Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Xu hướng phát triển của án lệ trong hệ thống nguồn pháp luật thành văn trong hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law và liên hệ với Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.28 KB, 23 trang )

Bài tập cá nhân Luật so sánh

MỤC LỤC

1


Bài tập cá nhân Luật so sánh

MỞ BÀI
Án lệ trong hệ thống thông luật (common law) có vai trò hết sức quan
trọng,thể hiện ở chỗ chúng được coi là nguồn của luật không thành văn áp dụng
để giải quyết các vấn đề tương tự và là cơ sở để đảm bảo sự nhất quán trong
hoạt động xét xử. Việc nghiên cứu án lệ và phát triển án lệ ngày nay không chỉ
còn bó hẹp trong dòng họ pháp luật common law mà nó còn lan rộng trên toàn
thế giới, các quốc gia các dòng họ pháp luật khác cũng đã nghiên cứu và phát
triển án lệ ở quốc gia mình, tại dòng họ civil law vị trí vai trò của án lệ cũng đã
được đề cao hơn so với thời kì trước đây, Đặc biệt hơn là đối với Việt Nam
đang trong giai đoạn chuyển mình của án lệ, án lệ được coi trong và đưa vào
trong thực tiễn áp dụng. Việc nghiên cứu án lệ là một yêu cầu bắt buộc và cấn
thiết đối với sinh viên và những người làm công tác pháp luật. Do đó em xin
chọn và tìm hiểu về đề tài “Xu hướng phát triển của án lệ trong hệ thống nguồn
pháp luật thành văn trong hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law và liên
hệ với Việt Nam.”

2


Bài tập cá nhân Luật so sánh

NỘI DUNG


I.
1.

Khái quát chung về án lệ và dòng họ pháp luật Civil Law
Khái quát về án lệ
Trong tiếng Anh, án lệ là "precedent”, thuật ngữ này phát sinh từ hệ thống
thông luật (common law) với hệ thống quan điểm lý luận pháp lý khác biệt hẳn
với hệ thống dân luật (civil law). Vì vậy, án lệ sẽ không dễ dàng để được tiếp
nhận đối với các luật gia, nhà nghiên cứu ở các nước thuộc hệ thống dân luật.
Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được hiểu như sau:
1. Án lệ là việc làm luật của tòa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc
mới trong quá trình xét xử; 2. Vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra
phán quyết cho những trường hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này ”.
Theo quy định tại Nghi quyết 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn,
công bố và áp dụng án lệ, thì án lệ được hiểu như sau : “Án lệ là những lập
luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa
chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà
án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.”
Cũng tại nghị quyết này ở Điều 2 quy định về tiêu chí lựa chọn án lệ
Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng được các tiêu chí sau đây:
1. Chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu
khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên
tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể;
2. Có tính chuẩn mực;

3


Bài tập cá nhân Luật so sánh


3. Có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, bảo
đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải
quyết như nhau.”



Một số giá trị cơ bản của nguồn luật án lệ
Thứ nhất, án lệ mang tính thực tiễn cao. Nghĩa là dựa vào thực tiễn, tập
trung vào việc giải quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế chứ không
phải giải quyết vấn đề bằng các lý thuyết chung chung trừu tượng. Tính thực
tiễn của án lệ biểu hiện như sau: (i) Các lý lẽ tạo ra án lệ mang tính nhân tạo
chứ không phải mang tính tự nhiên ; (ii) Các luật gia thông luật cố gắng giải
thích tinh thần của pháp luật hơn là hình thức từ ngữ của pháp luật.
(i) Quan niệm về lý lẽ hay các quy tắc án lệ trong thông luật mang tính chất
nhân tạo chứ không phải là các lý lẽ mang tính tự nhiên. Nghĩa là các lý lẽ hay
các quy tắc án lệ không phải sẵn có mà con người phải nghiên cứu, quan sát lâu
dài thông qua quá trình tích lũy kinh nghiệm trong thực tế đời sống. Ở khía cạnh
này, quan điểm của các luật gia thông luật rất gần với các nhà thực chứng. Về
mặt triết lý, lịch sử hệ thống thông luật được hình thành từ hai yếu tố là tập quán
(custom) và lý lẽ (reason). Nguồn gốc án lệ ở Anh được hình thành từ các tập
quán, ban đầu là các tập quán địa phương và sau đó được các thẩm phán chọn
lọc, bổ sung thành pháp luật chung cho toàn vương quốc Anh. Vì vậy, luật pháp
thông luật vừa gần với thực tế đời sống, vừa mang tính khách quan. Các thẩm
phán thông luật luôn đi tìm những giải pháp để giải quyết những vấn đề cụ thể
hơn là đưa ra những lý lẽ theo kiểu lý thuyết suông từ góc nhìn của đạo đức. Vì
vậy, thẩm phán là người làm công việc thực tế chứ không phải là các triết gia
hay là các nhà lý luận. Điều này cũng thể hiện trong cách thức tuyển chọn thẩm
4



