chi phí CGCN
của doanh nghiệp.
2.4. Khảo sát năng lực các đơn vị nghiên cứu-triển khai và các đối tƣợng tiếp nhận
chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh

10
2.4.1 .Chọn mẫu và phương pháp khảo sát
Tác giả đã tiến hành khảo sát thông qua các phiếu hỏi gửi đến 3 nhóm đối tượng:
các viện, trường, trung tâm ở Trung ương và địa phương có các hoạt động CGCN trong
nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh; các doanh nghiệp và các hộ nông dân có các hoạt động tiếp
nhận CGCN trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Nội dung khảo sát tập trung vào tìm hiểu các yếu tố tác động đến kết quả hoạt động
CGCN phục vụ phát triển nông nghiệp như: năng lực CGCN của các cơ quan nghiên cứu
và triển khai (gồm: số lượng, chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động
nghiên cứu-triển khai), doanh thu từ hoạt động CGCN cho nông nghiệp, các thông tin về
liên kết, các thông tin về thực hiện và kiến nghị những khó khăn trong việc thực hiện các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt động CGCN trong nông nghiệp (kết quả
khảo sát về chính sách được trình bày riêng ở mục 2.5 dưới đây).
- Tổng số phiếu hỏi gửi khảo sát 3 đối tượng là 60 phiếu; trong đó:
+ Các viện, trường, trung tâm nghiên cứu-triển khai ở Trung ương và địa phương có
hoạt động CGCN trong nông nghiệp: 20 đơn vị;
+ Các doanh nghiệp, HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp có tiếp nhận
CGCN vào sản xuất: 10 đơn vị;
+ Các hộ nông dân có tiếp nhận CGCN vào sản xuất: 30 hộ.
- Phương pháp thu thập số liệu: Phiếu hỏi được gửi đến các đối tượng, đề nghị điền

các thông tin thích hợp, gửi lại tác giả, tiến hành tổng hợp, phân tích các yếu tố liên quan
làm cơ sở cho đánh giá và các kiến nghị, đề xuất các giải pháp của đề tài.
2.4.2. Kết quả khảo sát
Trong tổng số 60 phiếu phát ra tác giả đã thu về được 56 phiếu, có 4 phiếu hộ nông
dân không tham gia cung cấp thông tin; các cơ quan nghiên cứu và triển khai, hệ thống
khuyến nông, doanh nghiệp và HTX cung cấp đủ số phiếu hỏi.
1- Thông tin chung về đối tượng khảo sát:
(Chi tiết các đối tượng khảo sát có phụ lục kèm theo báo cáo chính của Luận văn)
2. Thông tin về năng lực nghiên cứu-triển khai của các đơn vị:
- Đối với các cơ quan nghiên cứu và triển khai, CGCN ở Trung ương, kết quả khảo
sát cho thấy: nguồn nhân lực của các cơ quan này là khá mạnh, 82,5% cán bộ ở các đơn vị
này có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó 35,8% có trình độ trên đại học. Là
nơi tập trung phần lớn các nhà khoa học đầu ngành, có nhiều kinh nghiệm trong việc
CGCN cũng như nhiều công trình nghiên cứu có giá trị đóng góp vào lĩnh vực phát triển
nông nghiệp. Điều này được khẳng định thông qua số liệu thống kê, gần như 100% các
nhiệm vụ KH&CN của địa phương (trường hợp ở tỉnh Bắc Ninh) đưa ra tuyển chọn là do
các cơ quan viện, trường ở Trung ương trúng tuyển chủ trì. Hầu hết các đơn vị này đều có

11
hệ thống trang thiết bị, cơ sở vật chất khá đầy đủ phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ.
Về doanh thu từ hoạt động CGCN, kết quả khảo sát cho thấy 100% các đơn vị có
doanh thu từ hoạt động CGCN trong nông nghiệp, tuy nhiên 94,2% nguồn thu này là chi
trả từ các chương trình, đề tài, dự án KH&CN các cấp, hay nói cách khác là từ ngân sách
sự nghiệp KH&CN của nhà nước hoặc các khoản hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ;
không có % doanh thu nào nhận được từ sự chi trả của nông dân khi tiếp nhận CGCN; chỉ
có 5,8% doanh thu CGCN trong nông nghiệp là được chi trả từ các doanh nghiệp và HTX.
- Đối với các cơ quan nghiên cứu và triển khai, CGCN ở địa phương, tác giả xin tập
trung khảo sát 2 đối tượng chính là Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở Khoa
học và Công nghệ và hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến cơ sở (xã).

+ Đối với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN:
Tổng số cán bộ của Trung tâm hiện nay là 25 người, trong đó 18 người (72%) có
trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó, số cán bộ sau đại học là 4 người (bằng
22,2%); cán bộ chuyên ngành nông nghiệp là 9 người (bằng 36% tổng số cán bộ của Trung
tâm). Cơ sở vật chất của Trung tâm gồm có 1 phòng nuôi cấy mô tế bào thực vật, 1 phòng
vi sinh để sản xuất giống nấm ăn, nấm dược liệu; chưa có cơ sở trạm trại để tổ chức sản
xuất thực nghiệm. Trong 5 năm chỉ thực hiện 8 đề tài cấp tỉnh trong lĩnh vực nông nghiệp,
chủ yếu là giao thẳng, không có năng lực tham gia tuyển chọn cơ quan chủ trì; không có
doanh thu từ hoạt động CGCN vào nông nghiệp. Nhìn chung các Trung tâm của các địa
phương đều trong tình trạng nguồn nhân lực yếu và thiếu, cơ sở vật chất phục vụ nghiên
cứu, thử nghiệm hầu như không có; phần lớn chỉ có hoạt động CGCN trong nông nghiệp
nhưng lại không có doanh thu từ hoạt động này. Vì vậy, đề nghị nhà nước cho phép các
Trung tâm này hoạt động như các đơn vị thực hiện dịch vụ công và được hưởng lương từ
ngân sách. Chỉ có như vậy mới góp phần thúc đẩy các hoạt động CGCN hỗ trợ nông dân
tiếp thu tiến bộ KH&CN vào sản xuất.
+ Đối với hệ thống khuyến nông:
Nguồn nhân lực của hệ thống khuyến nông của tỉnh có chất lượng khá, 100% cán
bộ có trình độ cao đẳng, đại học trở lên; trong đó, 4,4% có trình độ trên đại học. Đặc biệt
lực lượng cán bộ của hệ thống khuyến nông đã được bố trí đến tất cả 115/115 xã, phường
có sản xuất nông nghiệp trong tỉnh, mỗi xã đều có ít nhất một cán bộ khuyến nông có trình
độ từ đại học, cao đẳng trở lên. Toàn bộ đội ngũ cán bộ khuyến nông từ tỉnh đến xã đều
được đào tạo, tập huấn nghiệp vụ và có nhiều kinh nghiệm trong việc phổ biến, chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới cho nông dân.
Trong 5 năm qua đã chủ trì thực hiện 11 đề tài, dự án KH&CN cấp tỉnh; chủ yếu là
giao thẳng, không thông qua tuyển chọn; cũng không có doanh thu từ hoạt động CGCN
cho nông dân. Mặc dù là một kênh quan trọng trong CGCN trong nông nghiệp nhưng năng

