Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.85 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-------------o0o-------------

NGUYỄN THỊ HẢI THIỆN

KỸ NĂNG NÓI TIẾNG MẸ ĐẺ
CỦA TRẺ MẪU GIÁO
Chuyên ngành : Tâm lý học chuyên ngành
Mã số

: 62.31.04.01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÂM LÝ HỌC

Hà Nội - 2016
1


Công trình được hoàn thành tại:
KHOA TÂM LÝ - GIÁO DỤC HỌC, TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học:
1.GS. TS. Trần Hữu Luyến, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học
Quốc gia Hà Nội
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Huệ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Phản biện 1:
PGS. TS Nguyễn Hồi Loan, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phản biện 2:


PGS. TS Phan Thị Mai Hương, Viện Tâm lý học
Phản biện 3:
PGS. TS Lã Thị Bắc Lý, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường,
họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
vào ….. giờ......, ngày…. tháng…..năm 2016.

Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia, Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

2


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Hải Thiện (2015). Một số vấn đề lý luận tâm lý học về kỹ
năng sử dụng từ tiếng Việt trong giao tiếp của trẻ mầm non. Tạp chí Giáo
dục. Số 361 (Kỳ 1), tr.7 - tr.9.
2. Nguyễn Thị Hải Thiện (2015). Biểu hiện kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ
mẫu giáo. Tạp chí Giáo dục. Số 365 (Kỳ 1), tr. 27 - tr.29.
3. Nguyễn Thị Hải Thiện (2015). Thực trạng kỹ năng sử dụng từ của trẻ
mẫu giáo bé. Tạp chí Khoa học. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Quyển 60,
Số 8B, tr.248 - tr.256.
4. Nguyễn Thị Hải Thiện (2015). Mức độ sử dụng ngữ âm tiếng Việt để thể
hiện ý của trẻ mẫu giáo. Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Tâm lý học và
Giáo dục học trong sự nghiệp phát triển con người Việt Nam”, Khoa Tâm lý Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.527 - tr.532.
5. Nguyễn Thị Hải Thiện (2016). Thực trạng mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ
đẻ của trẻ mẫu giáo. Tạp chí Tâm lý học xã hội. Số 2, tr.107 - tr.16.
6. Nguyễn Thị Hải Thiện (2016). Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng
nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo. Tạp chí Tâm lý học xã hội. Số 3, tr.14 - tr.22.


3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài: Để tồn tại và phát triển, con người cần nhiều kỹ
năng (KN) khác nhau, trong đó có KN ngôn ngữ vì nó không chỉ là phương tiện
để giao tiếp và tư duy mà còn là một công cụ lưu trữ tâm lý, văn hóa, kinh
nghiệm, giúp loài người chuyển khả năng phản ánh hiện thực từ cụ thể, trực tiếp,
cảm tính lên trừu tượng, gián tiếp, lý tính. Đối với mỗi cá nhân, KN ngôn ngữ vừa
giúp hình thành nên năng lực riêng về ngôn ngữ, vừa tạo ra năng lực mang tính
công cụ cho hoạt động tâm lý nói chung (thông qua và bằng ngôn ngữ mà các
chức năng tâm lý cấp cao được hình thành, củng cố).
Là một bộ phận của KN ngôn ngữ, KN nói tiếng mẹ đẻ cũng mang vai trò
quan trọng nói trên, vừa phục vụ trực tiếp cho việc nắm vững tiếng mẹ đẻ, vừa là
phương tiện để giao tiếp, lĩnh hội văn hóa, kinh nghiệm của nhân loại và để học
tập suốt đời. Ngoài ra, KN nói tiếng mẹ đẻ còn có những vai trò mà ngôn ngữ
thứ hai hoặc ngoại ngữ không có được vì nó là cơ sở, điều kiện để con người
tiếp nhận được các ngôn ngữ khác về sau; đồng thời, góp phần nuôi dưỡng tâm
hồn, nhân cách cho mỗi người ngay từ những lời giao tiếp đầu tiên.
Tuổi mầm non (MN) nói chung, mẫu giáo (MG) nói riêng, là giai đoạn có
nhiều điều kiện thuận lợi và đạt nhiều thành tựu rực rỡ về sự phát triển ngôn ngữ.
Tuy vậy, KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ vẫn còn những hạn chế nhất định (như phát
âm lệch chuẩn, nói câu chưa đúng ngữ pháp, dùng từ chưa chính xác…). Việc
người lớn rèn luyện KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ cũng còn những bất cập (hoặc
thiếu sự quan tâm bồi dưỡng; hoặc bồi dưỡng nhưng quan điểm, nội dung,
phương pháp lại chưa thật chuẩn mực, phù hợp với từng độ tuổi). Điều này không
chỉ để lại hậu quả đối với cá nhân trẻ mà còn để lại những hệ lụy lâu dài về mặt xã
hội. Việc hiểu được bản chất, đặc điểm KN nói của trẻ, xác định được cách thức
đo lường KN này, bên cạnh ý nghĩa lý luận, còn giúp ích trực tiếp cho việc đánh

giá, chẩn đoán, can thiệp, bồi dưỡng, phát triển ngôn ngữ cho trẻ; góp phần khắc
phục những hạn chế nói trên; đóng góp cho tâm lý học phát triển và tâm lý học
giáo dục. Tuy nhiên, ở nước ta, những nghiên cứu về vấn đề này còn ít.
Xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Kỹ năng
nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo”.
2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận và thực trạng KN nói tiếng mẹ
đẻ của trẻ MG. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất một số biện pháp tác động tâm lý
- sư phạm nhằm nâng cao KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Biểu hiện, mức độ KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG.

