Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Những thế mạnh về nuôi trồng thủy sản ở cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.8 KB, 16 trang )

1. Những thế mạnh về nuôi trồng thủy sản ở cà mau
a. Về điều kiện tự nhiên
Cà Mau có ba mặt giáp biển cùng chiều dài bờ biển là 254km, bao bọc từ tây
sang đông, Cà Mau có diện tích mặt nước trải rộng từ các bãi bồi ven biển đến các
khu rừng ngập nước.
Là một trong bốn ngư trường trọng điểm của cả nước, ngư trường Cà Mau
có trữ lượng lớn và đa dạng các nguồn hải sản có giá trị kinh tế cao như: tôm, cua,
mực, cá chai, cá mú… Với 660 loài, 319 giống thuộc 38 họ, trong đó 175 loài
thuộc 116 giống và 77 họ đã được định danh.

Cà Mau có diện tích mặt nước trải rộng từ các bãi bồi ven biển đến các khu
rừng ngập nước. đánh bắt ven biển cũng rất thuận lợi, gồm các loài nhuyễn thể và
các loài hai mảnh vỏ như: nghêu, sò huyết; các loại tôm, cua, cá nước mặn có giá
trị cao trong tiêu dùng và xuất khẩu.

1


Cà Mau có nhiều thế mạnh về nuôi trồng thủy sản với gần 296.000 ha nuôi
trồng thủy sản
Có sự đa dạng loại hình nuôi như: quảng canh, quảng canh cải tiến, tôm công
nghiệp.
Trên địa bàn tỉnh hiện có 28 công ty với 38 xí nghiệp trực thuộc hoạt động
trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu thủy sản. Những chứng nhận trên đã mang lại
hiệu quả cho người dân tham gia thực hiện dự án khi tôm nuôi được chứng nhận có
giá trị cao hơn thị trường từ 10-20%. Doanh nghiệp tiếp cận được thị trường sinh
thái, có thương hiệu mạnh, phát triển bền vững hơn khi các sản phẩm tôm sinh thái
được chứng nhận tiếp cận thị trường khó tính.

Qua kết quả đo đạc và phân tích mẫu nước trên các tuyến sông chính phục vụ
cho nuôi trồng và sản xuất giống thủy sản mới đây, Chi cục Nuôi trồng thủy sản


tỉnh Cà Mau nhận định: Các yếu tố môi trường nước tương đối thuận lợi cho việc
sản xuất, thả giống và phát triển của thủy sản nuôi.
2


Mẫu quan trắc môi trường đợt 5 năm 2015 được lấy tại 16 điểm thuộc 4 huyện tập
trung cho nuôi trồng và sản xuất giống trên địa bàn tỉnh gồm: Phú Tân, Năm Căn,
Ngọc Hiển và Đầm Dơi.
Nuôi trồng thủy sản ven biển, đặc biệt là nuôi tôm, đang phát triển nhanh
chóng và trở thành thế mạnh của tỉnh Cà Mau.Vùng biển Cà Mau còn có nhiều đảo,
cụm đảo ven bờ như: cụm đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, một số bãi cát
ven biển Đông của huyện Ngọc Hiển, bãi cát Khai Long… và ven biển là hệ sinh
thái rừng ngập mặn đa dạng. Đây là những điểm lý tưởng để tàu thuyền trú ẩn khi
có bão, gió lớn hoặc biển động. Những cụm đảo này cũng có thể phát triển thành
những trung tâm hậu cần nghề cá của tỉnh và khu vực.
Trong đó, nuôi trồng thủy sản chiếm gần 73% cơ cấu ngành thủy sản, đối
tượng chính là con tôm.
Tại Cà Mau, số lượng tôm nuôi chiếm 41% diện tích cả nước và 46% diện
tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu tôm của Cà
Mau đạt 871 triệu USD, chiếm tỷ trọng 36% giá trị xuất khẩu tôm cả nước. Năm
2012 đạt trên 789 triệu USD. Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh
này đạt hơn 1 tỷ USD, 5 tháng đầu năm 2014, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của
tỉnh Cà Mau đạt 470 triệu USD, tăng 33% về lượng và khoảng 60% về giá trị so
cùng kỳ năm 2013.Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Cà Mau,
hiện, diện tích nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh là vào khoảng trên 296 nghìn ha, tốc độ
tăng bình quân 1,54%/năm.
Tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên, những năm qua, tỉnh Cà Mau đã tập
trung phát triển ngành thủy sản trên cả 3 lĩnh vực là nuôi trồng, khai thác và chế
biến. Với sự quan tâm và đầu tư đúng mức, hiện nay, ngành thủy sản đã chiếm gần
32% tổng sản phẩm của địa phương này.

b. Điều kiện xã hội
Lực lượng lao động dồi dào
Phương tiện đánh bắt ngày càng được cải tiến và hiện đại