Bài tập cá nhân Luật so sánh

phán ở hai truyền thống pháp luật thông luật và dân luật rất khác nhau. Tiến sĩ
Rupert Cross chỉ ra sự khác biệt trong việc tuyển chọn thẩm phán ở Anh và
Pháp: Thẩm phán ở Anh được lựa chọn từ các luật sư (barrister), đây không là
điều kiện bắt buộc khi tuyển chọn thẩm phán ở Pháp; do vậy, các thẩm phán ở
Pháp thường trẻ và thiếu kinh nghiệm hơn những đồng nghiệp ở Anh.
(ii) Các quy tắc án lệ của pháp luật thông luật được gọi là các quy tắc
không thành văn. Các luật gia của hệ thống thông luật cho rằng, luật do nghị
viện làm ra mang tính gián tiếp và cứng nhắc. Khi giải quyết vụ việc thẩm phán
cần phải nắm tinh thần của các quy phạm và phải đi tìm kiếm ý định của nhà lập
pháp. Vì vậy, thuật ngữ quy phạm pháp luật (legal rule) xa lạ với các luật gia
của thông luật, vì họ cho rằng các quy phạm pháp luật được diễn đạt bằng câu
chữ càng rõ ràng, chặt chẽ sẽ càng làm cho nó cứng nhắc, khô khan. Pháp luật
là công cụ giải quyết của vấn đề của thực tế chứ không thuần túy là vấn đề của
sự tranh luận về mặt lý luận hay đạo đức. Vì vậy, nếu thu nhỏ hệ thống luật
pháp bằng các quy tắc, tập quán nào đó rồi đưa vào trong các bộ luật hay các
văn bản quy phạm pháp luật thìvô hình chung sẽ làm cho pháp luật "chết” chứ
không "sống”. Các luật gia thông luật cho rằng, luật pháp không thể hoàn hảo
để giải quyết cho mọi truờng hợp trong tuơng lai. Vì vậy, các quy tắc được tạo
ra tồn tại trong các bản án trong quá khứ chỉ là những khuôn mâu, mô hình tiền
lệ. Các thẩm phán hiện tại phải tìm kiếm giải pháp hợp lý nhất cho vụ việc mình
xử lý trên cơ sở cái tiền lệ đã có. Cho nên các quy tắc (ratio) trong pháp luật
thông luật được coi là "implicit rulẻ’, nghĩa là các quy tắc ngầm định. Bacon đã
viết: "not make the law from the rules, but to make the rules from the existing
law that is, the body of argued opinions and decisions’ - tạm dịch: "không làm
ra luật từ những quy tắc, mà đưa ra những quy tắc từ luật có sẵn, là toàn bộ
những quan điểm và quyết định đã được tranh luận”. Điều này lý giải tại sao
nguồn luật án lệ được gọi là luật không thành văn. Qua đó cho thấy, các luật gia

của thông luật không đi tìm hình thức tồn tại bằng từ ngữ cho các quy tắc xử sự
5


Bài tập cá nhân Luật so sánh

mà dường như đi tìm nội dung, tinh thần của luật trong các phán quyết tu pháp
truớc đó. Đồng thời nguồn luật án lệ cũng thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt hơn
so với nguồn luật văn bản pháp luật
Thứ hai, án lệ có khả năng khắc phục những lỗ hổng pháp luật một cách
nhanh chóng và kịp thời.
Đời sống xã hội luôn vận động, phát triển còn các quy phạm trong các văn
bản pháp luật mang tính ổn định, dân đến hệ quả là luật pháp có thể lạc hậu hay
có thể thiếu hụt để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Để khắc phục tình trạng
này, các luật gia dân luật tìm đến những nguồn bổ trợ khác như áp dụng tập
quán hoặc sử dụng án lệ. Các án lệ ở các nước dân luật được hình thành chủ yếu
thông qua con đường giải thích pháp luật của tòa án tối cao. Khi giải thích pháp
luật trong những trường hợp chưa có quy phạm thành văn điều chỉnh, các thẩm
phán dựa vào các nguyên tắc nhất định. Ví dụ như, các thẩm phán Pháp dựa vào
công lý và lý trí, các thẩm phán Đức thì sử dụng cách thức vô hiệu các quy định
cụ thể bằng nguyên tắc chung, các thẩm phán ở các nước Bắc Âu sử dụng quy
tắc: "Luật có hại không phải là luật. Mặc dù, ở mỗi quốc gia có các cách thức
khác nhau để khắc phục lỗ hổng pháp luật nhưng suy cho cùng cũng phản ánh
vai trò làm luật của tòa án. Trong những truờng hợp này, các bên tranh chấp hay
thẩm phán không thể chờ nghị viện bổ sung hay sửa đổi pháp luật. Tương tự
vậy, ở các nước thông luật các quy tắc án lệ không thể đầy đủ hoặc hợp lý để
giải quyết tất cả các tranh chấp trong xã hội. Các thẩm phán cũng phải tìm kiếm
các lý lẽ hợp lý để sửa đổi, bổ sung các quy tắc án lệ hiện có. Tuy nhiên, khi các
thẩm phán thực hiện công việc này sẽ nhanh chóng và kịp thời hơn so với nghị
viện vì phải trải qua một quy trình và thủ tục lập pháp rất phức tạp.

Trong lĩnh vực pháp luật dân sự của Việt Nam, để khắc phục sự thiếu hụt
của văn bản pháp luật thành văn, nhà làm luật cũng đưa ra những cách thức nhất
định như áp dụng tập quán hoặc áp dụng tương tự quy định pháp luật. Cả hai
6


Bài tập cá nhân Luật so sánh

cách thức này đều có thể dân đến hình thành án lệ. Tuy nhiên, để có thể giải
quyết vụ việc bằng những cách thức này đòi hỏi thẩm phán phải là người có
nhiều kinh nghiệm và có kiến thức sâu rộng trong lĩnh vực khoa học pháp lý.
Thứ ba, án lệ thể hiện tính khách quan và công bằng.
Một số người cho rằng, án lệ được tạo ra bởi một vài thẩm phán trong hội
đồng xét xử khi xử lý một vụ việc cụ thể nên có thể dân đến tình trạng chủ
quan, tùy tiện trong việc tạo ra các quy tắc án lệ. Thật ra, nhận định này mới chỉ
nhìn bề ngoài về nguồn luật án lệ và hiểu không đúng về bản chất, tinh thần của
học thuyết án lệ (doctrine of stare decisis). Trước hết, một quy tắc án lệ không
phải hình thành từ một bản án cụ thể, mà nó phải được hình thành qua hàng loạt
các vụ việc tương tự về sau, bản án đầu tiên chỉ là hình mâu phác thảo lên một
quy tắc án lệ. Vì vậy, một quy tắc án lệ trong pháp luật thông luật không có tác
giả, không có bản quyền cho bất kỳ thẩm phán nào. Hai là, quy tắc án lệ trong
pháp luật thông luật là kết quả của quá trình đưa ra những lý lẽ và tranh luận lâu
dài. Sự tranh luận được thể hiện thông qua sự tranh luận giữa bên nguyên và
bên bị trong vụ việc, giữa các thẩm phán trong hội đồng xét xử, giữa các thẩm
phán sau với các thẩm phán trước đó khi họ vận dụng lý lẽ của các phán quyết
trước đó. Ba là, quy tắc án lệ phải được thừa nhận là giá trị chung (common
value) hay là lý lẽ chung (common reason). Khi có các trường hợp mới phát
sinh nhưng chưa có giải pháp cho các trường hợp này hoặc nếu lấy các quy tắc
đang tồn tại áp dụng các trường hợp này sẽ không đem lại một kết quả công
bằng như mong đợi.