1


- Khách thể nghiên cứu: 195 trẻ MG (3 - 5 tuổi) của Trường MN Hoa Thủy
Tiên (Cầu Giấy, Hà Nội) và Trường MN Tân Hội (Đan Phượng, Hà Nội) trong hai
năm học (2013 - 2014 và 2014 - 2015); 195 cha (hoặc mẹ) của trẻ MG được nghiên
cứu; 86 giáo viên mầm non (các khối MG bé, MG nhỡ, MG lớn) của 2 trường.
4. Giả thuyết khoa học: KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG là KN phức hợp, biểu
hiện ở bốn KN cơ bản: 1- KN sử dụng ngữ âm để thể hiện ý; 2- KN sử dụng từ để
thể hiện ý; 3- KN sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý; 4- KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để
thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói. Bốn KN thành phần này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trẻ thực hiện KN sử dụng ngữ âm để thể hiện ý là tốt nhất,
KN sử dụng từ để thể hiện ý là yếu nhất. KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Trong đó, trình độ nắm vững
ngôn ngữ nói của bản thân trẻ, phương pháp dạy nắm vững tiếng mẹ đẻ, cách thức
tương tác, giao tiếp của người lớn với trẻ là 3 yếu tố ảnh hưởng rõ rệt nhất. Có thể
nâng cao KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG bằng biện pháp tạo môi trường nói và
cung cấp lời nói mẫu cho trẻ phù hợp với tình huống lời nói.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu: (1) Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu KN nói

tiếng mẹ đẻ của trẻ MG: làm rõ các hướng nghiên cứu về KN nói tiếng mẹ đẻ;
xây dựng khái niệm công cụ, tiêu chí đánh giá, các biểu hiện và mức độ KN nói;
xác định các yếu tố ảnh hưởng đến KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ; (2) Phát hiện
thực trạng KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG, những yếu tố chủ quan, khách quan
ảnh hưởng đến KN này của trẻ; (3) Đề xuất một số biện pháp tác động tâm lý sư phạm nhằm nâng cao KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ MG.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: (1) KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG được khai
thác ở phương diện các KN thành phần; (2) Tập trung nghiên cứu 4 KN thành
phần cơ bản: KN sử dụng ngữ âm; KN sử dụng từ; KN sử dụng ngữ pháp; KN
sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói; (3) KN nói
của trẻ được đánh giá theo 3 tiêu chí: tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh
hoạt; (4) Tiếng mẹ trong nghiên cứu này là Tiếng Việt.
- Về khách thể nghiên cứu: (1) Nghiên cứu được thực hiện trên 195 trẻ
MG (từ 3 đến 5 tuổi); (2) Trẻ MG được nghiên cứu trong đề tài này đều là con
của những cặp bố mẹ là người thuần Việt, nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt phổ
thông và phát triển bình thường về mặt ngôn ngữ.
- Về địa bàn nghiên cứu: Đề tài được thực hiện ở 02 trường MN tại Hà
Nội, gồm 01 trường bán công, thuộc nội thành Hà Nội (Trường MN Hoa Thủy
Tiên, Cầu Giấy, Hà Nội) và 01 trường công lập, ở ngoại thành Hà Nội (Trường
MN Tân Hội, Đan Phượng, Hà Nội).

2


7. Phương pháp luận và phương pháp (PP) nghiên cứu: Trên cơ sở vận
dụng các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản (nguyên tắc hoạt động, nguyên
tắc hệ thống, nguyên tắc phát triển), luận án sử dụng phối hợp các PP sau để
thực hiện nghiên cứu: PP nghiên cứu lý luận, PP quan sát, PP trò chuyện; PP
thực nghiệm nhận biết; PP chuyên gia, PP nghiên cứu trường hợp, PP thực
nghiệm tác động, PP thống kê toán học.

8. Đóng góp mới của luận án
- Về mặt lý luận: (1) Xây dựng được các khái niệm: KN nói, KN nói tiếng
mẹ đẻ, KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG; trong đó nhấn mạnh bản chất hoạt động
của KN nói, ở góc độ là sản phẩm của việc thực hiện những hành động, hoạt
động nói; (2) Chỉ ra được 4 KN thành phần của KN nói tiếng mẹ đẻ; (3) Xác
định được 3 tiêu chí đánh giá KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG (tính đúng đắn,
tính thuần thục, tính linh hoạt) và 5 mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ (từ
rất thấp đến rất cao); (4) Xây dựng được hệ thống bài tập và tình huống thực
nghiệm nhận biết đảm bảo độ tin cậy để đánh giá KN nói của trẻ; (5) Nêu được
các yếu tố chủ quan và khách quan cơ bản ảnh hưởng đến KN nói tiếng mẹ đẻ
của trẻ MG. Những kết quả này góp phần làm sáng tỏ hơn lý luận về KN nói
tiếng mẹ đẻ, đóng góp vào việc xây dựng Tâm lý ngôn ngữ học và Tâm lý học
phát triển ở nước ta.
- Về mặt thực tiễn: (1) Chỉ ra được KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG hiện
nay ở mức trung bình (vì trẻ tuy thực hiện được một số yêu cầu tối thiểu của
hoạt động nói nhưng còn chưa thành thục và linh hoạt), trong đó, KN thành phần
mà trẻ thực hiện tốt hơn cả là KN sử dụng ngữ âm để thể hiện ý; (2) Xác định
được mối quan hệ giữa các KN thành phần và các tiêu chí đánh giá KN nói tiếng
mẹ đẻ có sự tương quan thuận, chặt chẽ; (3) Khẳng định được sự thay đổi KN
nói tiếng mẹ đẻ của trẻ theo hướng tích cực, tiến bộ dần, từ lớp MG bé lên MG
lớn với nội dung và mức độ thay đổi khác nhau; (4) Nêu được 3 yếu tố ảnh
hưởng rõ rệt nhất đến KN nói của trẻ, gồm: trình độ nắm vững tiếng mẹ đẻ của
bản thân trẻ, phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ và cách thức tương tác, giao tiếp của
người lớn với trẻ; (5) Đề xuất và thực nghiệm biện pháp tác động (tạo môi
trường nói và cung cấp lời nói mẫu phù hợp với tình huống lời nói) đã nâng cao
KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ một cách có ý nghĩa. Những kết quả này góp phần
xây dựng nội dung, phương pháp giáo dục KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ MG
theo hướng tổ chức các dạng hoạt động, tạo môi trường hoạt động để trẻ được
rèn KN nói trong nhiều tình huống, hoàn cảnh khác nhau.
9. Cấu trúc của luận án: Luận án gồm: mở đầu, 3 chương, kết luận và kiến