12
lực nghiên cứu, triển khai của hệ thống khuyến nông cũng hạn chế, thiếu năng động, do
đội ngũ cán bộ được bao cấp, hưởng lương từ ngân sách. Về cơ sở vật chất, hệ thống

khuyến nông cũng chỉ được trang bị các loại máy móc, công cụ phục vụ cho công tác
tuyên truyền, phổ biến kỹ thuật là chính, không có các cơ sở trạm trại phục vụ hoạt động
nghiên cứu, thử nghiệm.
- Đối với doanh nghiệp:
Đề tài đã tiến hành khảo sát 10 đơn vị (7 doanh nghiệp và 3 HTX, sau đây gọi
chung là đơn vị) hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Kết quả khảo
sát cho thấy 100% các đơn vị đều nhận thức rất rõ ràng về vai trò của KH&CN trong sản
xuất. 7 đơn vị đã chủ động phối hợp với các cơ quan nghiên cứu và triển khai tổ chức
chuyển giao và tiếp nhận các kỹ thuật mới vào sản xuất và chủ động bỏ tiền của doanh
nghiệp để chi trả cho các hợp đồng CGCN của các cơ quan nghiên cứu và triển khai.
Về nguồn nhân lực và cơ sở vật chất, 100% đơn vị đều có đội ngũ cán bộ kỹ thuật
có trình độ từ cao đẳng, đại học, tuy nhiên số lượng thì hạn chế, có 4 đơn vị có 3-4 cán bộ
kỹ thuật có trình độ cao đẳng, đại học, còn lại các đơn vị khác chỉ có 1-2 người có trình độ
trung cấp kỹ thuật hoặc cao đẳng, đại học. Cả 10 đơn vị được khảo sát đều không thực hiện
việc CGCN cho nông dân.
3. Về những khó khăn trong chuyển giao và tiếp nhận CGCN vào sản xuất nông
nghiệp:
- Đối với các cơ quan nghiên cứu và triển khai ở Trung ương:
10/10 đơn vị (100%) cho rằng khó khăn nhất trong hoạt động CGCN cho nông dân
hiện nay nằm ở khâu thanh quyết toán tài chính (đối với việc thực hiện các nhiệm vụ
KH&CN của nhà nước); 9/10 (bằng 90%) đơn vị cho rằng có khó khăn do nông dân không
có thói quen chi trả kinh phí cho các hợp đồng CGCN; 8/10 ý kiến cho rằng khó khăn do
thiếu chính sách hỗ trợ của nhà nước đối với các cơ quan nghiên cứu và triển khai khi
CGCN cho nông dân; các ý kiến cũng đề nghị Nhà nước xem xét miễn giảm 100% thuế
thu nhập doanh nghiệp từ khoản thu nhập do CGCN, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi
mới cho nông dân thay vì miễn giảm 50% như hiện nay. Ngoài ra cũng có một số ý kiến
cho rằng có những khó khăn do thiếu liên kết với các tổ chức khác (40%) và cơ sở hạ tầng
phục vụ cho hoạt động CGCN còn kém (30%).
- Đối với các cơ quan nghiên cứu và triển khai, CGCN ở địa phương. Kết quả khảo
sát đối với 10 đơn vị (Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN, Trung tâm Khuyến nông-

khuyến ngư tỉnh và 8 trạm khuyến nông các huyện/thị xã/thành phố) về các khó khăn trong
quá trình CGCN cho nông dân cho thấy: 10/10 đơn vị (100%) cho rằng khó khăn nhất
trong hoạt động CGCN cho nông dân hiện nay nằm ở khâu thanh quyết toán tài chính
(trùng với nhóm các cơ quan Trung ương), có thể do hiện nay phần lớn các hoạt động
CGCN trong nông nghiệp ở cả trung ương và địa phương đều được thực hiện từ nguồn

13
kinh phí hỗ trợ của nhà nước. Thực trạng này cho thấy hiện nay trong lĩnh vực nông
nghiệp chưa thể nói đến thị trường công nghệ.
Thiếu nguồn nhân lực, nhất là nhân lực trình độ cao cũng được nhóm các đơn vị địa
phương đánh giá là khó khăn nhất (100% ý kiến đồng ý), 8/10 ý kiến đánh giá cơ sở hạ
tầng thấp kém là khó khăn trong quá trình CGCN cho nông dân. Thiếu liên kết (6/10 ý
kiến) và thiếu chính sách (4/10 ý kiến) cũng là những khó khăn được nhóm các đơn vị địa
phương đề cập. Chỉ có 1/10 ý kiến cho rằng có khó khăn do nông dân không có thói quen
chi trả cho hợp đồng CGCN, hoàn toàn phù hợp với nhóm các đơn vị chuyển giao của địa
phương. Không có ý kiến nào của cả 2 nhóm cho rằng có khó khăn do mặt bằng dân trí
thấp. Có thể do lợi thế về vị trí địa lý gần Hà Nội, gần các cơ quan nghiên cứu và triển
khai của Trung ương, nên trình độ sản xuất của đa số nông dân Bắc Ninh là khá.
- Đối với các doanh nghiệp, HTX:
Kết quả khảo sát đối với 10 doanh nghiệp và HTX (sau đây gọi chung là đơn vị) có
tiếp nhận CGCN vào sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh cho thấy: 9/10 đơn vị, bằng
90% số đơn vị được hỏi cho rằng khó khăn nhất là thiếu vốn; 8/10 đơn vị cho rằng thời
gian CGCN ngắn; 8/10 đơn vị thống nhất việc thiếu liên kết với các tổ chức KH&CN là
một trong những khó khăn hạn chế ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận, nắm bắt và áp dụng
công nghệ mới vào sản xuất của doanh nghiệp. 70% số đơn vị ghi nhận khó khăn do thiếu
mặt bằng sản xuất, 50% ý kiến cho rằng bên cạnh những kết quả tốt cũng còn tồn tại một
số công nghệ chuyển giao cho doanh nghiệp chưa thật sự phù hợp.
4. Thông tin về nhu cầu liên kết các nhà.
Kết quả khảo sát 30 đơn vị (11 viện, trường, trung tâm, 9 đơn vị thuộc hệ thống
khuyến nông và 10 doanh nghiệp, HTX) cho thấy trong số 36,6% các đơn vị đã có thực