Vì vậy, các thẩm phán phải đi tìm giải pháp pháp lý mới, nhưng liệu rằng
các thẩm phán có thể tự định ra những tiêu chuẩn, những giá trị riêng mà các
bên tranh chấp phải phục tùng và cả xã hội phải thừa nhận? Nếu vậy thì thẩm
quyền làm luật của tòa án sẽ không có một giới hạn nào cả. Thực chất, thẩm
quyền làm luật của tòa án bị ràng buộc bởi các quy phạm pháp luật thành văn và
7


Bài tập cá nhân Luật so sánh

các quy tắc án lệ được tạo ra trước đó. Mặt khác, phán quyết của tòa án phải
phù hợp với các giá trị hiện hành của xã hội. Quyết định của tòa án trong những
trường hợp này không chỉ bản thân các thẩm phán cảm thấy rằng nó là hợp lẽ
công bằng mà các bên tranh chấp trong vụ việc và cả xã hội cũng phải thừa
nhận tính hợp lý của nó.1

1 . />
8


Bài tập cá nhân Luật so sánh

2. Khái quát về dòng họ pháp luật Civil Law

Thuật ngữ civil law trong lĩnh vực luật học có hai nghĩa phổ biến
-

Thứ nhất, đó là tên gọi của hệ thống pháp luật lục địa châu Âu ( còn gọi là hệ
thống pháp luật La Mã- Đức), là dòng họ pháp luật lớn nhất thế giới, tồn tại ở
các nước châu Âu như Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đức, Áo, Bỉ,

Lúc- xăm- bua, Hà Lan, Thụy Sĩ, Scotland, phần lớn các nước châu Phi, hầu hết
các nước Châu Mỹ Latinh, các nước phương đông kể cả Nhật Bản.

-

Thứ hai, có nghĩa là luật dân sự- ngành luật điều chỉnh các quan hệ tài sản và
nhân thân giữa các cá nhân, thuộc lĩnh vực luật tư điều chỉnh các quan hệ giữ tư
nhân với tư nhân.
Trong lĩnh vực luật so sánh, dòng họ civil law được hiểu theo nghĩa thứ
nhất là hệ thống pháp luật lớn nhất thế giới mà nền tảng của nó là luật La Mã cổ
đại.
Nhìn một cách tổng quan, dòng họ pháp luật Civil law có các đặc điểm cơ
bản sau:

-

Chịu ảnh hưởng sâu sắc của Luật La Mã
Các bộ luật lớn nhất châu Âu như Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804, bộ
luật dân sự Đức năm 1896 đều được hình thành trên cơ sở kết hợp tập quán địa
phương và luật La Mã. Luật La Mã được nghiên cứu tại các trường đại học ở
Đức, Pháp và các nước lục địa Châu Âu và được coi là nguồn bỉ sung được áp
dụng trực tiếp nếu pháp luật thành văn và tập quán luật của họ chưa có quy định
đối với quan hệ xã hội cần thiết phải điều chỉnh pháp luật.
9


Bài tập cá nhân Luật so sánh
-

Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law được phân chia thành công pháp

và tư pháp
Công pháp bao gồm những ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa cơ
quan nhà nước với nhau hoặc giữa cac cơ quan nhà nước với tư nhân. Tư pháp
bao gồm các ngành luật điều chỉnh các quan hệ tư nhân với tư nhân tư pháp. Cơ
sở để phân chia luật pháp thành công pháp và tư pháp là phương pháp điều
chỉnh (phưong pháp tác động luật lên các quan hệ xã hội).Phương pháp điều
chỉnh đặc trưng của tư pháp là phương tự do thỏa thuận ý chí và bỉnh đẳng, còn
phương pháp thỏa thuận của công pháp là phương pháp mệnh lệnh.

-

Các hệ thống pháp luât thuộc dòng họ civil law coi trọng lý luận pháp luận
Ngay từ thế kỉ XII, XIII, khi các trường đại học của các quốc gia lục địa
Châu Âu ra đời, quan điểm của các giáo sư đại học lúc này dã là: Phpas luật là
công cụ, là mô hình tổ chức xã hội, là cái “ Sollen” chứ không phải “ sein”. Các
quan điểm này được duy trì trong những thế kỉ tiếp theo. Các học thuyết pháp
luật. Các học thuyết pháp luật, các nguyên tắc pháp luật được coi là nguồn của
pháp luật.

-

Các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law có trình độ hệ thống hóa, pháp
điển hóa cao
Ngoài các bộ luật thông thường như bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự,
bộ luật tố tụng dân sự, bộ luật lao động, bộ luật thương mại các quốc gia châu
Âu đã xây dựng nhiều bộ luật khác nhau như bộ luật đất đai, bộ luật tố tụng
hành chính… Các quy phạm luật trong các bộ luật thường rất cụ thể với các chế
tài rõ rang vì vậy có thẻ áp dụng trực tiếp vào các quan hệ xã hội mà khong
cần thông qua văn bản pháp luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng
dẫn thi hành.


10


Bài tập cá nhân Luật so sánh
-

Dòng họ civil law không coi tiền lệ pháp là hình thức pháp luật thông dụng và
phổ biến như pháp luật thành văn
Khác với dòng họ common law, dòng họ pháp luật civil law chịu ảnh hưởng
sâu sắc của thuyết phân chia quyền lực nên không thừa nhận vai trò lập pháp
của các cơ quan xét xử.2

2.

Giáo trình Luật so sánh- Trường Đại hoc Luật Hà Nội- NXB Công an nhân dân- Năm
2014
11


Bài tập cá nhân Luật so sánh
II.
1.