nghị, danh mục các công trình đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục. Trong phần nội dung chính, có 26 biểu, bảng, 2 sơ đồ và 8 biểu đồ số liệu.
3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU
KỸ NĂNG NÓI TIẾNG MẸ ĐẺ CỦA TRẺ MẪU GIÁO
1.1. Tổng quan các nghiên cứu về kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ ở trẻ em là vấn đề thu hút sự quan tâm rất
lớn của các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, cả ở trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, hầu hết những nghiên cứu sâu chủ yếu thuộc về ngôn ngữ
học (dù các nhà ngôn ngữ học có quan tâm đến mối quan hệ chặt chẽ giữa ngôn
ngữ và tâm lý, đặc biệt là tư duy), hoặc vận dụng những kết quả của ngôn ngữ học
vào quá trình dạy học ở bậc MN mà chưa thực sự quan tâm đến bản chất tâm lý của
nó. Vì vậy, nghiên cứu này đi sâu tìm hiểu về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ MG
nói chung, KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ nói riêng, dưới góc độ tâm lý học.
1.2. Một số vấn đề lý luận về kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
1.2.1. Kỹ năng: là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm hành động/hoạt động đã
có của cá nhân vào thực hiện có kết quả hành động/hoạt động trong những điều
kiện xác định. KN có nhiều đặc điểm khác nhau, song đề tài tập trung vào 3 đặc
điểm: tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh hoạt, làm cơ sở để đánh giá KN
nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG vì đây là các đặc điểm then chốt, nền tảng của KN.
1.2.2. Kỹ năng nói: KN nói có bản chất hoạt động, vừa được đánh giá về mặt
thao tác kỹ thuật (của các hành động nói), vừa được đánh giá về mặt năng lực (hoạt
động nói) của cá nhân. Theo đó, KN nói là sự vận dụng những tri thức, kinh nghiệm
hành động/ hoạt động ngôn ngữ đã có của cá nhân vào thực hiện có kết quả hành
động/ hoạt động sử dụng ngữ âm, từ, ngữ pháp theo quy định của ngôn ngữ cụ thể
để thể hiện ý muốn nói trong những điều kiện, tình huống lời nói xác định.
1.2.3. Kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ: là sự vận dụng những tri thức, kinh nghiệm
hành động/ hoạt động nói tiếng mẹ đẻ đã có của cá nhân vào thực hiện có kết

quả hành động/hoạt động sử dụng ngữ âm, từ, ngữ pháp theo quy định của tiếng
mẹ đẻ để thể hiện ý muốn nói trong tình huống lời nói xác định.
1.2.4. Kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
- Kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo là sự vận dụng những tri thức,
kinh nghiệm hành động/hoạt động nói tiếng mẹ đẻ đã có của trẻ MG vào thực hiện
có hiệu quả hành động/ hoạt động sử dụng ngữ âm, từ, ngữ pháp theo quy định
của tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý muốn nói phù hợp với tình huống lời nói.
- Biểu hiện kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo: Để đánh giá KN nói
tiếng mẹ đẻ của trẻ MG, cần dựa vào những hành động mà trẻ biết sử dụng và sử
dụng được những kinh nghiệm của mình về tiếng mẹ đẻ vào việc thực hiện hành
động/ hoạt động nói (biết làm và làm được). Cụ thể là:

4


+ Kỹ năng sử dụng ngữ âm tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý muốn nói: (1) Biết
phát âm các âm vị; (2) Biết nói thanh điệu của từ (3) Biết nói ngữ điệu của câu;
(4) Biết nhấn trọng âm logic của câu theo quy định của tiếng mẹ đẻ. Trong đó,
việc biết phát âm các âm vị và nói thanh điệu của từ là quan trọng nhất vì đó là
những đặc trưng của âm tiết tiếng Việt.
+ Kỹ năng sử dụng từ tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý muốn nói: (1) Biết sử dụng
nghĩa gốc (đồng nghĩa/ gần nghĩa) của từ trong tình huống lời nói; (2) Biết sử
dụng đặc điểm ngữ pháp của từ (từ loại và cụm từ); (3) Biết sử dụng từ trái nghĩa;
(4) Biết sử dụng từ nhiều nghĩa; (5) Biết sử dụng nguồn phương tiện tu từ. Trong
đó, biểu hiện cơ bản nhất là biết sử dụng đúng nghĩa của từ để thể hiện ý, vì nghĩa
của từ là yếu tố quyết định việc hiểu và sử dụng từ của trẻ.
+ Kỹ năng sử dụng ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý muốn nói: (1)
Biết sử dụng trật tự của câu; (2) Biết phát triển thành phần câu; (3) Biết sử dụng
các kiểu câu khác nhau tùy theo mục đích nói; (4) Biết sử dụng hư từ; (5) Biết sử
dụng ngữ điệu phù hợp với mục đích nói. Trong đó, biểu hiện quan trọng nhất là

biết sử dụng trật tự câu, vì đây là phương thức ngữ pháp cơ bản nhất để tạo câu
trong tiếng Việt.
+ Kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời
nói: (1) Biết thể hiện ý phù hợp với vai giao tiếp (vai chơi); (2) Biết thể hiện ý
ngắn gọn, dễ hiểu; (3) Biết phát triển ý nói ra theo tình huống lời nói; (4) Biết thể
hiện ý rõ ràng, lưu loát trong tình huống lời nói. Trong đó, những biểu hiện cơ
bản nhất là trẻ biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với vai chơi và
biết thể hiện ý ngắn gọn, dễ hiểu.
- Tiêu chí, mức độ và cách đánh giá kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
+ Về tiêu chí: Từng KN thành phần và toàn bộ KN nói của trẻ MG đều
được đánh giá qua 3 tiêu chí: tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh hoạt.
Trong đó, tính đúng đắn thể hiện ở việc trẻ không mắc lỗi khi sử dụng ngữ âm,
từ, ngữ pháp để thể hiện ý muốn nói theo quy định; tính thành thục thể hiện ở
tốc độ và sự ổn định (không bị lúng túng, ngập ngừng) khi trẻ sử dụng ngữ âm,
từ, ngữ pháp để thể hiện ý muốn nói; tính linh hoạt thể hiện ở sự mềm dẻo, sáng
tạo của việc thực hiện KN nói trong các tình huống, hoàn cảnh nói khác nhau.
+ Về mức độ: Các KN thành phần và toàn bộ KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ
được đánh giá qua 5 mức độ: rất thấp, thấp, trung bình, cao, rất cao.
+ Về cách đánh giá: 3 tiêu chí trên có vai trò quan trọng như nhau, được
đánh giá qua các bài tập và tình huống thực nghiệm nhận biết. Cách đánh giá này
vừa áp dụng với từng KN thành phần, vừa áp dụng với KN nói tiếng mẹ đẻ của
trẻ MG nói chung.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo:
5


KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ quan (đặc
điểm thể chất, nhu cầu, hứng thú nói, khả năng bắt chước lời nói của người khác,
trình độ nắm vững ngôn ngữ nói tiếng mẹ đẻ...) và các yếu tố khách quan (môi
trường ngôn ngữ, sự khác biệt văn hóa trong giao tiếp ngôn ngữ, phương pháp

dạy tiếng mẹ đẻ của người thân và nhà trường, điều kiện, phương tiện dạy nói,
mối quan hệ giữa trẻ và đối tượng giao tiếp…).
Tiểu kết chương 1: KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ là vấn đề được các tác giả
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Ở Việt Nam, các công trình nghiên
cứu dưới góc độ tâm lý học còn ít. KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG: (1) Là sự vận
dụng những tri thức, kinh nghiệm hành động/hoạt động nói tiếng mẹ đẻ đã có
của trẻ vào thực hiện có kết quả hành động/ hoạt động dùng ngữ âm, từ và ngữ
pháp theo quy định của tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý muốn nói phù hợp với tình
huống lời nói; (2) Có thể đánh giá qua 3 tiêu chí (tính đúng đắn, thành thục, linh
hoạt) và ở 5 mức độ (rất thấp, thấp, trung bình, cao, rất cao); (3) Chịu sự chi phối
của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác nhau.
CHƯƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện qua các giai đoạn: Nghiên
cứu lý luận; Thiết kế công cụ khảo sát KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG; Khảo sát
thử; Khảo sát chính thức; Thực nghiệm tác động; Xử lý số liệu và viết luận án.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: (1) Hệ thống, làm rõ các xu hướng,
quan điểm nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước về các vấn đề có liên quan
đến KN, KN nói tiếng mẹ đẻ; (2) Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận tâm lý học
có liên quan đến các khái niệm: KN, KN nói, KN nói tiếng mẹ đẻ, KN nói tiếng
mẹ đẻ của trẻ MG; (3) Làm rõ các yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến
KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ; (4) Xây dựng khung lý thuyết cho vấn đề nghiên
cứu, từ đó khẳng định quan điểm nghiên cứu KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG
thực chất là KN hoạt động/ hành động nói lời nói miệng.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a. Phương pháp quan sát: Nghe mẫu lời nói, quan sát hành vi, cử chỉ của trẻ
khi nói để đánh giá tính đúng đắn, thành thục, linh hoạt khi thực hiện KN nói;
đồng thời, bổ sung các thông tin định tính về một số yếu tố ảnh hưởng tới KN
nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG. Việc quan sát được tiến hành vừa bằng phương thức
trực tiếp (bởi người khảo sát), vừa bằng phương thức gián tiếp (quay video), với

mục tiêu cụ thể, có biên bản kèm theo. Kết quả quan sát được cho điểm và đánh
giá theo 5 mức độ ở bảng sau:
Mức độ
Rất thấp

Tiêu chí
Tính đúng đắn
Tính linh hoạt

Biểu hiện
Hoàn toàn sai/ Hầu hết là sai
Rất rập khuôn, cứng nhắc, gượng gạo

6

Cho điểm
1 điểm


Mức độ

Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao

Tiêu chí

Tính thành thục
Tính đúng đắn
Tính linh hoạt
Tính thành thục
Tính đúng đắn
Tính linh hoạt
Tính thành thục
Tính đúng đắn
Tính linh hoạt
Tính thành thục
Tính đúng đắn
Tính linh hoạt
Tính thành thục

Biểu hiện
Rất chậm, rất lúng túng
Sai nhiều hơn đúng
Không linh hoạt
Chậm, lúng túng
Đúng - sai bằng hoặc gần bằng nhau
Có nhưng thể hiện chưa thật rõ
Lúc nhanh, lúc chậm; lúc lúng túng, lúc không
Hầu như đúng
Linh hoạt
Tương đối nhanh, gần như không lúng túng
Hoàn toàn đúng
Rất linh hoạt
Rất nhanh, hoàn toàn không lúng túng

Cho điểm


2 điểm

3 điểm

4 điểm

5 điểm

Để tính chênh lệch giữa các mức độ của thang đo, chúng tôi lấy điểm cao nhất
(5 điểm) trừ đi điểm thấp nhất của thang đo (1 điểm) rồi chia cho 5 mức. Như
vậy, điểm chênh lệch của mỗi mức là 0,8. Từ đây, các mức độ của thang đo được
xác định như sau: (1) Mức Rất thấp: Điểm trung bình < 1,8; (2) Mức Thấp:
Điểm trung bình từ 1,8 đến cận 2,6; (3) Mức Trung bình: Điểm trung bình từ
2,6 đến cận 3,4; (4) Mức Cao: Điểm trung bình từ 3,4 đến cận 4,2; (5) Mức
Rất cao: Điểm trung bình từ 4,2 đến 5.
b. Phương pháp thực nghiệm nhận biết: Tìm hiểu thực trạng biểu hiện và
mức độ KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG, làm cơ sở cho những thực nghiệm tác
động ở giai đoạn sau. Phương pháp này được thực hiện đồng thời với phương
pháp quan sát, bằng cách sử dụng hệ thống bài tập và tình huống thực nghiệm
nhận biết. Tiêu chí, thang đánh giá tương tự phương pháp quan sát.
c. Phương pháp chuyên gia: Thiết kế Phiếu trưng cầu ý kiến chuyên gia; xin ý
kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học, ngôn ngữ học và giáo dục
học mầm non nhằm xác định các KN thành phần trong KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ
MG, các yếu tố ảnh hưởng, cũng như điều kiện, biện pháp để hình thành và bồi
dưỡng KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ MG. Phương pháp này được thực hiện trong
giai đoạn xây dựng cơ sở lý luận của đề tài; thiết kế bài tập/tình huống thực
nghiệm nhận biết; xử lý số liệu; giải thích một số kết quả nghiên cứu liên quan
đến khía cạnh tâm lý ngôn ngữ học.
d. Phương pháp trò chuyện: (1) Với trẻ: Hỏi và lắng nghe lời kể của trẻ về