hiện liên kết thì phần lớn là thuộc về các viện, trường và các doanh nghiệp; 43,3% số đơn
vị được khảo sát trả lời đang có nhu cầu tìm kiếm sự liên kết, phần lớn trong số này cũng
là các doanh nghiệp, HTX và các viện, trường. Có thể thấy, nhu cầu hợp tác, liên kết trong
nhóm các đơn vị này là bức xúc và khá rõ ràng. Có 6/30 đơn vị, bằng 20% số đơn vị được
hỏi trả lời không có nhu cầu liên kết, các ý kiến này chủ yếu của các Trạm khuyến nông
cấp huyện, nơi có đặc điểm là ít tiếp xúc với doanh nghiệp, thực hiện nhiệm vụ chuyên
môn được giao và 100% kinh phí hoạt động thường xuyên là do ngân sách nhà nước đảm
bảo, vì vậy ít quan tâm các thông tin liên quan đến liên kết doanh nghiệp.
5. Thông tin về nhận thức, nhu cầu và năng lực tiếp thu công nghệ vào sản xuất của
các hộ nông dân.
Tác giả đã gửi 30 phiếu khảo sát các hộ nông dân (đã thu về 26 phiếu), chủ yếu tập
trung vào tìm hiểu các thông tin: nhận thức của nông dân về vai trò của KH&CN trong sản
xuất nông nghiệp, các nguồn tiếp nhận thông tin về tiến bộ KH&CN, hộ nông dân gặp

14
những khó khăn gì trong việc tiếp nhận CGCN vào sản xuất và những kiến nghị về chính
sách hỗ trợ của nhà nước trong việc CGCN cho nông dân.
Kết quả, 26/26 ý kiến (bằng 100% số hộ được hỏi) cho rằng vai trò của KH&CN rất
quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. 100% các hộ nông dân trả lời được tập huấn,
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật từ hệ thống khuyến nông; ngoài ra 10/26 hộ (bằng 38,4%) trả
lời nguồn tiếp nhận thông tin khác là từ báo, đài truyền hình, phương tiện thông tin đại
chúng. Có 22/26 hộ (84,6% số hộ được hỏi) trả lời khó khăn nhất là các thủ tục hành chính
(thuyết minh, báo cáo) trong việc đăng ký để được thực hiện các đề tài, dự án KH&CN các
cấp tỉnh, huyện. 20/26 hộ (77% số hộ được hỏi) trả lời thời gian từ 1-2 năm để thực hiện
một đề tài, dự án KH&CN là rất ngắn, khó khăn để hộ nông dân có thể nắm bắt thành thạo
quy trình công nghệ. Một khó khăn khác (69,2% số hộ đồng ý) là kinh phí cấp cho các đề
tài, dự án KH&CN cũng như kinh phí hỗ trợ theo kênh khuyến nông, thực hiện theo năm
ngân sách nên thường bị chậm so thời vụ, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện các nội
dung của chương trình, đề tài cũng như việc thanh quyết toán của cơ quan chủ trì.
2.5. Khảo sát kết quả thực hiện các chính sách của chính phủ, của địa phƣơng trong

việc khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp
2.5.1. Các chính sách ảnh hưởng đến hoạt động CGCN trong nông nghiệp
2.5.1.1. Về chính sách khuyến khích, hỗ trợ chuyển giao công nghệ:
Chính sách trực tiếp liên quan đến hoạt động đổi mới và CGCN được thể hiện tại
các Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao…,
các Nghị định, Thông tư hướng dẫn cụ thể của Chính phủ, các Bộ, ngành. Theo đó, Nhà
nước khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đẩy mạnh các hoạt động
KH&CN, khuyến khích việc phổ biến và CGCN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được
sử dụng mức phí ưu đãi các công nghệ tạo ra từ nguồn ngân sách nhà nước, được trích lập
Quỹ phát triển KH&CN từ lợi nhuận của doanh nghiệp, được vay ưu đãi từ Quỹ phát triển
KH&CN quốc gia để nghiên cứu, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đổi mới và CGCN, …
2.5.1.2. Chính sách thuế trong nghiên cứu khoa học,phát triển công nghệ:
Luật Khoa học và Công nghệ quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp từ việc
thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các ưu đãi về thuế suất
(10%), về thời gian miễn giảm thuế TNDN, miễn thuế thu nhập cho tổ chức cá nhân góp
vốn bằng sáng chế, bằng công nghệ, miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư, máy móc, thiết bị
phục vụ nghiên cứu khoa học, giảm thuế thu nhập 50% đối với hoạt động CGCN, giống
cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp… theo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật
Chuyển giao công nghệ, Luật Công nghệ cao…
2.5.1.3. Ngoài ra, Nhà nước còn có các chính sách hỗ trợ về đào tạo nhân lực, các
chính sách về hỗ trợ tài chính, thông tin, thị trường…đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ,

15
đối với nông dân; các hỗ trợ khác theo các chương trình mục tiêu quốc gia (nông thôn mới,
xóa đói giảm nghèo, nước sạch vệ sinh môi trường…); các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho
sản xuất như miễn giảm thuế nông nghiệp, thủy lợi phí, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, giống
cây trồng vật nuôi mới; miễn tiền thuê đất, thuế sử dụng đất, mặt nước, các hỗ trợ về đào
tạo nhân lực, phát triển thị trường, dịch vụ tư vấn… đối với các doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp (các Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010; số 61/2010/NĐ-CP ngày
04/6/2010 của Chính phủ về khuyến nông, về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu

tư vào nông nghiệp, nông thôn…).
2.5.2. Kết quả khảo sát việc thực hiện chính sách khuyến khích CGCN trong nông
nghiệp.
2.5.2.1. Tình hình thực hiện các chính sách khuyến khích hoạt động CGCN vào
nông nghiệp của các cơ quan nghiên cứu và triển khai:
Tác giả đã tiến hành khảo sát 10 cơ quan viện, trung tâm có thực hiện việc CGCN
phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh. Nội dung khảo sát tập trung vào một số vấn đề liên
quan đến thực hiện các chính sách ưu đãi của nhà nước trong hoạt động CGCN như chính
sách miễn, giảm thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu thiết bị,
các khoản trích lập và tình hình sử dụng Quỹ phát triển KH&CN của đơn vị.
Kết quả khảo sát cho thấy, chỉ có 2/10 đơn vị có trích lập Quỹ phát triển KH&CN
của đơn vị và cả 2 đơn vị đều trả lời rằng việc trích lập quỹ có tác dụng tốt trong việc tăng
cường tài chính cho hoạt động nghiên cứu-triển khai của đơn vị. Có 10/10 đơn vị (100%)
được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hoạt động CGCN, giống cây
trồng, vật nuôi; 8/10 đơn vị được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu thiết bị phục vụ cho
nghiên cứu khoa học. 10/10 ý kiến (bằng 100%) đều cho rằng chính sách ưu đãi về thuế
đối với hoạt động CGCN chưa phù hợp và cần đổi mới theo hướng phân biệt rõ những ưu
đãi đối với các hoạt động CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp với các lĩnh vực khác, lĩnh
vực nông nghiệp cần được ưu đãi hơn. 100% ý kiến cho rằng Nhà nước nên miễn khoản
thuế thu nhập doanh nghiệp đối với thu nhập từ việc CGCN, cung cấp giống cây trồng, vật
nuôi thay vì thu 50% như quy định tại Luật Chuyển giao công nghệ hiện nay.
2.5.2.2. Tình hình thực hiện một số chính sách hỗ trợ nông nghiệp của địa phương:
Cùng với chính sách chung của Nhà nước, trong phạm vi địa phương, tỉnh Bắc Ninh
cụ thể hóa một số chính sách nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp của tỉnh. Gần đây nhất,
năm 2010 UBND tỉnh có Quyết định số 166/2010/QĐ-UBND Quy định hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2011-2015 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Theo
đó các chương trình sản xuất giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao; sản
xuất lúa, ngô, rau màu thực phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản quy mô tập trung;
các hoạt động tiêu thụ nông sản, thực phẩm; đầu tư phát triển cơ giới hóa, sản xuất nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao,… được hỗ trợ trực tiếp kinh phí từ ngân sách tỉnh. VD:


16
hỗ trợ 80% giá lúa siêu nguyên chủng; hỗ trợ 50% giá giống hoa trong 2 năm đầu cho các
dự án trồng hoa; hỗ trợ 70% giá giống cho vùng lúa chất lượng cao; hỗ trợ 50% kinh phí
xây dựng đường giao thông nội đồng, nhà lưới, hệ thống tưới cho cây trồng; hỗ trợ 100%
lãi suất vốn vay ngân hàng trong 2 năm đầu của các dự án sản xuất rau an toàn, hoa chất
lượng cao, dự án xây dựng chuồng trại, thiết bị phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm tập
trung; hỗ trợ 100% lãi suất tiền vay ngân hàng cho hộ nông dân, tổ chức, cá nhân mua bò
sữa giống; hỗ trợ 500 triệu đến 1 tỷ đồng cho xây dựng, cải tạo các dự án chăn nuôi thủy
sản có quy mô từ 10-30ha; hỗ trợ tiền thuê kỹ thuật, tư vấn, công chỉ đạo cán bộ cơ sở
bằng 1,0 mức lương tối thiểu/1ha…
Trong 5 năm (2007-2011) ngân sách tỉnh đã hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và
tập huấn chuyển giao kỹ thuật là 225 tỷ đồng; trong đó hỗ trợ trực tiếp cho các mô hình
đầu tư sản xuất là 236.715 lượt hộ với số tiền là 220 tỷ đồng, hỗ trợ cho hoạt động tập
huấn, chuyển giao kỹ thuật cho 249.150 lượt người với kinh phí là 5 tỷ đồng. Chính sách
hỗ trợ kịp thời của tỉnh đã góp phần quan trọng thúc đẩy nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh
phát triển, giữ vững tốc độ tăng trưởng 3-4%/năm, đóng góp quan trọng cho việc bảo đảm
an ninh lương thực của địa phương, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nông dân.
2.5.3. Kết quả phỏng vấn một số nhà quản lý:
Để có thêm thông tin đối với vấn đề nghiên cứu, tác giả luận văn đã tiến hành
phỏng vấn trực tiếp một số nhà quản lý ở cấp huyện và các ngành chức năng liên quan ở
địa phương. Số người trả lời phỏng vấn: 12 (Phụ lục danh sách kèm theo); hình thức phỏng
vấn: trực tiếp và qua điện thoại.
Kết quả phỏng vấn như sau:
1. Trả lời câu hỏi: “Ông/bà đánh giá như thế nào về vai trò của KH&CN trong phát
triển kinh tế-xã hội nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng? ” 100% số người được
hỏi đều có câu trả lời là rất quan trọng, các TBKT đóng góp phần quyết định nâng cao
năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả sản xuất của ngành nông nghiệp. Tuy
nhiên một số ý kiến trong nhóm các cơ quan quản lý cũng thừa nhận, mặc dù nhận thức
như vậy nhưng các ngành, các cấp lại thiếu các biện pháp thiết thực, cụ thể để tổ chức triển

khai hoạt động KH&CN nói chung và CGCN phục vụ phát triển nông nghiệp nói riêng.
2. Trả lời câu hỏi: “Xin ông/bà cho biết những khó khăn nhất trong công tác chỉ
đạo, tổ chức các hoạt động ứng dụng, chuyển giao KH&CN vào sản xuất nông nghiệp ở
địa bàn/đơn vị mình? ”
- 10/12 ý kiến được hỏi (83,3%) cho rằng năng lực tiếp nhận và tổ chức triển khai
thực hiện việc CGCN vào nông nghiệp của các cơ quan ở địa phương là còn hạn chế. Ý
kiến này phù hợp với kết quả khảo sát tại các cơ quan thực hiện chức năng nghiên cứu,
triển khai, CGCN của địa phương.

17
- 9/12 ý kiến được hỏi (75%) cho biết nhiều TBKT, công nghệ của các cơ quan
khoa học ở Trung ương giới thiệu cho địa phương không phù hợp với điều kiện thực tiễn.
- 11/12 ý kiến được hỏi (91,6%) cho rằng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho
KH&CN ở địa phương còn thấp, đầu tư cho một đề tài khoa học chỉ vài trăm triệu đồng,
khó có thể tạo ra được sản phẩm khoa học có giá trị, đồng thời cũng không thể khuyến
khích các nhà khoa học sáng tạo.
- 8/12 ý kiến được hỏi (66,6%) cho rằng cả Trung ương và địa phương đều thiếu các
chính sách cụ thể để hỗ trợ các cơ quan khoa học trong việc CGCN cho nông dân (trừ khi
được tuyển chọn thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của nhà nước, tuy nhiên nhiệm vụ này
ở địa phương không nhiều).
- Cũng 8/12 ý kiến được hỏi cho rằng hiện nay trong sản xuất nông nghiệp còn thiếu
vắng sự liên kết giữa 4 “nhà”, nhất là thiếu sự liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp -
một mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ nông sản.
- 12/12 ý kiến (100%) cho rằng cơ chế tài chính cho KH&CN rất lạc hậu, cùng với
sự yếu kém về nguồn nhân lực là một trong những rào cản của sự phát triển KH&CN.
3. Trả lời câu hỏi “Theo ông/bà,nhằm khuyến khích các cơ quan nghiên cứu và triển
khai CGCN phục vụ phát triển nông nghiệp thì Nhà nước cần có những chính sách gì ? ”.
Hầu hết các ý kiến đều cho rằng Nhà nước nên có các chính sách cụ thể để khuyến khích
các tổ chức, cá nhân CGCN cho nông dân như chính sách thuế, đổi mới cơ chế tài chính…
Như vậy, có thể thấy nhiều ý kiến của các nhà quản lý có nội dung trùng lặp với kết