Vị trí của án lệ trong dòng họ pháp luật Civil law
Án lệ trong giai đoạn trước đây không được coi trọng
Theo quan điểm lý luận phổ biến của các hệ thống pháp luật ở lục địa châu
Âu, các nguyên tắc, các giải pháp pháp lý rút ra từ án lệ không có cùng giá trị
như luật thành văn. Đó là các giải pháp không chắc chắn, có thể bị hủy bỏ, sửa
đổi bất kỳ lúc nào phụ thuộc vào việc mới. Thực tiễn xét xử của tòa án không bị

rằng buộc bởi những quy phạm do chính nó tạo ra và cũng không thể dựa vào
các quy phạm đó để biện luận cho quyết định của mình. Án lệ chỉ được áp dụng
khi thẩm phán thấy phù hợp với bản án đang xét xử. Án lệ không được coi là
nguồn cơ bản.
Bộ luật dân sự Napholeon đã thiết lập một số quy định gây cản trở cho việc
phát triển án lệ. Điều 5 Bộ luật dân sự Napholeon quy định “Cấm các thẩm
phán dặt ra các quy định chung và có tính lập quy để tuyên án đối với những vụ
việc được giao để xét xử”. Điều 1351 bộ luật này cũng xác định: “ Bản án chỉ
có hiệu lực pháp luật đối với một vụ việc. Chỉ được xem là cùng một vụ việc khi
yêu cầu về cùng một vấn đề, dựa trên cùng một căn cứ và giữa cùng các bên
tranh chấp”.

2.

Án lệ trong giai đoạn gần đây được coi trọng hơn trong dòng họ pháp luật
civil law
Mặc dù có nhiều cản trở như đã trình bày ở trên đây, ý nghĩa quan trọng của
án lệ ngày càng được coi trọng và án lệ ngày càng được thừa nhận điều đó được
chứng minh trong quá trình phát triển của pháp luật. Trong xu hướng hội tụ, các
hệ thống pháp luật thuộc dòng họ civil law sẽ ngày càng coi trọng phán quyết
của tòa án. Điều này được thể hiện ở hai vấn đề:

-

Thể kỉ XIX, cơ chế bảo hiến đã ra đời, do đó đã tồn tại các tổ chức bảo hiến (ở
Đức là tòa án bảo hiến). Chính vì thế, phán quyết của tổ chức bảo hiến có tính
rằng buộc đối với các tòa án cấp dưới. Tại Đức tòa án bảo hiến liên bang và tòa
12



Bài tập cá nhân Luật so sánh

án liên bang khác có toàn quyền trong việc xây dụng án lệ. Tòa án cấp dưới có
nghĩa vụ phải thực hiện án lệ của tòa án này, nếu không bản án của họ có thể bị
-

giám đốc thẩm.
Trong quá trình xét xử, để đảm bảo tính thống nhất trong việc xét xử, đảm bảo
tính đúng đắn về chuyên môn nghiệp vụ cũng như sự tôn trọng của tòa án cấp
trên, tòa cấp dưới luôn có xu hướng tham khảo những bản án đã được tuyên,
căn cứ vào đó để đưa ra quyết định cho bản án cụ thể của mình.
Các phán quyết của tòa án rất hay được quy chiếu tới các phán quyết đã
tuyên trước đó. Đây cũng có thể coi là những biểu hiện của việc sử dụng bản án
trong hệ thống pháp luật của các nước thuộc dòng họ Civil law.

a.

Án lệ trong hệ thống pháp luật Pháp
Án lệ trong lĩnh vực luật dân sự là yếu bổ sung cho sự trường tồn của BLDS
Pháp. Nhìn chung, sẽ là sai lầm nếu ai đó cho rằng, BLDS nước Pháp được
pháp điển hoá rất chi tiết và đầy đủ, nó sẽ là cơ sở để giải quyết được tất cả
những vấn đề pháp luật dân sự nảy sinh trong xã hội. Theo Portalis “luật pháp
đứng yên trong khi đời sống xã hội của con người luôn thay đổi, vì lý do đó mà
không ai có thể qui định tất cả mọi vấn đề có thể phát sinh”. Trên cơ sở lý luận
như vậy, Portalis đã đưa ra quan điểm rất thực tế về chức năng của BLDS 1804,
nó không thể bao quát toàn bộ các vấn đề mà nhà làm luật có thể tiên đoán. Ông
thừa nhận “chức năng của hoạt động lập pháp là tạo lập cái nhìn bao quát trong
các ngôn từ chung của pháp luật; là việc đặt ra các nguyên tắc cho nhiều trường
hợp cụ thể hơn là chi tiết hoá trong mọi câu hỏi về các tình huống có thể nảy
sinh”. Phạm vi bao quát trong các quy định của BLDS Pháp là rất rộng. Thực

tiễn đã cho thấy, án lệ trong lĩnh vực luật dân sự đã và đang đóng một vai trò
quan trọng cho sự phát triển pháp luật dân sự ở Pháp. Điều này có thể hiểu là,
các thẩm phán nên giải thích các qui định, nguyên tắc của BLDS Pháp một cách
linh hoạt để nó phù hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội. Thực sự thì Portalis
đã tiên đoán được việc BLDS Pháp sẽ không thể tồn tại tách rời với những án lệ
13


Bài tập cá nhân Luật so sánh

của các vụ án dân sự. Án lệ trong luật dân sự chính là nguồn luật bổ trợ cho luật
thành văn. Nhiều điều luật trong BLDS được giải thích bởi các toà án. Điều này
làm cho các án lệ trong lĩnh vực luật dân sự trở thành phương tiện để hiểu được
BLDS. Những án lệ quan trọng nhất trong lĩnh vực luật dân sự ở Pháp được
thiết lập bởi Toà phá án.
Án lệ trong lĩnh vực luật hành chính: Không giống như lĩnh vực luật dân sự,
luật hành chính của Pháp không được pháp điển hoá. Thực tiễn cho thấy, luật
hành chính ở Pháp được phát triển trên cơ sở án lệ. Cũng có thể nói rằng, án lệ
đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển ngành luật hành chính hơn bất cứ
ngành luật nào trong hệ thống pháp luật của Pháp. Với tư cách là toà án cấp cao
nhất trong ngạch toà hành chính, Tham chính viện (Conseil d’Etat)đã đưa ra rất
nhiều quyết định được coi là những án lệ của luật hành chính. Khi không có văn
bản pháp luật điều chỉnh những vấn đề cụ thể, các toà hành chính ở Pháp đã tự
đặt ra những quy tắc, giải pháp đối với các tranh chấp hành chính trước toà. Các
cơ quan hành chính nhà nước luôn tôn trọng các quyết định của Tham chính
viện và coi đó như là nguồn của luật hành chính. 3
b. Án lệ trong hệ thống pháp luật CHLB Đức
Trong xu hướng pháp điển hoá pháp luật ở Đức, vị trí của án lệ chưa bao giờ
bị đánh giá thấp trong hệ thống pháp luật. Như chúng ta đã biết, ở Châu Âu có
hình thức thông luật, nó được phát triển trong quá trình tiếp nhận luật La Mã.