gia đình mình, những sở thích của bản thân; suy nghĩ, cảm xúc của trẻ về những
sự vật, sự việc diễn ra trong cuộc sống hàng ngày; (2) Với phụ huynh/ giáo viên:
Trò chuyện, lắng nghe những nhận xét, đánh giá, chia sẻ của một số phụ huynh
hoặc giáo viên về tính cách, việc nói năng, ứng xử của một số trẻ lúc ở nhà hoặc
ở trường; ghi lại mẫu lời nói hoặc các đoạn đối thoại thú vị giữa trẻ với người
7


khác mà phụ huynh hoặc giáo viên kể lại nhằm đánh giá kỹ hơn về mức độ từng
KN thành phần và KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG.
e. Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Chúng tôi chọn ra 05 trẻ có những
đặc điểm đặc trưng về KN nói tiếng mẹ đẻ cho độ tuổi để quan sát kỹ hơn so
với các trẻ khác, nhằm mô tả một cách cụ thể, chân thực về biểu hiện, mức độ
và yếu tố ảnh hưởng đến KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ, cũng như sự thay đổi KN
nói của trẻ dưới tác động của biện pháp thực nghiệm.
2.2.3. Phương pháp thực nghiệm tác động: Sử dụng thực nghiệm tâm lý - sư
phạm nhằm nâng cao KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG, bằng cách tạo môi trường
nói tiếng mẹ đẻ và cung cấp lời nói mẫu cho trẻ phù hợp với tình huống lời nói.
2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu: (1) Xử lý số liệu định tính: Các thông tin
thu được từ phương pháp quan sát, trò chuyện…dùng để minh họa, hỗ trợ cho
việc diễn giải và biện luận các số liệu thu được từ xử lý số liệu định lượng và
thực nghiệm sư phạm tác động; (2) Xử lý số liệu định lượng: Số liệu được xử lý
bằng chương trình phần mềm SPSS. Các thông số và phép thống kê được dùng
trong nghiên cứu là phân tích thống kê mô tả (điểm trung bình, độ lệch chuẩn,
tần suất…) và thống kê suy luận (phân tích so sánh, phân tích tương quan nhị
biến, phân tích hồi quy tuyến tính).
Tiểu kết chương 2: Luận án được tổ chức theo các giai đoạn và quy trình chặt
chẽ với sự kết hợp của nhiều phương pháp khác nhau, trong đó, các phương pháp
nghiên cứu chính là quan sát, thực nghiệm và nghiên cứu trường hợp. Các phương
pháp này bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau giúp cho kết quả nghiên cứu được đầy đủ, chính

xác. Các số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS cả về phương diện định lượng
và định tính, đảm bảo độ tin cậy, khoa học cho các kết luận của đề tài.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG NÓI TIẾNG MẸ ĐẺ CỦA TRẺ MẪU GIÁO
3.1. Thực trạng mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
3.1.1. Đánh giá chung mức độ kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
Bảng 3.1: Đánh giá chung mức độ kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
Kỹ năng thành phần
1. KN sử dụng ngữ âm

2. KN sử dụng từ

Đặc điểm (Tiêu chí)
Tính đúng đắn
Tính thành thục
Tính linh hoạt
Kết quả (1)
Tính đúng đắn
Tính thành thục
Tính linh hoạt
Kết quả (2)

8

ĐTB
4,07
3,80
3,63
3,84
2,30

2,15
2,03
2,16

ĐLC
0,448
0,487
0,50
0,475
0,394
0,398
0,397
0,396

Mức
Cao
Cao
Cao
Cao
Thấp
Thấp
Thấp
Thấp


Kỹ năng thành phần

Đặc điểm (Tiêu chí)
Tính đúng đắn
Tính thành thục

3. KN sử dụng ngữ pháp
Tính linh hoạt
Kết quả (3)
Tính đúng đắn
Tính thành thục
4. KN sử dụng tiếng mẹ đẻ
Tính linh hoạt
Kết quả (4)
CHUNG: Kết quả (1), (2), (3), (4)

ĐTB
2,81
2,65
2,52
2,66
2,80
2,63
2,50
2,64
2,82

ĐLC
0,400
0,421
0,428
0,416
0,422
0,447
0,457
0,441

0,412

Mức
Tr.bình
Thấp
Thấp
Tr.bình
Tr.bình
Tr.bình
Thấp
Tr.bình
Tr.bình

Nhận xét: KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG hiện nay ở mức trung bình (ĐTB =
2,82). Trong đó: (1) Xét theo KN thành phần: trẻ thực hiện KN sử dụng ngữ âm
để thể hiện ý là tốt nhất (ĐTB = 3,84), KN sử dụng từ để thể hiện ý là thấp nhất
(ĐTB = 2,16); (2) Xét theo tiêu chí đánh giá kỹ năng: tính đúng đắn đạt điểm cao
hơn tính thành thục và tính linh hoạt (3,00 so với 2,81 và 2,67); (3) Xét theo chủ
đề chơi: KN nói ở chủ đề “Mua - bán hàng” tốt hơn chủ đề “Gia đình” và “Bác
sĩ - Bệnh nhân”.
3.1.2. Mức độ thực hiện các kỹ năng thành phần trong kỹ năng nói tiếng
mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
a. Mức độ kỹ năng sử dụng ngữ âm để thể hiện ý của trẻ mẫu giáo: KN sử
dụng ngữ âm của trẻ hiện nay ở mức cao (ĐTB = 3,84). Trong đó, việc sử dụng
âm vị và thanh điệu tốt hơn sử dụng ngữ điệu và trọng âm logic (ĐTB = 3,86, so
với 3,56 và 3,50), vì âm vị và thanh điệu gắn liền với từ (từng âm tiết riêng lẻ),
ngắn, tương đối rõ ràng, dễ bắt chước, lặp lại. Trong khi đó, ngữ điệu, trọng âm
logic lại gắn liền với câu, bị chi phối bởi độ dài, ý nghĩa và cấu trúc ngữ pháp của
câu, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ cũng như sự mềm dẻo của việc sử dụng
ngữ điệu và trọng âm. Ngoài ra, dù tiếng Việt có trọng âm câu, nhưng đây không