3


Thị trường trong và ngoài nước có nhu cầu lớn, có nhiều chính sách khuyến
khích.
Phát huy tiềm năng, lợi thế tự nhiên và quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền
và bà con nông ngư dân, trong những năm qua, thủy sản Cà Mau đã duy trì tốc độ
phát triển cao cả về sản lượng khai thác, giá trị sản xuất và tỷ trọng ngành trong cơ
cấu kinh tế của tỉnh. Chính quyền địa phương và những đoàn thể thường xuyên phổ
biến, nhân rộng những mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến năng suất cao, nuôi
tôm kết hợp với các loài thủy sản và nhuyễn thể khác, xây dựng vùng nuôi an toàn
để tăng hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. Từng bước mở rộng diện tích nuôi
thủy sản ở ven biển, đảo; tăng diện tích nuôi tôm công ngiệp ở nơi có điều kiện và
nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Theo định hướng phát triển của tỉnh Cà Mau đến năm 2020, diện tích nuôi
trồng thủy sản ổn định sẽ là vào 296 nghìn ha. Đồng thời, sản lượng nuôi trồng
thủy sản đến năm 2015 đạt 320 nghìn tấn, tăng trưởng sản lượng bình quân giai
đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 là 6,58%/năm. Hiện nay, hàng thủy sản xuất khẩu
của Cà Mau có mặt ở hơn 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Thị trường xuất
khẩu chính là: Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc, Australia.v.v…Với tốc độ tăng trưởng
nhanh, ổn định, liên tục dẫn đầu cả nước trên cả ba lĩnh vực là nuôi trồng, chế biến
và xuất khẩu, thủy sản của tỉnh Cà Mau ngày càng khẳng định vị thế ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh và là một ngành gây ấn tượng cho những nhà nghiên cứu kinh tế
trong và ngoài tỉnh.
Song song, ngành cũng đẩy mạnh công tác khuyến ngư, tập huấn kỹ thuật, quản lý
chặt chẽ môi trường nước ở các vùng nuôi thủy sản tập trung. Tăng cường kiểm tra,

hỗ trợ các cơ sở sản xuất kinh doanh giống thủy sản bảo đảm chất lượng, kiểm soát
chặt chẽ nguồn giống nhập vào tỉnh để hạn chế lây lan mầm bệnh. Triển khai nhanh
4


các dự án khu công nghiệp sản xuất giống thủy sản và các dự án phát triển nuôi
trồng thủy sản từ nguồn vốn hỗ trợ đầu tư của Trung ương.
Bên cạnh đó, tỉnh Cà Mau cũng đã quy hoạch đầu tư phát triển kinh tế các
cửa biển lớn giai đoạn 2011-2015 và hướng tới giai đoạn 2015-2020, đó là các cửa
biển lớn như Sông Đốc, Bồ Đề, Khánh Hội… sẽ là trung tâm kinh tế, chủ yếu là
kinh tế biển. Trước mắt, tỉnh Cà Mau sẽ đầu tư 1.000 tỷ đồng để phát triển thị trấn
Sông Đốc thuộc huyện Trần Văn Thời thành đô thị loại III vào năm 2015. Với
những kết quả đã đạt được và sự tập trung đầu tư trong thời gian qua, ngành thủy
sản đã thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của Cà Mau, góp phần chủ yếu
vào tốc độ tăng trưởng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy quá trình
phát triển tỉnh nhà tiến nhanh lên công nghiệp hóa - hiện đại hóa./…
- Ngành thủy sản cơ bản được công nghiệp hóa - hiện đại hoá và tiếp tục phát
triển toàn diện theo hướng bền vững, thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có cơ
cấu và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, có
thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập vững chắc vào kinh tế
thế giới. Đồng thời từng bước nâng cao trình độ dân trí, đời sống vật chất và tinh
thần của ngư dân, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và quốc phòng, an ninh vùng
biển, đảo của Tổ quốc.
- Kinh tế thủy sản đóng góp 30 - 35% GDP trong khối nông - lâm - ngư
nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 - 10%/năm. Kim ngạch xuất
khẩu thủy sản đạt 8 - 9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5 - 7 triệu tấn, trong
đó nuôi trồng chiếm 65 - 70% tổng sản lượng.
- Tạo việc làm cho 5,0 triệu lao động nghề cá có thu nhập bình quân đầu
người cao gấp 3 lần so với hiện nay; trên 40% tổng số lao động nghề cá qua đào
tạo. Xây dựng các làng cá ven biển, hải đảo thành các cộng đồng dân cư giàu

truyền thống tương thân, tương ái, có đời sống văn hóa tinh thần đậm đà bản sắc
riêng.
2. Phân tích những chính sách của tỉnh và nhà nước để phát triển những thế
mạnh đó.
Vừa qua, thực hiện Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ về
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, ngành ngân hàng đã
có nhiều giải pháp cụ thể nhằm “cứu” doanh nghiệp. Trong đó, đáng chú ý nhất là
chương trình “Kết nối ngân hàng - doanh nghiệp” được triển khai khá hiệu quả tại
tỉnh này. Từ chương trình này, ở Cà Mau đã phần nào thoát cảnh ngân hàng thì
thừa vốn mà doanh nghiệp lại “đói” vốn.
5