Trong trường hợp không có sẵn văn bản pháp luật hay tập quán, các các thẩm
phán Đức đã áp dụng linh hoạt các nguyên tắc của luật La Mã trong xét xử. Vì
thế có thể nói, trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ XVII đến thế kỷ thứ XVIII,
án lệ đã đóng vai trò quan trọng trong pháp luật Đức.
3 .

14


Bài tập cá nhân Luật so sánh

Sự hiểu biết và thông thạo các án lệ trong lĩnh vực dân sự có lẽ là cách tốt
nhất để các thẩm phán và luật sư ở Đức áp dụng đúng các qui định của BLDS
Đức năm 1900. Trong BLDS Đức, các quy định về hợp đồng, bồi thường thiệt
hại v.v.. đã được hỗ trợ bởi hàng loạt những án lệ. Ví dụ, Điều 181 BLDS Đức
1900 quy định một chi nhánh không được cam kết, khi không có sự đồng ý của
Công ty mẹ của nó, các hợp đồng nhân danh công ty mẹ, trừ những giao dịch
trong phạm vi nghĩa vụ của chi nhánh. Tòa án tối cao CHLB Đức đã giải thích
điều 181 với cách hiểu là: các chi nhánh không thể tham gia các giao dịch dân
sự khi không có sự cho phép, trừ trường hợp các giao dịch đó chỉ đem lại lợi ích
cho công ty mẹ. Án lệ của Tòa án tối cao CHLB Đức (về dân sự và hình sự)
luôn được các toà án cấp dưới tuân theo khi áp dụng trong thực tiễn áp dụng
pháp luật. Nếu toà án cấp dưới không tuân theo cách giải thích và áp dụng pháp
luật của các bản án mà Tòa án tối cao CHLB Đức đã tuyên, thì các toà án cấp
dưới có nghĩa vụ giải thích rõ vì sao nó không tuân theo. Thậm chí các luật sư
cũng phải thực sự quan tâm đến án lệ, bởi nếu không chú ý đến các án lệ của
các toà án cấp cao, thì luật sư có thể sẽ phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng
vì tư vấn không đúng.
Trong lĩnh vực luật Hiến pháp, các án lệ của Toà án Hiến pháp CHLB Đức
có hiệu lực như luật, nó bắt buộc các toà án cấp dưới phải tuân theo. Điều 31.1

của Luật Toà án Hiến pháp Đức quy định “Các quyết định của Toà án Hiến
pháp CHLB Đức có hiệu lực bắt buộc với các cơ quan của chính quyền liên
bang và các tiểu bang cũng như tất cả những toà án và các cơ quan nhà nước
khác”. Toà án Hiến pháp CHLB Đức có vị trí đặc biệt trong hệ thống toà án của
nước Đức. Các quyết định của nó có hiệu lực cao hơn luật liên bang, trừ Hiến
pháp. Đây là một đặc trưng cơ bản khi đề cập tới vai trò của án lệ trong hệ
thống pháp luật nước Đức hiện nay.4
4

15


Bài tập cá nhân Luật so sánh

c. Tiến trình khẳng định vai trò của án lệ trong hệ thống pháp luật
Pháp và Đức
Mặc dù không có truyền thống pháp luật phát triển dựa trên cơ sở các án lệ
là nguồn luật cơ bản như hệ thống pháp luật các nước trong hệ thống thông luật,
nhưng án lệ đã trở thành xu hướng phát triển của hai hệ thống pháp luật Pháp và
Đức, là một bộ phận không thể thiếu trong pháp luật của những nước này. Tuy
nhiên, cách áp dụng án lệ trong pháp luật Pháp và Đức vẫn có điểm khác biệt so
với cách sử dụng án lệ ở các nước thông luật. Do bị ảnh hưởng bởi truyền thống
coi trọng luật thành văn để luận giải các quyết định trong bản án, nên các phán
quyết của các toà án Pháp, Đức thông thường không sử dụng phương pháp phân
tích tương tự các án lệ để làm cơ sở cho các quyết định của bản án. Hơn nữa,
trong một không gian pháp luật của Liên minh Châu Âu rộng lớn hơn phạm vi
pháp luật quốc gia, cách thức sử dụng và áp dụng án lệ của Toà án công lý Châu
Âu đã tác động không nhỏ đến tư duy pháp luật của các thẩm phán ở Pháp và
Đức. Bởi vì khi giải quyết các vấn đề có liên quan đến pháp luật của Liên minh
châu Âu, thẩm phán của cả hai hệ thống pháp luật Pháp và Đức không thể tránh

khỏi việc sử dụng các án lệ của Toà án công lý Châu Âu. Điều này đã tác động
đến văn hoá pháp lý trong xét xử của các thẩm phán các nước thành viên. Việc
vận dụng án lệ với vai trò là nguồn luật bổ trợ để tăng tính thuyết phục cho các
bản án đã và đang trở thành một xu hướng nổi bật trong nội dung các bản án của
Toà án các nước thuộc hệ thống pháp luật dân luật ở Châu Âu5.
III.
1.
1.1

Án lệ ở Việt Nam
Sự thay đổi vị thế của án lệ ở Việt Nam
Thời kì trước năm 1975 án lệ đã được thừa nhận và áp dụng tại Việt Nam
Xin khẳng định rẳng, trên đất nước Việt Nam, trong lịch sử, từ thời kỳ sau
năm 1858- năm thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và bắt đầu chiếm đóng đô
5

16


Bài tập cá nhân Luật so sánh

hộ, đến trước năm 1975 – năm Việt Nam hoàn toản giải phóng khỏi ách thống
trị của những nước xâm lược, thì đã từng có án lệ. Điều này được viết với sự
khách quan, và tìm hiểu vấn đề không dựa trên một ý muốn gì, mà chỉ dựa trên
quan điểm khoa học,và những gì đã có trong lịch sự cảu nước Việt Nam . Điều
này sẽ được minh chứng, đó là với những lý do:
Thứ nhất, Việt Nam đã là thuộc địa cụa Pháp trong hơn 80 năm, và ở miền
Nam Việt Nam đã từng có một “ nhà nước thân Mỹ” trong một thời gian dài.
Mà những điều này đả ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, chính trị, và cả nên pháp
luật của Việt Nam.