phải là phương thức ngữ pháp chính; người lớn nhiều khi cũng không thực sự chú
ý đến việc nhấn trọng âm trong lúc nói; trẻ không quen được nghe những phần âm
thanh này nên cũng ít có thói quen sử dụng nó.
b. Mức độ kỹ năng sử dụng từ tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý của trẻ mẫu giáo: KN sử
dụng từ của trẻ MG ở mức thấp (ĐTB = 2,16). Trong đó, biểu hiện biết sử dụng
nghĩa gốc của từ (hoặc từ đồng nghĩa, gần nghĩa) và đặc điểm ngữ pháp của từ để
thể hiện ý tốt hơn các biểu hiện còn lại (ĐTB = 3,13 và 2,72). Trẻ có thể sử dụng
từ trái nghĩa và phương tiện tu từ nhưng chỉ ở mức thấp (ĐTB = 1,97 và 1,82),
còn gần như chưa sử dụng được từ nhiều nghĩa (ĐTB = 1,15) vì đây là một trong
những hiện tượng nghĩa khó nhất trong tiếng Việt.
c. Mức độ kỹ năng sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý của trẻ mẫu giáo: Trong
các biểu hiện của KN, trẻ chủ yếu biết sử dụng trật tự câu và ngữ điệu (ĐTB =
9


3,19 và 3,07), cho thấy trẻ đã nắm được phương thức ngữ pháp cơ bản của tiếng
Việt để thể hiện ý, song trẻ chủ yếu nói câu ngắn, cấu trúc gồm hai thành phần
chính là chủ ngữ - vị ngữ. Trong câu nói của trẻ, ít xuất hiện những thành phần
ngữ pháp hoặc trật tự tạo câu phức tạp hơn. Ngữ điệu được trẻ sử dụng đúng,
thành thục và linh hoạt hơn so với các phương thức ngữ pháp còn lại vì liên
quan chủ yếu đến âm điệu giọng nói, các biểu cảm phi ngôn ngữ nên dễ bắt
chước. Việc hiểu và sử dụng hư từ, các kiểu câu khác nhau, phát triển thành
phần câu, là những yêu cầu ngữ pháp khó đối với trẻ MG nên ít khi trẻ thực hiện
được. Nhìn chung, việc huy động kinh nghiệm về ngữ pháp thể hiện tính chất “bù
trừ” khá rõ nét (khi chưa sử dụng được những phương thức phức tạp, trẻ thường
chuyển ý muốn nói về phương thức ngữ pháp đơn giản và quen thuộc hơn).
d. Mức độ kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống
lời nói của trẻ mẫu giáo: Trẻ MG bước đầu biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện
ý phù hợp với tình huống lời nói (ĐTB = 2,64). Trong các biểu hiện của KN này,
trẻ biết “thể hiện ý phù hợp với vai chơi” (ĐTB = 3,08) và “thể hiện ý ngắn gọn,

dễ hiểu” (ĐTB = 2,64), song còn gặp khó khăn ở biểu hiện “phát triển ý theo
tình huống lời nói” (ĐTB = 2,21). Vì vậy, nếu được người lớn gợi ý, hướng dẫn
thì trẻ có thể huy động kinh nghiệm tiếng mẹ đẻ nhiều hơn để phát triển ý và thực
hiện luân phiên lượt lời trong quá trình giao tiếp.
e. Tương quan giữa các biểu hiện kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo:
Các KN thành phần trong KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ có tương quan thuận, rất
chặt chẽ (r = 0,822 trở lên, với p <0,01) cho thấy, muốn nói tốt, trẻ cần thực hiện
đầy đủ các kỹ năng thành phần này chứ không chỉ tập trung vào một KN riêng lẻ
nào vì KN này chi phối, quy định KN kia. Giữa các biểu hiện của từng KN thành
phần cũng có mối quan tương quan thuận, chặt chẽ (p < 0,01).
3.1.3. Mức độ tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh hoạt khi thực
hiện kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
a. Mức độ tính đúng đắn khi thực hiện kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
Bảng 3.2: Mức độ tính đúng đắn khi thực hiện kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
STT
1
2
3
4

Kỹ năng
KN sử dụng ngữ âm
KN sử dụng từ
KN sử dụng ngữ pháp
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện
ý phù hợp với tình huống lời nói
CHUNG

10


ĐTB
4,07
2,30
2,81

ĐLC
0,448
0,394
0,400

Mức độ
Cao
Thấp
Tr.bình

2,80

0,422

Tr.bình

3,00

0,396

Tr.bình


Nhận xét: Trẻ đã thực hiện được một số yêu cầu cơ bản của KN nói, vận
dụng được tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý, nhưng chưa ổn định, có lúc đúng, lúc sai

(ĐTB = 3,00). Trong đó, tính đúng đắn khi thực hiện KN sử dụng ngữ âm là cao
nhất (ĐTB = 4,07); KN sử dụng từ là thấp nhất (ĐTB = 2,30), cho thấy, khi tiếp
nhận và sản sinh ngôn ngữ, cái được trẻ lĩnh hội và thể hiện đúng đầu tiên (cũng
là nhanh chóng, thành thục hơn cả) là mặt cảm tính - vỏ vật chất (ngữ âm/âm
thanh) của từ, sau đó mới đến mặt lý tính - nội dung tâm lý chứa đựng bên trong
từ (nghĩa, ý…).
Với KN sử dụng từ (ĐTB = 2,30): Trẻ chủ yếu sử dụng đúng nghĩa gốc và đặc
điểm ngữ pháp của một số từ để thể hiện ý (ĐTB = 3,31 và 2,86). Trẻ thường lựa
chọn từ dựa vào điểm tương đồng nào đó giữa các từ (vỏ âm thanh, ấn tượng cảm
tính hoặc nghĩa) để huy động và diễn đạt thay thế cho nhau. Các biểu hiện còn lại
của KN sử dụng từ để thể hiện ý chỉ ở mức thấp, thậm chí rất thấp, do trẻ gần như
không sử dụng được hoặc sử dụng sai những từ này.
Với KN sử dụng ngữ pháp (ĐTB = 2,81): Trẻ nói đúng được trật tự câu đơn
giản, sử dụng đúng một số kiểu câu cơ bản và ngữ điệu trong tiếng Việt để thể hiện
ý (chủ yếu là ngữ điệu cấu khiến/mệnh lệnh). Trẻ chưa thực hiện được hoặc thực
hiện chưa đúng biểu hiện dùng hư từ và phát triển thành phần câu.
Với KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói
(ĐTB = 2,80): Trẻ còn gặp khó khăn khi phát triển ý hoặc phát triển ý chưa đúng
với yêu cầu của tình huống lời nói, cho thấy KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ ngoài
việc phụ thuộc vào trình độ nắm vững ngôn ngữ nói, còn phụ thuộc vào hoạt
động và hành động thực tế đang diễn ra.
b. Mức độ tính thành thục khi thực hiện kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
Bảng 3.3: Mức độ tính thành thục khi thực hiện kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
TT
1