Cần mạnh tay củng cố hệ thống quản lý chất lượng tôm giống; tạo sự liên
hoàn, chuỗi quản lý; phát huy tối đa nội lực trong công tác này. Tăng cường chỉ đạo
trong công tác phối hợp giữa các lực lượng, đặc biệt là rà soát ngành NN&PTNT từ
cấp cơ sở, cụ thể là lực lượng cán bộ khuyến nông - khuyến ngư, lực lượng cán bộ
thú y…; sắp xếp, phân giao địa bàn một cách cụ thể; kết hợp chặt chẽ và hiệu quả
hơn nữa với chính quyền địa phương. Tăng cường tốt và hiệu quả các hoạt động
quản lý chuyên ngành, quản lý các yếu tố đầu vào: Thuốc thú y, giống thủy sản…;
khi có dịch bệnh thì kiên quyết xử lý, không được nhân nhượng, tránh xử lý không
triệt để khiến dịch bệnh bùng phát. Tăng cường hơn nữa công tác đào tạo, tập huấn
khuyến nông - khuyến ngư; hoàn thành các tài liệu tuyên truyền.
Cùng với các giải pháp trên, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Châu Công Bằng
tâm huyết: “Đẩy mạnh và phát huy tối đa loại hình tập huấn tại hiện trường bằng
hình thức liên kết, “một mô hình nhiều người biết, còn hơn là nhiều mô hình mà
không ai biết áp dụng”. Tập huấn gắn với mô hình cụ thể, từ đó làm nền tảng xây
dựng những mô hình bền vững, mô hình ngay trong vùng dịch, từ đó làm cơ sở để
nhân rộng. Quan tâm nghiên cứu, xem xét ứng dụng các mô hình mới: Công nghệ
tuần hoàn nước, mô hình nhà kính… tất cả vì mục tiêu phát triển ngành kinh tế

thủy sản mũi nhọn. Để tạo bước đột phá, ngoài công tác chỉ đạo các cấp bám sát cơ
sở, còn có những hình thức hoàn toàn mới sẽ mang lại hiệu quả thiết thực hơn
trước. Tổ chức họp giao ban thường xuyên ngay tại cơ sở, ngay những huyện trọng
điểm về nuôi trồng thủy sản: Tháng 4 sẽ tổ chức ở huyện Đầm Dơi, huyện Phú Tân
là tháng 5 và huyện Cái Nước là tháng 6. Cứ thế sẽ luân phiên họp giao ban tại các
địa phương này. Sẽ không “ngồi” ở huyện mà xuống tận mô hình của dân, cùng
nghe dân nói, cùng làm với dân, từ đó sẽ có biện pháp tháo gỡ kịp thời. Các hoạt
động khác cũng sẽ được duy trì: Phát triển mạng lưới hạ tầng giao thông nông thôn,
bám sát thị trường… từ đó làm cơ sở, căn cứ khuyến cáo cũng như hỗ trợ kịp thời
cho người dân”.
Phát biểu tại buổi sơ kết tình hình phát triển kinh tế - xã hội quý I - 2015, Chủ
tịch UBND tỉnh Phạm Thành Tươi cũng đặc biệt quan tâm đến công tác này: “Phát
triển kinh tế thủy sản của tỉnh phải gắn liền với công tác tái cơ cấu ngành nông
nghiệp. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng trong dân, ưu tiên phát triển diện
tích nuôi tôm quảng canh cải tiến, đẩy mạnh hình thức nuôi tôm sinh thái. Riêng
đối với nuôi tôm công nghiệp thì chỉ khuyến khích đối với những hộ có vốn và có
kinh nghiệm, không để tình trạng thất bại do nuôi đại trà như trước đây nữa”.
Để phát huy được thế mạnh của địa phương, Chi cục Nuôi trồng Thủy sản
tỉnh Cà Mau đã đề xuất nhiều giải pháp quan trọng, trong đó lấy quy hoạch làm
trọng tâm. Cụ thể, ngành sẽ rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển theo
hướng thành lập các cụm, vùng sản xuất giống tập trung, để hạn chế lây lan mầm
bệnh, nhằm nâng cao chất lượng tôm giống và hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
Trong đầu tư hệ thống thủy lợi góp phần phục vụ nuôi trồng thủy sản, tỉnh Cà Mau
6


cũng hướng đến cắt cụm, cắt từng vùng, khu vực để đầu tư và đưa vào sử dụng thay
vì đầu tư cả vùng, đòi hỏi nguồn vốn rất lớn.
Cà Mau là một trong những tỉnh có diện tích nuôi tôm lớn nhất vùng đồng
bằng sông Cửu Long nhưng sản lượng tôm còn khá thấp. Để tạo đột phá, năm