Thứ hai, Pháp và đặc biệt là Mỹ, đã là những quốc gia mà án lệ dù thế nào
cũng đã có, được thừa nhận với những giá trị bắt buộc riêng. Vậy trong thời
gian dô hộ đó, thử hỏi, Việt Nam có thể không chịu ảnh hưởng của ít nhất là về
mặt tư tưởng về vấn đề án lệ trong pháp luật không.
Thứ ba, xin đưa ra hai ví dụ về án lệ ở Việt Nam thời kỳ đó, để chứng tỏ là
Việt Nam đã từng có án lệ: Ví dụ thứ nhất, được minh chứng trong một án lệ
hành chính: đây có thể nói là một án lệ thể hiện cho sự tiếp thu và quá trình
“phap luật hoá” của thực dân Pháp sau khi đô hộ Viêt Nam, việc này vừa để
thống trị, vừa để cho thấy tính thích nghi của mộ hình án lệ hành chính của
Pháp.6
Từ sau năm 1945, từ “án lệ” đã được sử dụng trong các văn bản pháp luật,
trên các tập san Luật học của chế độ ta, thể hiện như sau:
Tai Thông tư của Thủ tướng Chính phủ số 442/TTg, ngày 19-1-1955 về
trừng trị một số loai tội phạm, đã nêu: …”Tới nay, các tòa án căn cứ vào những
văn bản nói trên và chính sách trừng trị của Chính phủ mà xét xử đem lại kết
quả tốt cho việc bảo vệ trật tự, an ninh. Kinh nghiệm xét xử về một số loại tội
6 />
17


Bài tập cá nhân Luật so sánh

phạm đã được trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy còn khác nhau giữa các địa
phương, do đó đường lối xét xử không được thống nhất. Cần phải thống nhất
những án lệ ấy trong qui định chung sau đây để hướng dẫn các Tòa án trừng trị
một số tội phạm thông thường…”
Tại Thông tư số 19-VHS ngày 30-6-1955 của Bộ Tư pháp về việc áp dụng
luật lệ, có nêu: “ Nếu chỉ có luật hình sự cũ, chưa có sắc lệnh mới, mà xét thấy
cần trừng phạt, thì cũng không viện dẫn luật hình sự cũ, Tòa án sẽ căn cứ vào
đường lối truy tố xét xử, vào các yêu cầu chung và cụ thể đối với từng sự việc,

vào án lệ”
Tại Chỉ thị số 772-TATC, ngày 10-7-1959 của Tòa án nhân dân Tối cao về
vấn đề đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc, phong kiến, đã nêu: “Để xét
xử các cụ án hình sự và dân sự, cần áp dụng luật pháp của nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa đã ban hành từ trước đến giờ, đường lối, chính sách của Đảng và
Chính phủ, án lệ của các Tòa án, của Tòa án Tối cao”.
Thông tư số 92-TC ngày 11-11-1959 của Bộ Tư pháp-TANDTC, giải thích
và quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của các TAND phúc thẩm Hà Nội,
Hải Phòng và Vinh, chỉ rõ: “ TAND phúc thẩm chỉ đạo công việc xét xử của các
TAND cấp dưới thông qua án lệ của mình”
Tập san Tư pháp (nay là Tạp chí TAND) số 3 năm 1964, trong mục “Thuật
ngữ luật học” có giải thích: “Án lệ là một danh từ cũa đã được dùng từ thời
Pháp thuộc. Án lệ là những qui tắc do các Tòa án trong khi vận dụng pháp luật
để xét xử các vụ án cụ thể, đã hình thành dần dần bằng cách hiểu và có thái độ
giải quyết giống nhau một số điểm pháp lý, áp dụng luật một cách giống nhau
trong nhiều vụ án”.7
Từ việc sử dụng khái niệm “án lệ” như đã nêu trên, có thể thấy trước năm
1960, từ án lệ đã tồn tại và được sử dụng trong các văn bản pháp lý chính thức,
công khai trên các tạp chí chuyên ngành. Đường lối xét xử của Tòa án về những
7

/>18


Bài tập cá nhân Luật so sánh

vụ việc cùng loại được tập hợp, phân tích, bình luận. Tuy nhiên, từ sau năm
1960, khái niệm án lệ không thấy được sử dụng, thay vào đó là thuật ngữ “ luật
lệ” được sử dụng nhiều .
Như vậy, với các minh chứng trên, có thể khẳng định rằng, trong suốt một

thời kỳ dài, Việt Nam đã từng có án lệ và công nhận án lệ là một nguồn của
páhp luật. Nhưng từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra đời, thì án lệ không được xem là một nguồn trong hệ
thống pháp luật của Việt Nam, vì lúc này khẳng định, chỉ có lập pháp mới làm
luật, và văn bản quy phạm pháp luật được thừa nhận là nguồn duy nhất của
pháp.