Kỹ năng thành phần
KN sử dụng ngữ âm để thể hiện ý

ĐTB

3,80

ĐLC
0,487

Mức
Cao

2

KN sử dụng từ để thể hiện ý

2,15

0,398

Thấp

3

KN sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý
phù hợp với tình huống lời nói
CHUNG

2,65

0,421

Thấp


2,63

0,447

Tr.bình

2.81

0,417

Tr.bình

4

Nhận xét: Trẻ thực hiện KN nói lúc ổn định, lúc chưa ổn định, còn ngắc ngứ và
gặp nhiều khó khăn khi phát âm hay nói câu nên tính thành thục chỉ đạt mức trung
bình (ĐTB = 2,81). Cụ thể là: (1) Khi thực hiện KN sử dụng ngữ âm (ĐTB =
3,80), trẻ nói thanh điệu và phát âm âm vị của từ dễ dàng, nhanh chóng hơn các
biểu hiện còn lại (ĐTB = 4,46 và 3,80); (2) Việc huy động, lựa chọn từ để thể hiện
ý của trẻ còn lúng túng (ĐTB = 2,15). Trẻ có thể huy động tương đối nhanh và sử
11


dụng khá tự nhiên, thành thục nghĩa gốc và đặc điểm ngữ pháp của từ (ĐTB =
3,12 và 2,71); nhưng ít khi hoặc gần như chưa thực hiện được một số biểu hiện
khác của KN này như sử dụng phương tiện tu từ (ĐTB = 1,66), sử dụng từ nhiều
nghĩa (ĐTB = 1,15); (3) Khi thực hiện KN sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý (ĐTB
= 2,65), trẻ ít khi phát triển thành phần câu hoặc sử dụng hư từ để tạo câu (ĐTB =
2,02 và 1,97) mà chủ yếu sử dụng trật tự câu, ngữ điệu và một số kiểu câu (nhất là

câu mệnh lệnh) để tạo lời nói nên chỉ đạt điểm thành thục cao hơn ở những biểu
hiện này; (4) Khi thực hiện KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình
huống lời nói (ĐTB = 2,63), trẻ chủ yếu “nói phù hợp với vai chơi”, thể hiện ở
việc biết mình thuộc vai nào, thực hiện hành động nói sao cho nội dung lời nói,
thái độ biểu cảm, hành vi, cử chỉ…bộc lộ được đặc trưng của vai. Biểu hiện mà
trẻ thực hiện ít nhất và kém thành thục nhất là “phát triển ý theo tình huống lời
nói” (ĐTB = 2,20). Việc thực hiện luân phiên lượt lời giữa các vai chưa được phát
huy, dẫn đến sự tương tác giữa các nhân vật trong trò chơi chưa cao, nội dung hội
thoại và lời nói của trẻ vì thế cũng khó được mở rộng và phát triển thêm.
c. Mức độ tính linh hoạt khi thực hiện kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
Bảng 3.4: Mức độ tính linh hoạt khi thực hiện kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo
STT
1
2
3
4

Kỹ năng thành phần
KN sử dụng ngữ âm để thể hiện ý
KN sử dụng từ để thể hiện ý
KN sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý
phù hợp với tình huống lời nói
CHUNG

ĐTB
3,63
2,03
2,52


ĐLC
0,50
0,397
0,428

Mức độ
Cao
Thấp
Thấp

2,50

0,457

Thấp

2.67

0,424

Tr.bình

Nhận xét: Việc phải phát âm những âm vị mới (“lạ tai”) hoặc thực hiện KN
nói ở những tình huống khác nhau đã làm bộc lộ sự kém linh hoạt trong KN nói
của trẻ. Nhiều trẻ cảm thấy khó khăn, thiếu tự nhiên hoặc phải mất một khoảng
thời gian nhất định để thực hiện các hành động nói (ĐTB = 2,67). Cụ thể là: (1)
Trong kỹ năng sử dụng ngữ âm (ĐTB = 3,63), khi phát âm từ âm nọ qua âm kia,
kết hợp thanh điệu này với thanh điệu khác, khuôn miệng của trẻ chưa được
mềm dẻo, âm phát ra chưa tự nhiên, còn phải gằn giọng. Khi chuyển giữa các
ngữ điệu và trọng âm logic của các kiểu câu khác nhau, trẻ MG còn khá lúng

túng hoặc cảm thấy căng thẳng; (2) Việc sử dụng từ chưa được tự nhiên, sáng
tạo (ĐTB = 2,03). Trong đó, tính linh hoạt được bộc lộ ít nhiều ở biểu hiện sử
dụng nghĩa gốc/ đồng nghĩa/gần nghĩa của từ (ĐTB = 2,97), còn trong việc sử
dụng đặc điểm ngữ pháp của từ, từ trái nghĩa chỉ ở mức thấp (ĐTB = 2,57 và
1,80); sử dụng từ nhiều nghĩa và phương tiện tu từ là rất thấp (ĐTB = 1,12 và
1,66). Cũng có lúc trẻ bộc lộ sự sáng tạo khi tạo ra một số từ theo cách riêng của
mình để diễn đạt các ý tưởng, nhưng lại chưa thực sự chính xác về nghĩa hoặc
chưa phù hợp với hoàn cảnh nói; (3) Trong KN sử dụng ngữ pháp, trẻ thực hiện
12