2014, Cà Mau tiếp tục giữ diện tích nuôi trồng thủy sản ở mức ổn định hơn 296.000
ha nhưng sẽ phát triển theo hướng tăng năng suất các loại hình nuôi để tăng thu
nhập, tăng mức sống của người dân. Trong đó, đẩy mạnh phát triển loại hình nuôi
tôm công nghiệp và quảng canh cải tiến góp phần tạo nguồn nguyên liệu ổn định
phục vụ ngành nghề chế biến thủy sản xuất khẩu của tỉnh . Hình thức nuôi tôm
quảng canh cải tiến là mô hình hiệu quả mang lại kinh tế cao, nuôi tôm thẻ chân
trắng thời gian thu hoạch ngắn, chi phí đầu tư thấp và kỹ thuật nuôi đơn giản hơn
so với nuôi tôm sú, năng suất đạt 600-650 kg/ha, thu nhập từ 70-120 triệu đồng/ha.
Đồng thời, đẩy mạnh phát triển các loại hình nuôi sinh thái, an toàn sinh học, theo
hướng VietGap để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cùng Đoàn công tác Chính
phủ đã đến thăm, làm việc tại tỉnh Cà Mau về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội năm 2014 và thực hiện kế hoạch năm 2015.
Thủ tướng nhấn mạnh đến vai trò hết sức quan trọng của nuôi trồng thủy sản,
là thế mạnh không nơi nào có được của tỉnh. Xem lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, đặc
biệt nuôi tôm là yếu tố then chốt trong định hướng phát triển kinh tế của tỉnh thời
gian tới.
Với lợi thế là tỉnh có tiềm năng về nuôi trồng, khai thác, đánh bắt, chế
biến thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm.Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu thời
gian tới, tỉnh: Tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ phục vụ trong nuôi trồng, ứng
dụng mạnh khoa học công nghệ vào nuôi trồng, sản xuất, chế biến, xuất khẩu gắn
với cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia. Thủ tướng cũng yêu
cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn nghiên cứu giống tôm có năng suất,
chất lượng cao, chủ động trong sản xuất thức ăn đến quy trình sản xuất và phòng
tránh dịch bệnh hiệu quả. Tập trung hoàn thiện quy hoạch vùng nuôi tôm nguyên
liệu, mở rộng diện tích nuôi tôm để chủ động nguồn nguyên liệu cung cấp cho nhà
máy chế biến xuất khẩu. Thu hút đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thủy sản với
quy mô công nghiệp. Yêu cầu Tập đoàn Điện lực sớm triển khai lưới điện 3 pha
trực tiếp phục vụ người dân nuôi trồng thủy sản theo quy mô công nghiệp. Tiến tới,
hình thành một chuỗi liên kết bền vững từ sản xuất con giống, nhà máy chế biến

thức ăn, người nuôi và doanh nghiệp chế biến xuất khẩu.
7


Về phía tỉnh Cà Mau, hiện nay đã có nhiều động thái tích cực nhằm vực dậy
tiềm năng này của tỉnh. Hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Cà Mau (CASEP) xác
định: Đối với những doanh nghiệp thủy sản mạnh: Công ty Cổ phần Tập đoàn thủy
sản Minh Phú, Công ty TNHH Kinh doanh - Chế biến thủy sản và Xuất nhập khẩu
Quốc Việt, Công ty Cổ phần Chế biến và Dịch vụ thủy sản Cà Mau, Công ty Chế
biến và Xuất nhập khẩu thủy sản Anh Khoa…, Hội sẽ phối hợp chặt chẽ với các
ngành chức năng, tỉnh Cà Mau đẩy mạnh phát triển một cách vững vàng hơn nữa;
đối với những doanh nghiệp khá thì tập trung xem xét quy trình và nhanh chóng
giúp doanh nghiệp này mạnh trong thời gian tới; xem xét khả năng phục hồi của
các doanh nghiệp này được không, bằng các biện pháp quyết liệt, nếu không thì
chấp nhận biện pháp giải thể các công ty yếu
Một nhiệm vụ trọng tâm nữa là tập trung giải quyết bài toán thiếu tôm
nguyên liệu, vì thực tế đã qua tình trạng này gây nhiều khó khăn cho ngành chế
biến thủy sản của Cà Mau. Một vùng nguyên liệu sạch và ổn định là hướng đến của
nhiều doanh nghiệp thủy sản hiện nay theo hướng “công nghệ sạch”; mạnh dạn đi
học hỏi công nghệ, mua công nghệ về mà sản xuất; giúp doanh nghiệp đưa sản
phẩm của mình vào các siêu thị danh tiếng và vào thẳng bàn ăn của mỗi gia đình.
Ông Đặng Quang Lan, Phó Tổng Thư ký CASEP tâm huyết: Muốn làm được điều
đó, cần phải có những khu “công nghệ cao”. Ở các khu này, sản phẩm làm ra phải
là sản phẩm sạch, dân phải làm được bằng những công nghệ đó. Thực tế đã qua,
tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn thường xuyên xảy ra, dân còn thiếu vốn nên
không làm được; ngân hàng thì nói “không” với đơn vay của doanh nghiệp thủy
sản. Tới đây, CASEP sẽ tác động đến Sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn và
các doanh nghiệp thủy sản đẩy mạnh hơn nữa liên kết vùng trong nuôi trồng thủy
sản. Cũng theo ông Đặng Quang Lan, đã qua cũng như hiện nay một số doanh
nghiệp làm tốt công tác liên kết vùng, đầu tư sản xuất nguồn nguyên liệu sạch phục