quả khảo sát thông qua phiếu điều tra và phù hợp với giả thuyết đã nêu trong phần đầu của
luận văn. Đây sẽ là căn cứ quan trọng cho những đề xuất về chính sách khuyến khích các
cơ quan nghiên cứu và triển khai CGCN phục vụ phát triển nông nghiệp sẽ được đề cập ở
Chương 3.
2.6. Những vấn đề rút ra từ thực trạng hoạt động CGCN và việc thực hiện các chính
sách khuyến khích đối với các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong việc CGCN
phục vụ phát triển nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh
2.6.1. Đối với nông dân, doanh nghiệp, đối tượng chủ yếu tiếp nhận CGCN
- Loại hình kinh tế phổ biến hiện nay trong lĩnh vực nông nghiệp là hộ nông dân,
quy mô sản xuất nhỏ, chưa thực sự có sản xuất hàng hóa, nhất là đối với vùng đồng bằng
Bắc bộ và miền núi phía Bắc. Đồng thời nông nghiệp nước ta từ xuất phát điểm rất lạc hậu
cũng đang chịu nhiều sức ép và thách thức từ quá trình hội nhập, nên rất cần sự hỗ trợ của
nhà nước, nhất là các chính sách, tạo điều kiện để nông dân tiếp cận, ứng dụng KH&CN
nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Đã bước đầu hình thành một số doanh nghiệp nông nghiệp, tuy nhiên chỉ ở quy
mô nhỏ, năng lực về vốn, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực hạn chế, không có khả năng đầu

18
tư cho hoạt động nghiên cứu-triển khai. Chủ yếu áp dụng các TBKT được chuyển giao
thông qua hệ thống khuyến nông, các chương trình, đề tài, dự án của nhà nước. Ít hoặc hầu
như không có sự mua bán hay chi trả cho hoạt động CGCN trong các đối tượng này.
- Từ những đặc điểm trên đòi hỏi bên cạnh các chính sách đã có, các cơ quan chức
năng cần nghiên cứu, đề xuất để Nhà nước tiếp tục sửa đổi, ban hành mới các chính sách
nhằm tăng cường hỗ trợ mọi mặt cho nông nghiệp; trong đó đặc biệt quan tâm các chính
sách nhằm khuyến khích các cơ quan nghiên cứu và triển khai, các tổ chức, doanh nghiệp
đẩy mạnh hoạt động CGCN cho nông dân.
2.6.2. Đối với các cơ quan nghiên cứu và triển khai, CGCN
- Nhóm các viện, trường, trung tâm nghiên cứu và triển khai ở Trung ương là nơi
tập trung nguồn nhân lực có trình độ cao, có nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực
khoa học nông nghiệp, được Nhà nước đầu tư trang thiết bị khá hoàn chỉnh, có bề dày kinh

nghiệm trong việc sáng tạo và CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ những hoạt động
thực tiễn và kết quả khảo sát cho thấy, vấn đề đặt ra nhằm thúc đẩy hoạt động CGCN của
nhóm này nằm ở những chính sách khuyến khích của nhà nước, những giải pháp tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, giải phóng sức
sáng tạo của các nhà khoa học.
- Ngược lại, đối với các cơ quan làm nhiệm vụ chuyển giao KH&CN ở địa phương
(Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN, hệ thống khuyến nông) lại rất cần quan tâm đến
việc kiện toàn tổ chức, phát triển nguồn nhân lực, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trạm
trại thực nghiệm, đảm bảo hoạt động thường xuyên từ ngân sách nhà nước… nhằm nâng
cao năng lực để các đơn vị này thực hiện việc CGCN, làm cầu nối giữa các cơ quan
KH&CN ở trung ương với doanh nghiệp, các hộ nông dân trong việc tiếp thu, chuyển giao
và nhân rộng việc áp dụng thành tựu KH&CN mới phục vụ phát triển nông nghiệp.
- Về mối liên kết giữa các “nhà” trong sản xuất nông nghiệp, kết quả khảo sát cũng
cho thấy rất ít sự liên kết, nhất là mối liên kết giữa “nhà” nông với “nhà” doanh nghiệp,
hoặc nếu có thì mối liên kết này cũng còn rất lỏng lẻo, chưa tạo được niềm tin và gắn bó
trách nhiệm giữa các bên. Vấn đề đặt ra là vai trò của “nhà” quản lý - ở đây là cơ quan
chức năng, chính quyền các cấp - phải là cầu nối, phải tạo ra sự gắn kết thông qua các giải
pháp, các chính sách của nhà nước, của địa phương để kéo các “nhà” lại với nhau, hợp tác
cùng phát triển.
2.6.3. Đối với việc đổi mới các chính sách
Nhiều năm qua, Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư phát triển nông nghiệp, đã có
nhiều chủ trương, chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung và các hoạt động nghiên cứu-triển khai, chuyển giao
KH&CN phục vụ phát triển nông nghiệp nói riêng. Tuy nhiên các chính sách của nhà nước
mới chỉ tập trung nhiều vào hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp, cho các hộ nông dân. Hoạt

19
động nghiên cứu-triển khai, CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp mà chủ thể là các tổ chức
KH&CN và các nhà khoa học, ngoài việc chủ trì thực hiện các nhiệm vụ KH&CN của nhà
nước thì cũng chưa được quan tâm đúng mức, những ưu đãi và những lợi ích từ hoạt động