1.2

Thời kì sau năm 1975 sự biến động về vị trí của án lệ trong hệ thống nguồn
của pháp luật Việt Nam
Sau khi đất nước thống nhất, án lệ không được xem là một nguồn trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, án lệ đã từng có thời kì bị lãng quên hoàn toàn, sau
đó là quá trình dần quay lại và được thừa nhận như một nguồn pháp luật chính
thức được nghiên cứu xây dựng và phát triển.
Khi tìm hiểu khái niệm án lệ trong lịch sử pháp luật Việt Nam, người ta hầu
như không thấy từ án lệ được sử dụng trong lịch sử pháp luật thời kỳ phong
kiến. Thời kỳ thực dân pháp đặt ách đô hộ ở Việt Nam từ năm 1858 đến 1945,
án lệ chủ yếu được sử dụng trong đào tạo, giảng dạy luật tại Miền nam Việt
Nam. Án lệ đã được áp dụng bởi hệ thống Tòa án của thực dân Pháp tại Việt
Nam và Tòa án của chế độ Ngụy quyền ở Miền nam Việt Nam.
Từ sau năm 1975 đến trước năm 2006, khái niệm án lệ hầu như không được
sử dụng chính thức trong các sách, báo pháp lý mà chỉ được bàn luận mang tính
chất nghiên cứu học thuật.
19


Bài tập cá nhân Luật so sánh

Theo một nghiên cứu mới đây tại Việt Nam, khái niệm “án lệ” được hiểu:

“là chế độ trong đó Thẩm phán tiến hành xét xử không mâu thuẫn với quan
điểm pháp lý được thể hiện trong phần xét xử của Tòa án cấp cao nhất của một
nước, đối với các vụ án tương tự” (Nghiên cứu chung Việt-Nhật về phát triển án
lệ tại Việt Nam- Nhà xuất bản Thanh niên, năm 2008).
Khái niệm án lệ tiếp tục được sử dụng chính thức tại Nghị quyết số 49NQ/TW như sau: “TANDTC có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng
dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”.
Việc nghiên cứu và tiến tới sử dụng án lệ, nhằm tạo sự thống nhất trong
công tác xét xử giữa các cấp Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật để xét xử,
bảo đảm sự thống nhất của các bản án, quyết định của Tòa án.
Từ năm 2004, Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) nước ta đã thường xuyên
chọn lọc và công bố các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán
TANDTC. Đây là điều kiện tiền đề cho việc thừa nhận án lệ ở Việt Nam. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa, với tư cách là một thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), Việt Nam cần phải tuân thủ các nguyên tắc về minh bạch hoá,
trong đó yêu cầu các toà án cần phải công bố công khai các bản án của mình.
Đề án “Phát triển triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao” (ban hành theo
Quyết định 74/QĐ-TANDTC ngày 31/10/2012), mục tiêu phát triển án lệ của
TAND Tối cao nhằm nâng cao chất lượng bản án, quyết định của ngành Tòa án
nói chung, đặc biệt là Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán
TAND Tối cao và các Tòa chuyên trách TAND Tối cao, góp phần đảm bảo việc
áp dụng pháp luật đúng, thống nhất, từ đó đảm bảo sự bình đẳng của mọi tổ
chức và công dân trước pháp luật. Đề án cũng xác định quan điểm chỉ đạo, để
hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét
xử. Nâng cao trách nhiệm của thẩm phán trong công tác xét xử tại phiên tòa
cũng như tăng cường việc bồi dưỡng, đào tạo các chức danh tư pháp, bảo đảm
20


Bài tập cá nhân Luật so sánh


các yêu cầu của cải cách tư pháp và đề ra một số giải pháp phát triển án lệ của
TAND Tối cao, như kiến nghị xây dựng các văn bản qui phạm pháp luật là cơ
sở pháp lý cho việc phát triển án lệ, thiệt lập án lệ của TAND Tối cao, cải tiến
cách viết và thông qua các bản án, quyết định của tòa án, đặc biệt là Quyết định
Giám đốc thẩm của TAND Tối cao, tăng cường việc sử dụng án lệ trong thực
tiễn xét xử, thành lập bộ phận chuyên trách để tuyển tập án lệ. Không ai phủ
nhận được vai trò của án lệ trong thực tiễn xét xử vì thực tiễn cho thấy không hệ
thống pháp luật nào có thể bao trùm hết mọi tình huống xã hội, nên dùng án lệ
bổ sung cho quy định pháp luật là cần thiết.
Đến nay Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghi
quyết 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ. Để
lựa chọn ra những vụ án trở thành án lệ, và chính thức đưa án lệ vào sử dụng là
một nguồn luật chính thức cho pháp luật Việt Nam.
2.

Kinh nghiệm cần thiết cho việc phát triển án lệ ở Việt Nam
Ở nước ta, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) - cơ
quan có thẩm quyền xét xử cao nhất lại tập trung thực hiện chức năng sửa sai
cho các tòa dưới là chủ yếu, trong khi hoạt động giải thích pháp luật tạo ra án lệ
tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật thống nhất vẫn chưa chú trọng đúng
mức. Tuy nhiên, theo xu hướng chung tòa tối cao ở các nước thuộc hệ thống
dân luật như Pháp, Đức... tập trung vào thực hiện nhiệm vụ thứ hai nhiều hơn.
Việc sử dụng nguồn luật án lệ đã trở thành một yêu cầu tất yếu đối với mọi hệ
thống tòa án ở các nước trên thế giới. Theo tôi, để tiến tới sử dụng án lệ ở Việt
Nam thì cần thực hiện một số yêu cầu sau:
Thứ nhất, cần nâng cao chất lượng quan điểm pháp lý của các thẩm phán.
Theo chúng tôi, để có thể bảo đảm được chất lượng và uy tín của quan điểm
pháp lý của các thẩm phán cần phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản sau:

21



Bài tập cá nhân Luật so sánh
-

Nâng cao trình độ của thẩm phán. Việc xây dựng và sử dụng án lệ luôn đặt vai
trò của thẩm phán lên hàng đầu vì họ là người trực tiếp xây dựng và sử dụng án
lệ. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay số lượng các thẩm phán chưa nhiều, trình độ
chuyên môn còn hạn chế. Đây là thực tế mà không ít lần những người đứng đầu
ngành tư pháp đã phát biểu công khai và thừa nhận. Vì vậy, đây sẽ là một trở
ngại vô cùng lớn cho việc chấp nhận sử dụng án lệ. Vì vậy, cần bồi dưỡng nâng
cao trình độ nói chung và chuyên sâu về án lệ cho thẩm phán.