vụ cho xuất khẩu như Công ty Cổ phần Chế biến và Dịch vụ thủy sản Cà Mau tại
lâm ngư trường 184 (xã Tam Giang, huyện Năm Căn); mô hình tôm sinh thái của
Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú tại Nhưng Miên (xã Tam Giang
Đông, huyện Ngọc Hiển). Vấn đề quan trọng nữa là “nói không với tôm tạp chất”.
Sẽ quyết liệt bằng cách sử dụng tối đa vai trò quản lý nhà nước của liên ngành:
Công an, Thuế, Quản lý thị trường…
Cà Mau cũng là một trong những tỉnh chịu ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh
do diễn biến thất thường của thời tiết trong những tháng đầu năm. Tuy nhiên, với
sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Sở NN&PTNT tỉnh Cà Mau cùng với các đơn vị
8


quản lý đã giảm thiểu tối đa thiệt do dịch bệnh gây ra. Kết thúc năm 2014, sản
lượng xuất khẩu thủy sản toàn tỉnh đã đạt 132.622 tấn tăng 16% so với kế hoạch.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của tỉnh trong năm 2014 đạt 1,314 tỷ USD vượt
17% kế hoạch. Đây là một trong những tỉnh chiếm tỷ trọng xuất khẩu chủ yếu của
cả nước. Diện tích nuôi tôm đạt 267.642 ha, trong đó diện tích nuôi tôm công
nghiệp là 8.151 ha tăng 2.167 ha so với năm 2013, nuôi tôm quảng canh cái tiến
61.000 ha. Năm 2014, được đánh giá là một năm rất khả quan về lĩnh vực nuôi
trồng thủy sản của tỉnh Cà Mau nói riêng và cả nước nói chung.
Để tiếp tục phát huy những lợi thế của tỉnh về lĩnh vực nuôi trồng và khai thác
thủy sản, năm 2015, Sở NN&PTNT tỉnh Cà Mau phấn đấu đạt sản lượng thủy sản
trên 560.000 tấn, tăng 80.000 tấn so với năm 2014. Trong đó, sản lượng nuôi trồng
phấn đấu đạt 300.000 tấn, khai thác đạt 260.000 tấn. Năm 2015, Cà Mau phấn đấu
đạt tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,4 tỷ USD tăng 100 triệu USD so với năm
2014. Năm 2015 là năm đầu tiên của kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế - xã hội
(giai đoạn 2015 – 2020) của tỉnh, trong đó lĩnh vực nuôi trồng và khai thác thủy sản
đóng vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế của tỉnh nhà, nhằm góp phần tăng
trưởng GDP của toàn tỉnh. Chính vì vậy, trong thời gian tới tỉnh Cà Mau đặc biệt
chú trọng đến phát triển lĩnh vực thủy sản một cách bền vững và hiệu quả.

Sở NN&PTNT đã đề ra các giải pháp cần thực hiện trong năm 2015 như:
Triển khai điều chỉnh quy hoạch sản xuất theo hướng không mở rộng diện tích nuôi
tôm, giữ ổn định ở mức 290.000 ha như hiện nay. Bên cạnh đó, cần nhân rộng
những mô hình nuôi trồng hiệu quả như nuôi quảng canh cải tiến, nuôi tôm kết hợp
với trồng lúa, nuôi tôm công nghiệp với quy mô vừa và nhỏ, tỉnh khuyến cáo nông
dân không nên ồ ạt nuôi tôm thẻ chân trắng và nuôi công nghiệp quy mô lớn. Về
khai thác biển, tỉnh tập trung phương tiện để đánh bắt xa bờ, hạn chế tối đa đánh
bắt gần bờ; phát triển mạnh các loại dịch vụ hậu cần nghề cá trên biển, qua đó
nhằm giảm chi phí cho mỗi chuyến đi biển gắn với tăng thu nhập cho ngư dân.
Đồng thời, khẩn trương triển khai thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc hỗ
trợ vốn cho ngư dân đóng mới tàu đánh cá có công suất lớn. Ngoài ra cần tập trung
thu hút đầu tư về cơ sở hạ tầng, cơ sở sản xuất và chế biết đạt chuẩn vơi quy mô
sản xuất tập trung công nghiệp, nhằm góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm thủy
sản Cà Mau khi xuất khẩu ra nước ngoài.
Năm 2014 sản xuất nuôi tôm nước lợ vẫn còn gặp nhiều khó khăn bất lợi do
thời tiết diễn biến bất thường trong cả nước; dịch bệnh thủy sản diễn biến rất phức
tạp, mặc dù nguyên nhân bệnh hoại tử gan tụycấp trên tôm nuôi đã được xác định
nhưng dịch bệnh vẫn xảy ra, gây thiệt hại cho người nuôi ở nhiều địa phương; chất
lượng các yếu tố đầu vào giảm sút, giá thức ăn và giống tôm tăng cao hơn mức tăng
9


giá bán tôm nguyên liệu; Doanh nghiệp và người nuôi thiếu vốn sản xuất và bị
hạnh chế trong việc tiếp cận vốn vay ưu đãi từ ngân hàng. Song với sự vào cuộc chỉ
đạo quyết liệt của Bộ NN&PTNT cùng các ngành các cấp, sự lao động cần cù sáng
tạo của bà con ngư dân, vụ nuôi tôm nước lợ năm 2014 đã đạt kết quả cao và là lĩnh
vực đóng góp rất quan trọng trong tỷ trọng giá trị xuất khẩu của toàn ngành Nông
nghiệp.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Cao Đức Phát đã đánh giá cao kết quả
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nuôi tôm nước lợ theo kế hoạch năm 2014 đã đề