nghiên cứu-triển khai, CGCN cho nông nghiệp cũng chưa thực sự thỏa đáng.
*Kết luận Chƣơng 2.
Từ kết quả nghiên cứu, tổng hợp tài liệu liên quan đến hoạt động CGCN trong lĩnh
vực nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh và kết quả khảo sát thực tế từ các cơ quan nghiên cứu và
triển khai, chuyển giao công nghệ, các doanh nghiệp và các hộ nông dân cho thấy: còn khá
nhiều những tồn tại, hạn chế liên quan đến bất hợp lý về cơ cấu, tổ chức, năng lực chuyển
giao của đội ngũ cán bộ KH&CN của địa phương; sự thiếu đồng bộ về chính sách khuyến
khích cả của trung ương và địa phương đối với các tổ chức, cá nhân thực hiện việc CGCN
trong nông nghiệp; những khó khăn, vướng mắc trong cơ chế quản lý tài chính cho
KH&CN; thiếu sự liên kết giữa các “nhà”…. dẫn đến hạn chế về kết quả chuyển giao
KH&CN cũng như hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Những kết quả này hoàn toàn phù hợp
với giả thuyết được nêu trong phần đầu Luận văn, sẽ là cơ sở quan trọng để tác giả đề xuất
những giải pháp, những đổi mới về chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CGCN
phục vụ phát triển nông nghiệp của địa phương sẽ được đề cập ở Chương 3 dưới đây.
Chƣơng 3. CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH CÁC TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ TRIỂN
KHAI CGCN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BẮC NINH
3.1. Định hƣớng phát triên nông nghiệp của tỉnh Bắc Ninh.
Trong phần này, tác giả luận văn đã tổng hợp những định hướng, quan điểm, mục
tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển lĩnh vực nông nghiệp đã được xác định
trong Quy hoạch Tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030, trong đó có các giải pháp về KH&CN, là những căn cứ để đề xuất các giải
pháp, chính sách cụ thể của địa phương nhằm khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và
triển khai tăng cường CGCN phục vụ phát triển nông nghiệp.
3.2. Đề xuất các chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai CGCN
phục vụ phát triển nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
3.2.1. Nhóm các chính sách về hỗ trợ nâng cao năng lực hoạt động CGCN trong nông
nghiệp của các tổ chức, đơn vị KH&CN của địa phương
3.2.1.1. Đối với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN
- Về nhân sự, cần củng cố, sắp xếp lại Phòng chuyển giao công nghệ, tăng cường
đội ngũ cán bộ chuyên ngành nông nghiệp; tiếp tục cử đi tham dự các lớp đào tạo, tập huấn

ngắn hạn về kỹ năng truyền đạt, cách tổ chức xây dựng các mô hình trình diễn áp dụng tiến
bộ kỹ thuật vào sản xuất.

20
- Về cơ sở vật chất, triển khai hoàn thành việc xây dựng trạm thực nghiệm phục vụ
các hoạt động sản xuất thử, thử nghiệm, hoàn thiện công nghệ trước khi chuyển giao nhân
rộng vào sản xuất.
- Về tổ chức, hiện nay trên địa bàn tỉnh chỉ có duy nhất Trung tâm Ứng dụng tiến bộ
KH&CN là đơn vị sự nghiệp khoa học công lập làm nhiệm vụ chuyển giao tiến bộ
KH&CN vào sản xuất và đời sống nói chung và phục vụ phát triển nông nghiệp nói riêng.
Với lực lượng cán bộ chưa đến 10 người có chuyên môn về lĩnh vực nông nghiệp là quá
mỏng so với yêu cầu. Song song với việc kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực tiếp thu,
làm chủ và CGCN cho đội ngũ cán bộ của Trung tâm, rất cần các cơ chế, chính sách và
biện pháp của tỉnh để thúc đẩy việc thành lập các doanh nghiệp KH&CN theo tinh thần
Nghị định 80 của Chính phủ, góp phần thúc đẩy các hoạt động CGCN phục vụ sản xuất và
đời sống, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
- Về cơ chế hoạt động của Trung tâm, đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên
cứu trình Chính phủ cho phép các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN của các địa
phương được hưởng cơ chế hoạt động như các tổ chức khoa học hoạt động trong lĩnh vực
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách phục vụ quản lý nhà nước, được
ngân sách nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên theo nhiệm vụ được giao.
Cần coi hoạt động CGCN phục vụ nông nghiệp của các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ
KH&CN các địa phương như một loại hoạt động công ích để có các chính sách phù hợp.
3.2.1.2. Đối với hệ thống khuyến nông
Đây là lực lượng chính làm nhiệm vụ chuyển giao các thành tựu KH&CN mới vào
sản xuất nông nghiệp của các địa phương. Xuất phát từ những hạn chế (kinh phí được cấp
chậm, ít, phân tán, thiếu sự phối hợp lồng ghép với các chương trình khác, hoạt động theo
kiểu phong trào…) tỉnh cần có quy chế thúc đẩy sự phối hợp chương trình khuyến nông
với chương trình KH&CN của địa phương, tạo sự liên kết để phát huy điểm mạnh của mỗi
kênh CGCN. Về nhân lực, tỉnh cần có chính sách ưu đãi để khuyến khích cán bộ có trình

độ cao (đại học, trên đại học) về công tác tại địa bàn xã, tạo cầu nối trực tiếp đưa KH&CN
phục vụ sản xuất nông nghiệp ở cơ sở.
3.2.1.3. Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ sở trạm, trại thực nghiệm nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh
Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ sở, trạm, trại trên địa bàn tỉnh, khắc phục
tình trạng xuống cấp, thiếu trang thiết bị, thiếu cán bộ, hoạt động không đúng mục đích…
của các cơ sở trạm, trại thực nghiệm của tỉnh, cần có các chính sách của địa phương hỗ trợ,
tập trung vào các nội dung chủ yếu: củng cố, sắp xếp lại tổ chức, đầu tư mới trang thiết bị,
cơ sở hạ tầng, vốn, cho hưởng các chính sách ưu đãi cao nhất, phù hợp với quy định của
pháp luật như miễn giảm các loại tiền sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp…; lồng
ghép với các dự án nâng cao năng lực nghiên cứu, triển khai sử dụng nguồn kinh phí đầu

21
tư phát triển KH&CN của nhà nước…Đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm hoàn thiện, đưa
dự án Khu thực nghiệm nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh vào hoạt động.
3.2.2. Nhóm các chính sách về hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ cho nông
dân, cho doanh nghiệp, tạo mối liên kết các “nhà”
3.2.2.1. Đối với nông dân
Tiếp tục đổi mới các chính sách của nhà nước nhằm hỗ trợ mạnh cho công tác tập
huấn, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân thông qua nhiều kênh (khuyến nông, khuyến
ngư, các hội nông dân, phụ nữ, đoàn thanh niên…) giúp nông dân thường xuyên tiếp cận
với các loại giống cây trồng, vật nuôi, tiến bộ kỹ thuật mới. Đổi mới phương pháp, hình
thức truyền đạt, phổ biến, chuyển giao; phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể quần
chúng thông qua các hình thức sinh động, phong phú như hội thi (nhà nông đua tài, tuổi trẻ
sáng tạo…), xây dựng các mô hình trình diễn… nhằm nâng cao nhận thức của nông dân,
xã hội hoá các hoạt động CGCN trong nông nghiệp.
3.2.2.2. Đối với doanh nghiệp
Doanh nghiệp vừa là đối tượng tiếp nhận CGCN, nhưng cũng có thể trở thành chủ
thể CGCN cho nông dân (trong trường hợp doanh nghiệp liên kết với nông dân để sản xuất
nông sản trong chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu thụ…). Với thế mạnh am hiểu thị trường,