-

Cần phải bảo đảm yếu tố tranh luận và sự đa dạng về lý lẽ khi đưa ra lập luận
pháp lý của các thẩm phán. Một trong những phương tiện quan trọng để đảm
bảo tính hợp lý cho lý lẽ của các thẩm phán khi đưa ra phán quyết là yếu tố
tranh luận và độc lập đưa ra lý lẽ của mỗi thẩm phán. Tất cả các lập luận, quan
điểm pháp lý của các thẩm phán trong hội đồng xét xử đều được ghi lại trong
bản án. Cần tránh tình trạng các thẩm phán trong hội đồng xét xử đưa ra lý lẽ thì
ít mà tính thống nhất lại cao. Nếu không bảo đảm yêu cầu này có thể dẫn đến
tình trạng các phán quyết của tòa án mang tính chủ quan, cảm tính hoặc một
chiều.

-

Cần phải mở rộng nguồn tài liệu là cơ sở đưa ra các lập luận hay lý lẽ thể hiện
các quyết định, bản án của toà án. Hiện nay, khi đọc các quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng thẩmphán TANDTC, chúng tôi thấy rằng cơ sở để đưa ra

các quan điểm pháp lý trong phần "xét thấy” của quyết định của các thẩm phán
còn hết sức nghèo nàn, ngắn gọn và còn lệ thuộc nhiều vào các văn bản quy
phạm pháp luật. Trong một số truờng hợp, nghĩa là nếu sử dụng các văn bản
pháp luật thành văn hiện hành thì không thể giải quyết được vấn đề. Vì vậy, các
thẩm phán cần phải có nguồn cứ liệu phong phú và đa dạng hơn như: tập quán,
những quy định của pháp luật đã qua, học thuyết pháp lý, nguyên tắc pháp lý,
bài bình luận khoa học, v.v... Nói chung là cần sử dụng bất cứ nguồn gì để có
thể thuyết phục rằng quan điểm pháp lý của các thẩm phán là hợp lý. Vì vậy,
nên cải cách phần "xét thấy” trong quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng
22


Bài tập cá nhân Luật so sánh

thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao về nội dung lân hình thức. Các thẩm phán
có thể dân chiếu hoặc trích dân nhiều nguồn khác nhau và ghi vào trong các
quyết định của toà án
-

Những lập luận của các thẩm phán cần phải được đưa cộng đồng pháp lý cũng
như thực tiễn pháp lý để kiểm nghiệm và bổ sung. Cần phải nhìn nhận các quan
điểm pháp lý tồn tại trong án lệ dưới góc độ "mở” và trong tương quan với điều
kiện kinh tế - xã hội luôn vận động. Điều này có nghĩa rằng các quan điểm pháp
lý của các án lệ thường xuyên phải được kiểm nghiệm bổ sung và loại bỏ, dĩ
nhiên nó cũng cần có tính ổn định tương đối của riêng nó. Thẩm phán ở các
nước thuộc hệ thống thông luật vừa là người làm công việc thực tiễn pháp lý
vừa là nhà khoa học pháp lý, vì vậy chính các thẩm phán là người tham gia vào
các hoạt động khoa pháp lý rất tích cực. Ở Việt Nam hiện nay, vân chưa kết nối
tốt được giữa hoạt động thực tiễn pháp lý và hoạt động khoa học pháp lý, các
thẩm phán vân còn ít tham gia vào các hoạt động khoa học, công việc khoa học

pháp lý vân thuần túy dành cho các nhà khoa học. Vì vậy, trong điều kiện hiện
nay việc khuyến khích và tạo điều kiện cho hoạt động sưu tầm và bình luận án
đối với các nhà khoa học pháp lý, các luật sư và đặc biệt là các thẩm phán là
một việc làm cần thiết và quan trọng để nâng cao chất lượng của nguồn luật án
lệ.
Thứ hai, để sử dụng án lệ có hiệu quả thì việc công bố bản án là việc làm
không thể không nhắc đến. Công bố bản án sẽ góp phần bảo đảm tính minh
bạch của pháp luật và có ý nghĩa quan trọng cho cả các thẩm phán lân người
dân. Khi có các tập bản án sẽ tạo điều kiện cho các thẩm phán áp dụng pháp luật
thống nhất, còn người dân có thể hiểu biết các quy định của pháp luật rõ ràng
hơn và góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, để có thể phát
huy được vai trò và phát huy hiệu quả của án lệ thì cần phải chọn lọc lại các
quyết định giám đốc thẩm trước khi phát hành, chỉ các quyết định liên quan đến
vấn đề pháp lý, không nên đăng tải các quyết định liên quan đến vấn đề sự kiện.
23


Bài tập cá nhân Luật so sánh

Trong thời gian qua, mặc dù Tòa án Tối cao cho phát hành các tập quyết định
giám đốc thẩm nhưng trong đó không phải phán quyết nào cũng có thế được coi
là án lệ. Bởi vì án lệ chỉ được hình thành khi có một quan điểm pháp lý mới đối
với vấn đề mà nguồn văn bản quy phạm chưa quy định hoặc quy định chưa rõ
ràng. Trong truờng hợp TAND TC sửa sai cho tòa án cấp dưới thì các phán
quyết này không phải là án lệ. Việc chọn lọc sẽ giúp cho các thẩm phán, luật sư,
nhà khoa học pháp lý dễ dàng nắm bắt nội dung của các bản án hơn và cũng góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ở Pháp việc biên tập lại các bản án được
giao cho các cơ sở khoa học, theo đó hàng quý Tòa án Tối cao sẽ gửi các phán
quyết cho các trung tâm được xác định về từng lĩnh vực pháp luật tương ứng để
thực hiện nhiệm vụ này. Đây có thể là một kinh nghiệm tốt cho Việt Nam.8


KẾT BÀI
Xu hướng lan rộng và phát triển của án lệ trong hệ thống pháp luật một số
nước thuộc dòng họ Civil law cho thấy: mặc dù không có truyền thống pháp
luật phát triển dựa trên cơ sở các án lệ là nguồn luật cơ bản như hệ thống pháp
luật các nước trong dòng họ pháp luật Comon Law, nhưng án lệ đã trở thành xu
hướng phát triển của một số hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law, là một
bộ phận không thể thiếu trong pháp luật của những nước này, Sự phát triển của
án lệ ở các nước Civil Law là biểu hiện của xu thể hội tụ của Common Law và
Civil Law.

8. />
24


Bài tập cá nhân Luật so sánh

25


×