ra.Với sự tăng trưởng cao kỷ lục khoảng 22% về sản lượng được cho là cao nhất từ
trước đến nay, con tôm được xem là đối tượng xuất khẩu chủ lực của ngành Thủy
sản nói chung cũng như toàn ngành Nông nghiệp nói riêng.
Để tiếp tục thực hiện thắng lợi vụ nuôi tôm nước lợ năm 2015, Bộ trưởng Cao
Đức Phát yêu cầu Tổng cục Thủy sản phải cần tập trung sớm hoàn thiện quy hoạch
vùng nuôi tôm phù hợp với đề án tái cơ cấu ngành và điều kiện của từng địa
phương để đưa lĩnhvực nuôi tôm phát triển một cách bền vững. Trong thời gian tới,
yêu cầu Tổng cục Thủy sản, các đơn vị quản lý phối hợp với UBND, Sở Nông
Nghiệp, Chi cục Thủy sản, Chi cục Thú Y… của các địa phương thực hiện tốt các
nhiệm vụ sau:
Về công tác phòng chống dịch bệnh: Cần sắp xếp lại cơ quan quản lý về dịch
bệnh một cách hiệu quả, nhân sự phải đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn
trong lĩnh vực thủy sản. Các địa phương phải xây dựng kế hoạch phòng chống dịch
bệnh rõ ràng. Xây dựng hệ thống quan trắc môi trường đồng bộ, thường xuyên theo
dõi nắm bắt kịp thời tình hình biến đổi khí hậu.
Về quản lý con giống:Cần chủ động phối hợp với các đơn vị nghiên cứu, các
chuyên gia đầu ngành, các doanh nghiệp, tiếp cận khoa học kỹ thuật để nhân rộng
nguồn tôm giống bố mẹ trong nước. Hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn tôm giống từ
nước ngoài. Ngoài ra, cần kiểm soát tốt chất lượng tôm giống, truy xuất được
nguồn gốc, từ đó hạn chế dịch bệnh.
Quản lý thức ăn, yếu tố đầu vào: Kiểm soát chặt chẽ nguồn thức ăn và thuốc.
Nghiêm cấm sử dụng thuốc ngoài danh mục, xử lý quyết liệt những trường hợp vi
phạm trong sản xuất sử dụng thức ăn và thuốc bảo vệ không đảm bảo chất lượng.
Về cơ sở hạ tầng: Trong thời gian tới cần bố trí nguồnvốn để xây dựng hệ
thống thủy lợi, cơ sở hạ tầng đồng phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Xây dựng vùng
nuôi công nghiệp theo hướng phát triển bền vững, tạo công ăn việc làm cho người
dân.

10



Về phương thức nuôi: Xác định mô hình nuôi tôm phù hợp và nuôi tôm theo
các mô hình đạt chứng nhận, chuyển dịch diện tích nuôi tôm sú sang tôm chân
trắng một cách phù hợp.
Về thị trường xuất khẩu:Tiếp tục nghiên cứu và phát triển thị trường xuất
khẩu, tháo gỡ những rào cản thương mại, giữ vững vị thế đối với các thị trường
truyền thống. Nâng cao giá trị gia tăng cho các mặt hàng xuất khẩu, đa dạng hóa
các mặt hàng nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng. Giám sát phát hiện và xử lý
kịp thời các mặt hàng kém chất lượng. Nghiên cứu về diễn biến thị trường, quy luật
cung cầu để có chiến lượng phát triển phù hợp.
Năm 2015, ngành thủy sản tập trung triển khai các nhiệm vụ theo định hướng,
mục tiêu, nội dung của Chiến lược Phát triển ngành Thủy sản đến năm 2020; Quy
hoạch tổng thể thủy sản đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Đề án tái cơ
cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững,
cùng toàn ngành NN&PTNT thực hiện chủ đề “Năm vệ sinh an toàn thực phẩm
nông nghiệp”.
Bộ trưởng Cao Đức Phát nhấn mạnh, mục tiêu của ngành thủy sản là hiện đại
hóa nâng cao hiệu quả và tính bền vững cả trong nuôi trồng và khai thác thủy sản,
thông qua việc thực hiện mạnh mẽ tái cơ cấu ngành gắn với nông thôn mới, nâng
cao thu nhập cho nông dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Bộ trưởng đề nghị Tổng cục Thủy sản trong năm 2015 cần tập trung vào các
vấn đề chính: Giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành (tháo gỡ những vướng
mắc về thị trường, dịch bệnh…); quản lý chặt chẽ chất lượng giống thủy sản, vật tư
đầu vào, thuốc thú y thủy sản; kiểm soát quyết liệt ATVSTP; tăng cường năng lực
của hệ thống kiểm ngư…
Đồng thời nhấn mạnh, cần xác định rõ đâu là vấn đề nền tảng trong thủy sản
và đâu là vấn đề đối phó với tình huống - biện pháp dài hạn và trước mắt. Tất
nhiên, hai vấn đề này có đan xen với nhau. Ví dụ như trong nuôi trồng, vừa chống
dịch, dập dịch đồng thời xây dựng hệ thống thú y thủy sản là nền tảng chống dịch.