sản phẩm, biết rõ công nghệ nào thích hợp, có năng lực để đầu tư đổi mới công nghệ; mặt
khác, lợi ích của doanh nghiệp gắn liền với lợi ích của nông dân trong việc hưởng lợi từ
kết quả CGCN; vì vậy, doanh nghiệp sẵn sàng chi trả khoản chi phí CGCN, phần mà nông
dân không làm, thông qua đó, sự tham gia của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hoạt động CGCN
cho nông dân. Để phát huy vai trò của doanh nghiệp trong mối liên kết này cần có một số
chính sách:
- Nâng cao năng lực tiếp nhận và CGCN của doanh nghiệp thông qua việc tạo điều
kiện, ưu tiên để doanh nghiệp được tham gia chủ trì các đề tài, dự án KH&CN thực hiện
bằng vốn ngân sách nhà nước, giúp doanh nghiệp tiếp thu, làm chủ và từng bước sáng tạo
công nghệ. Hỗ trợ để doanh nghiệp được tiếp cận với nguồn kinh phí cũng như nội dung
đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý; hỗ trợ chia xẻ các thông tin về KH&CN, về pháp luật,
về thị trường; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, bảo hộ sở hữu trí tuệ, xây
dựng thương hiệu,…
- Đổi mới chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của tỉnh, mở rộng đối tượng thụ
hưởng đến các doanh nghiệp. Với các ưu thế vượt trội so với hộ gia đình (về vốn, thị
trường, năng lực quản lý…) các doanh nghiệp hoàn toàn có thể trở thành những đầu kéo
quan trọng đưa KH&CN thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
3.2.2.3. Khuyến khích sự liên kết 4 nhà (doanh nghiệp, tổ chức KH&CN, nhà nước
và nông dân).

22
Xuất phát từ vai trò quan trọng của mỗi thành tố trong mối liên kết 4 nhà: doanh
nghiệp với ưu thế về vốn đầu tư, khả năng tìm kiếm thị trường, năng lực tổ chức sản xuất,
là mắt xích quan trọng nhất. Doanh nghiệp góp phần tạo ra nhu cầu ứng dụng, CGCN vào
sản xuất, cũng như lôi kéo, thúc đẩy nông dân tham gia vào chuỗi sản xuất - chế biến - tiêu
thụ sản phẩm. Các cơ quan KH&CN trong tiến trình chuyển đổi sang cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm cũng rất cần có thị trường cho sản phẩm khoa học của mình. Đối với
nông dân, nếu sự liên kết được thiết lập thì họ sẽ hưởng lợi từ sự chi trả của doanh nghiệp
cho khoản chi phí CGCN, các lợi ích khác từ hỗ trợ của nhà nước, đồng thời có sự bảo
đảm chắc chắn từ phía doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước, trong trường

hợp này là các cơ quan quản lý và ngành KH&CN với vai trò tham mưu chính sách và
phân bổ nguồn lực, cần tham mưu với tỉnh có các chính sách hỗ trợ để thúc đẩy hình thành
sự liên kết, hợp tác trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tài trợ từ quỹ phát
triển khoa học của địa phương, đặt hàng các nhà khoa học, cơ quan nghiên cứu và triển
khai tham gia nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc trong
sản xuất, cùng với nhà khoa học, nhà nông và doanh nghiệp tạo thành mối liên kết chặt
chẽ, hiệu quả.
3.2.3. Nhóm các chính sách về đầu tư, về tài chính nhằm khuyến khích các hoạt
động nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các thành tựu KH&CN trong nông nghiệp
Như đã đề cập ở các phần trên, trung ương, tỉnh đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát
triển nông nghiệp, tuy nhiên phần lớn là các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nông
dân, chưa có những chính sách cụ thể hướng vào các đối tượng là chủ thể CGCN trong
nông nghiệp bao gồm: các tổ chức KH&CN, các doanh nghiệp có hoạt động CGCN trong
nông nghiệp. Nhằm khuyến khích các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nói trên tăng cường
các hoạt động CGCN trong nông nghiệp, xin được đề xuất một số chính sách sau đây:
3.2.3.1. Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ
Mở rộng sự tham gia của các tổ chức KH&CN ở trung ương, các doanh nghiệp
trong việc nghiên cứu đề xuất và tham gia chủ trì các nhiệm vụ KH&CN do ngân sách sự
nghiệp KH&CN của địa phương tài trợ. Đề nghị bổ sung, sửa đổi Quy chế sử dụng Quỹ
phát triển KH&CN của tỉnh theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng đến cả các cơ quan
khoa học ngoài tỉnh để thực hiện các hợp đồng CGCN trên địa bàn.
Ưu tiên cho các tổ chức KH&CN, các doanh nghiệp đầu tư vào Khu thực nghiệm
nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh được hưởng các ưu đãi về giá đất, tiền thuê đất, thuế
sử dụng đất; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, cung cấp thông tin, các dịch vụ kỹ thuật…; được
hưởng một số chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp của tỉnh khi có hoạt động phù hợp.
Đối với doanh nghiệp, có thể được xem xét giao quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu các kết
quả KH&CN thuộc sở hữu nhà nước, nếu doanh nghiệp sử dụng kết quả đó và chuyển giao

23
cho nông dân để sản xuất sản phẩm mới hoặc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả

sản xuất kinh doanh.
3.2.3.2. Hỗ trợ trực tiếp cho các dự án áp dụng tiến bộ kỹ thuật để sản xuất sản
phẩm mới hoặc xây dựng vùng sản xuất hàng hóa tập trung
Doanh nghiệp tham gia các dự án CGCN để sản xuất sản phẩm mới, phát triển vùng
sản xuất hàng hoá tập trung, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, đề nghị cho hưởng các mức
hỗ trợ theo quy định của tỉnh như đối với các hộ nông dân (hỗ trợ CGCN, giá giống, khảo
sát lập dự án, phân tích thổ nhưỡng, môi trường, kiểm tra chất lượng sản phẩm, xây dựng
hạ tầng sản xuất (nhà lưới, nhà kính, chuồng trại chăn nuôi…), lãi suất tiền vay, bảo hộ sở
hữu trí tuệ, thông tin quảng cáo, tìm kiếm thị trường…).
3.2.3.3. Chính sách ưu đãi về thuế trong hoạt động CGCN phục vụ sản xuất nông
nghiệp
Đề nghị nhà nước miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với khoản thu nhập từ việc
CGCN cho nông dân theo quy định tại khoản 7, Điều 44, Luật Chuyển giao công nghệ ở
tất cả các địa bàn, không phân biệt khó khăn hay thuận lợi. Vì khi tiến hành CGCN trong
nông nghiệp hiện nay, cơ quan CGCN không thu được phí CGCN từ nông dân, chỉ thu
được khoản kinh phí chi cho hoạt động này từ việc thực hiện các đề tài, dự án KH&CN
của nhà nước, mà theo quy định của pháp luật thì khoản này đã được miễn. Như vậy, trên
thực tế là không có khoản thu này và đặt vấn đề miễn là hợp lý.
3.2.3.4. Đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN nói chung và hoạt động
CGCN trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng
- Đề nghị nhà nước cần đổi mới cơ chế quản lý tài chính cho khoa học theo hướng
đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, không cào bằng, chia đều kinh phí SNKH. Kết hợp với
việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu chung của quốc gia về đăng ký các nhiệm vụ KH&CN để
phục vụ tra cứu, tránh đầu tư chồng chéo, gây lãng phí ngân sách.
- Đổi mới cơ chế đề xuất và tuyển chọn cơ quan chủ trì các nhiệm vụ KH&CN theo
hướng độc lập giữa cơ quan đề xuất và cơ quan đăng ký tuyển chọn thực hiện. Tránh tình
trạng phổ biến hiện nay cơ quan đề xuất lại là cơ quan trúng tuyển chủ trì thực hiện. Điều
này sẽ dẫn đến bất cập vẫn tồn tại bấy lâu nay trong các cơ quan khoa học là: nhà khoa học
chỉ đưa ra được sản phẩm mình có, chứ ít đưa ra được sản phẩm mà xã hội và người sản
xuất cần. Tựu chung lại vẫn là làm lãng phí tiền của nhà nước, của nhân dân.

- Đổi mới cơ chế cấp phát và sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học của nhà nước
theo hướng khoán đến sản phẩm cuối cùng, song song với việc nâng cao hiệu quả công tác
quản lý, nhất là công tác đánh giá, nghiệm thu nhằm kiểm soát chặt chẽ sản phẩm đầu ra.
Vừa thông thoáng trong thủ tục tài chính, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

24
- Cuối cùng là đổi mới việc cấp phát kinh phí khoa học qua các loại Quỹ để khắc
phục tình trạng bất cập lệ thuộc vào năm ngân sách, gây nên tình trạng “lệch pha” trong sử
dụng và quyết toán ngân sách Nhà nước.
*Kết luận Chƣơng 3.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ trong
nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh, từ những phân tích, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, tác
giả luận văn đã mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và chính sách tập trung vào 3 nhóm vấn
đề chính: nhóm các chính sách về hỗ trợ nâng cao năng lực CGCN cho các tổ chức
KH&CN của địa phương; hỗ trợ nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ của nông dân,
doanh nghiệp và tạo mối liên kết các “nhà”; nhóm các chính sách về đầu tư, về tài chính
nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu, CGCN trong nông nghiệp.

KẾT LUẬN
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn đang từng bước được Đảng và Nhà nước quan
tâm và ngày càng được đặt đúng vị trí quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khoá X) của Đảng về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đã đề cập đến 8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp quan trọng để thực hiện
mục tiêu “xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững”,
trong đó giải pháp đẩy mạnh ứng dụng, chuyển giao KH&CN, nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ổn
định, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, làm tiền
đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiếp tục là giải pháp quan trọng
mà các ngành, các địa phương cần tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện.
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật của ngành nông nghiệp chưa được hoàn

thiện; hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai phục vụ hoạt động chuyển giao
KH&CN trong lĩnh vực nông nghiệp ở hầu hết các địa phương còn thiếu; nguồn nhân lực
và cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế; hiệu quả công tác CGCN trong nông nghiệp chưa
cao, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá,
hiệu quả bền vững. Hệ thống chính sách khuyến khích các hoạt động chuyển giao KHCN
phục vụ phát triển nông nghiệp chưa đồng bộ, nhất là ở các địa phương. Vấn đề đặt ra là
cần có những chính sách, những giải pháp khuyến khích cụ thể của các địa phương tác
động tích cực vào các chủ thể CGCN cũng như tiếp nhận công nghệ nhằm thúc đẩy mạnh
mẽ hoạt động CGCN trong nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của sản phẩm đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững.
Luận văn Chính sách khuyến khích các tổ chức nghiên cứu và triển khai chuyển
giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh đã tập trung giải quyết
những nội dung chủ yếu sau:

25
1. Nêu được tổng quan vấn đề lý luận về công nghệ, CGCN, các chủ thể CGCN và
những nội dung chủ yếu về chính sách, chính sách KH&CN, tác động của chính sách đối
với các hoạt động kinh tế-xã hội nói chung và hoạt động nghiên cứu, chuyển giao KH&CN
nói riêng.
2. Phân tích đánh giá hiện trạng hoạt động CGCN và việc thực hiện các chính sách
khuyến khích các hoạt động CGCN phục vụ nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Chỉ
ra những ưu điểm và hạn chế trong hoạt động CGCN và thực hiện chính sách khuyến
khích CGCN phục vụ nông nghiệp ở tỉnh Bắc Ninh.
3. Đề xuất những giải pháp về chính sách để khuyến khích và hỗ trợ các cơ quan
nghiên cứu và triển khai, các doanh nghiệp CGCN cho nông dân tỉnh Bắc Ninh.
Trên cơ sở kết quả khảo sát thực tiễn, những vấn đề cơ sở lý luận liên quan và các
đề xuất giải pháp khuyến khích, hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu và triển khai, các doanh
nghiệp đẩy mạnh việc CGCN cho nông dân Bắc Ninh, Luận văn đã kiểm chứng các giả
thuyết nghiên cứu trong phần mở đầu là có cơ sở khoa học, không có giả thuyết bị loại bỏ.
Luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc của tác giả trước những vấn đề bức xúc

đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý các hoạt động nghiên cứu-triển khai ở địa
phương. Những tìm tòi, nghiên cứu xuất phát từ mong muốn được đóng góp một phần nhỏ
sức lực, trí tuệ, cùng với các ngành, các cấp ở địa phương từng bước đổi mới, hoàn thiện
các chính sách nhằm khuyến khích các cơ quan nghiên cứu và triển khai, các nhà khoa
học, các doanh nghiệp cùng chung tay đồng hành với nông dân, đưa nhanh những thành
tựu KH&CN mới để thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, làm
nền tảng cho sự ổn định xã hội và phát triển đất nước.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do khả năng có hạn nên chắc chắn Luận văn không
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả xin trân trọng kính mong các thầy giáo, cô
giáo và đồng nghiệp cho ý kiến, giúp đỡ để luận văn hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn./.

×