Và để xây dựng nền tảng cho thủy sản, đầu tiên chúng ta phải tìm và soát lại cách
tiếp cận, cần đúng và trúng vấn đề. Ngoài ra, một số vấn đề đáng quan tâm nữa là
điều chỉnh cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống tổ chức sản xuất, đào tạo nguồn nhân
lực…
-Nhà nước có nhiều chính sách khuyến khích phát triển, nhân dân có kinh
nghiệm nuôi trồng và đánh bắt. Các phương tiện đánh bắt được trang bị tốt hơn; các
dịch vụ thuỷ sản và CN chế biến cũng phát triển mạnh.
11


-Thị trường tiêu thụ được mở rộng trong và ngoài nước.
- Đối với vùng nước ngọt:
Ổn định diện tích nuôi các loài cá truyền thống trên các vùng nông thôn,
miền núi, vùng sâu, vùng xa để tăng nguồn thực phẩm, tạo việc làm, tăng thu nhập
cho các hộ gia đình nông dân, đồng bào miền núi, góp phần thiết thực xóa đói giảm
nghèo.
Không ngừng đổi mới cơ cấu, nâng cao chất lượng các đối tượng nuôi, các
giống thủy đặc sản (lươn, ếch, baba, tôm càng xanh, cá chình, rô phi, …) và các
giống thủy sản mới (cá nước lạnh, cá cảnh …) phục vụ xuất khẩu, du lịch và thị
trường nội địa.
Tập trung triển khai áp dụng tiêu chuẩn GAP đối với sản xuất cá tra công
nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long.
- Đối với vùng nước lợ:
Tiếp tục phát triển mạnh nuôi trồng các đối tượng thủy sản tạo sản phẩm chủ
lực theo nhu cầu của thị trường, phù hợp với điều kiện của từng vùng sinh thái
phục vụ xuất khẩu.
Hình thành các vùng nuôi công nghiệp tập trung có quy mô diện tích lớn
theo tiêu chuẩn GAP phù hợp với từng thị trường, tạo sản lượng hàng hóa lớn phục
vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước ở các khu vực đồng bằng sông Hồng, ven biển
miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long, gắn với truy xuất nguồn gốc, xây dựng

thương hiệu thủy sản uy tín, chất lượng cao.
Duy trì, phát triển các hình thức nuôi hữu cơ (nuôi sinh thái), nuôi quảng
canh cải tiến ở các vùng bãi bồi, đầm phá, rừng ngập mặn để vừa tạo sản phẩm xuất
khẩu chất lượng cao, vừa bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi thủy sản.
- Đối với nuôi nước mặn:
Phát triển nuôi biển thành một lĩnh vực sản xuất quy mô công nghiệp tạo
khối lượng sản phẩm lớn phục vụ xuất khẩu, du lịch và tiêu thụ nội địa.
Áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, công nghệ cao vào
sản xuất giống, tập trung nguồn lực để tạo nguồn giống sạch bệnh, trước hết đối với
tôm sú, tôm chân trắng và cá tra.
Tăng cường quản lý nhà nước để quản lý nghiêm ngặt chất lượng con giống,
hệ thống sản xuất, lưu thông, tiêu thụ giống thủy sản.

12


Chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy sản: Rà soát lại quy hoạch các nhà
máy chế biến thủy sản xuất khẩu, gắn kết chặt chẽ các cơ sở chế biến với
vùng sản xuất nguyên liệu và cơ sở dịch vụ hậu cần (các cảng cá, bến cá).
Đẩy mạnh phát triển theo chiều sâu và đa dạng hóa sản phẩm chế biến, tăng
tỷ lệ giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm thủy sản.
Giữ vững thị phần trên các thị trường lớn (EU, Nhật, Hoa Kỳ, Nga…), đồng
thời không ngừng mở rộng thị trường để tăng thị phần trên các thị trường tiềm năng
khác (Trung Quốc, Hàn Quốc, Trung Đông, Canada, Úc, các nước Đông Âu, Trung
Mỹ và Nam Mỹ,…). Bên cạnh đó, củng cố và phát triển chế biến thủy sản nội địa,
mở rộng thị trường trong nước trên cơ sở đa dạng hóa các sản phẩm để phù hợp với
thị hiếu tiêu dùng của người Việt Nam.
Tổ chức lại sản xuất, xây dựng mối quan hệ liên kết, chia sẻ lợi ích giữa các
doanh nghiệp, người sản xuất, nhà khoa học nhằm tạo môi trường thuận lợi nâng
cao hiệu quả sản xuất. Đặc biệt chú trọng việc quy hoạch, tổ chức lại các cơ sở chế

biến thức ăn, chế phẩm sinh học, thuốc thú y phục vụ nuôi trồng thủy sản, đảm bảo
chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các công đoạn
trong chuỗi giá trị của quá trình sản xuất thủy sản, đồng thời tạo sự công bằng giữa
các thành phần kinh tế và giữa các lực lượng lao động tham gia sản xuất thủy sản.
Cơ khí đóng sửa tàu thuyền và dịch vụ hậu cần nghề cá:
Tập trung đầu tư củng cố phát triển đồng bộ công nghiệp cơ khí, đóng, sửa
tàu cá; sản xuất phụ trợ gắn với xây dựng cơ sở hạ tầng dịch vụ hậu cần phục vụ
khai thác, nuôi trồng và chế biến thủy sản.
Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần đồng bộ trên biển,
các vùng hải đảo
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất vỏ tàu, máy tàu,
ngư cụ; thiết bị thông tin, các công cụ, thiết bị phục vụ nuôi trồng, chế biến và dịch
vụ nghề cá.
Phát triển nuôi công nghiệp ở những khu vực có điều kiện thuận lợi, đồng
thời phát huy nghề cá nước ngọt, nước lợ truyền thống. Duy trì, ổn định quy mô
diện tích nuôi nước ngọt, nước lợ.
Phát huy lợi thế vùng đồng bằng, vùng bãi bồi để xây dựng các mô hình nuôi
hữu cơ (nuôi sinh thái). Kết hợp mô hình nuôi theo hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác
xã với mô hình nuôi quy mô trang trại. Đầu tư để củng cố duy trì, phát triển vùng
chuyên canh trồng rau câu và phát triển nghề nuôi thủy sinh vật cảnh, đặc biệt cá
cảnh biển gắn với du lịch và xuất khẩu.

13


Đối tượng nuôi trồng chính của vùng là các loài cá nước ngọt truyền thống,
thủy đặc sản nước ngọt, cá rô phi, nhuyễn thể, tôm biển, rong biển, cua biển, cá
biển, …
Xây dựng, phát triển các khu bảo tồn biển và nội địa.
Xây dựng các mô hình khai thác, dịch vụ hậu cần khai thác, dịch vụ công ích

phù hợp với các ngư trường xa bờ.
Xây dựng, phát triển các khu bảo tồn biển và nội địa để bảo vệ, tái tạo, phát
triển nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường các hệ sinh thái thủy sinh.
Từ đó, đưa ra nhiều giải pháp áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế cho doanh
nghiệp trong tỉnh như rà soát điều chỉnh quy hoạch lại vùng nuôi; hỗ trợ đầu tư cơ
sở hạ tầng; khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp; hỗ trợ xây dựng các
vùng nuôi theo tiêu chuẩn quốc tế; đẩy mạnh công tác tuyên truyền.
Trước mắt, để mở rộng thị trường, các doanh nghiệp cần xây dựng nhiều
chứng nhận khác nhau, nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá trị thương hiệu
sản phẩm; tăng tính cạnh tranh; quảng bá thương hiệu….
3. Kiến nghị đề xuất.
- Cần tăng cường công tác quản lý.
- Mở nhiều lớp tập huấn kỹ thuật cho người dân
- Cần quản lý vấn đề khai thác một cách triệt để cấm sử dụng điện làm
phương tiện đánh bắt.
- Các ngành có liên quan cần thoáng hơn nữa trong cơ chế, ngành Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn cần linh hoạt hơn khi tiếp nhận các dự án đầu tư
phát triển tôm sinh thái Cà Mau
- Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các tổ chức tín dụng nới lỏng cơ chế hơn
nữa…
- Do sớm tiếp cận với cơ chế thị trường nên Thuỷ sản Việt Nam đã chủ động
tạo cho mình những hành trang cần thiết để từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Tuy nhiên khó khăn thách thức đang còn rất nhiều ở phía trước đòi hỏi toàn thể lao
động nghề cá từ các nhà quản lý đến nhà nghiên cứu khoa học, nông ngư dân và
các doanh nghiệp phải nỗ lực và chủ động hơn nữa trong việc nâng cao năng lực
cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư và
14


chủ động đối phó với cạnh tranh và tranh chấp thương mại ngày càng diễn ra gay

gắt trên thị trường quốc tế.
- Do sử dụng các chất kháng sinh và hóa chất bị cấm ,bơm chích tạp chất
,khiến cho hàng thủy sản xuất khẩu luôn bị cảnh báo. Một quan chức của bộ thủy
sản nhận định rằng : để nâng cao khả năng cạnh tranh trong điều kiện mới yếu tố
quan trọng nhất là chất lượng và an toàn vệ sinh thủy sản . Đây là vấn đề mà Việt
nam còn “mắc “ cả ở khâu thực hiện và kiểm tra. Nếu không làm nhanh thì các đối
thủ cạnh tranh sẽ đoạt được thị phần lớn trước .
Có vậy, mặt hàng thủy sản Cà Mau mới nâng tầm giá trị và mang lại lợi
nhuận đáng kể cho kinh tế Cà Mau trong những năm tiếp theo.

15


NHÓM: 04

1. Đặng Thành Phú
2. Nguyễn Thị Sa Ly
3. Phan Thị Phới
4. Lê Thị Thúy Huỳnh
5. Hồ Kiều Mơ
6. Phạm Minh Diệu
7. Huỳnh Thị Thu Trang
8. Nguyễn Thị Téo
9. Huỳnh Thanh Phong
10. Phạm Vũ Sơn
11. Nguyễn Thị Thảo
12. Lưu Thị Tuyết Đào

16




×