linh hoạt nhất với biểu hiện sử dụng trật tự câu để thể hiện ý (ĐTB = 3,03). Tuy
nhiên, nội dung câu nói của trẻ chủ yếu là đơn nghĩa, được diễn đạt một cách rõ
ràng với các câu ngắn (5 -7 tiếng), cấu trúc chủ yếu gồm 2 thành phần (chủ - vị).
Khi nói câu dài, chứa nhiều thành phần phức tạp, trẻ dễ dàng thay đổi ngữ điệu
và kiểu câu hơn là phát triển thành phần câu, sắp xếp trật tự từ trong câu hay sử
dụng hư từ; (4) Trong KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình
huống lời nói (ĐTB = 2,50), việc chuyển từ vai nọ sang vai kia khá nhuần
nhuyễn về hành động chơi nhưng lời nói tương ứng chưa theo kịp, dẫn đến lời
nói của trẻ đôi lúc còn rập khuôn, gượng gạo. Đa số trẻ có thể nói phù hợp với
vai chơi nhưng còn chưa ngắn gọn, dễ hiểu hoặc chưa rõ ràng, trôi chảy.
d. Tương quan giữa các tiêu chí đánh giá kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu
giáo: Có sự khác biệt giữa tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh hoạt trong
KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG. Trong đó, tính đúng đắn là tiêu chí đạt điểm cao
nhất, cho thấy đây là đặc điểm, và cũng là tiêu chí then chốt của KN, có ý nghĩa
quyết định đến các tiêu chí còn lại. Giữa các tiêu chí đánh giá KN nói tiếng mẹ đẻ
của trẻ MG có mối tương quan thuận, rất chặt chẽ với nhau (r = 0,996 trở lên, với
p <0,01). Mối tương quan giữa tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh hoạt
của các biểu hiện trong từng KN thành phần cũng là tương quan thuận và rất chặt
chẽ với hệ số tương quan cao (p <0,01).

3.1.4. So sánh mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo về một số
phương diện: KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG có sự khác biệt một cách có ý
nghĩa (p < 0,05) về phương diện giới tính (trẻ nữ nói tốt hơn trẻ nam: ĐTB = 2,87
so với 2,78; ở KN sử dụng ngữ âm, sử dụng từ và sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện
ý) và độ tuổi (trẻ MG lớn nói tốt hơn trẻ MG nhỡ và bé: ĐTB = 3,33, so với 2,99
và 2,39; ở KN sử dụng từ và sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý). Không có sự
khác biệt về KN nói giữa trẻ nội thành và ngoại thành.
3.1.5. Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo ở từng độ tuổi
a. Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi)
Bảng 3.5: Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo bé
STT
1
2
3
4

Kỹ năng
KN sử dụng ngữ âm
KN sử dụng từ
KN sử dụng ngữ pháp
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện
ý phù hợp với tình huống lời nói
CHUNG

ĐTB
3,35
1,80
2,20

ĐLC

0,246
0,207
0,224

Mức độ
Tr. bình
Thấp
Thấp

2,20

0,297

Thấp

2,39

0,206

Thấp

Nhận xét: KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG bé ở mức thấp (ĐTB = 2,39). Trẻ
thực hiện các bài tập khảo sát cũng như thực hiện KN nói trong các tình huống
thực nghiệm nhận biết còn khó khăn, lúng túng, thậm chí một số biểu hiện cơ
13


bản còn chưa đạt yêu cầu. Cụ thể là: (1) Về KN sử dụng ngữ âm: Trẻ đã biết phát
âm một số âm vị, song chủ yếu mới phát âm đúng và tương đối thành thục các
âm chính, còn phát âm lệch chuẩn ở nhiều phụ âm ( “t”, “th”, “s”, “tr”, “r”,

“kh”, “g”…) và một số âm cuối (“nh”, “ng”, “m”, “n”…). Nhiều trẻ chưa nói
được đúng thanh ngã và thanh hỏi. Trẻ nói chưa thật rõ ngữ điệu và trọng âm
logic của các kiểu câu, trừ câu mệnh lệnh; (2) Về KN sử dụng từ: Trẻ MG bé sử
dụng được nghĩa gốc của từ, nhưng còn chưa chính xác. Trẻ sử dụng đại từ (đại
từ xưng hô, đại từ để trỏ…) là chủ yếu. Trẻ gọi tên sự vật tốt hơn miêu tả hành
động hoặc tính chất của sự vật/hành động ấy, cho thấy, từ loại mà trẻ mẫu giáo
bé sử dụng chủ yếu là danh từ, còn động từ, tính từ vẫn hạn chế cả về số lượng
và độ chính xác. Trẻ đã bước đầu biết cách tìm, lựa chọn, và “sáng tạo” ra một
số từ để thể hiện ý; (3) Về KN sử dụng ngữ pháp: Trẻ biết sử dụng trật tự câu để
thể hiện ý, song trật tự phổ biến trong câu của trẻ mẫu giáo bé là cụm chủ - vị
(câu hai từ). Ngoài ra, do ngữ điệu mệnh lệnh chiếm ưu thế nên trẻ MG bé
thường chuyển các câu từ ngữ điệu kể hoặc cầu khiến sang ngữ điệu mệnh lệnh;
(4) Về KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói: Trẻ
sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý còn nhiều hạn chế vì vẫn phải dùng hành động
chân tay hoặc hành động với vật thật để thay thế lời nói. Trẻ mới vận dụng kinh
nghiệm về một số hành động chơi, còn chưa chú ý vận dụng kinh nghiệm lời nói
tương ứng với hành động đó, khiến cho việc nói chưa phù hợp, và càng chưa
linh hoạt với vai hoặc tình huống giao tiếp. Ngoài ra, do tính tổ chức chưa cao
nên sự giao lưu và phối hợp hành động chơi giữa các trẻ còn đơn điệu.
b. Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi)
Bảng 3.6: Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo nhỡ
STT
1
2
3
4

Kỹ năng
KN sử dụng ngữ âm
KN sử dụng từ

KN sử dụng ngữ pháp
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện
ý phù hợp với tình huống lời nói
CHUNG

ĐTB
4,05
2,22
2,88

ĐLC
0,219
0,184
0,131

Mức độ
Cao
Thấp
Tr.bình

2,83

0,159

Tr.bình

2,99

0,149


Tr.bình

Nhận xét: Trẻ MG nhỡ đã thực hiện được một số biểu hiện cơ bản của KN
nói ở mức độ nhất định (ĐTB = 2,99). Cụ thể là: (1) Về KN sử dụng ngữ âm
(ĐTB = 4,05): Trẻ phát âm đúng, ổn định hầu hết các phụ âm đầu, âm chính và
một số âm cuối, nói thanh điệu sắc nét và rõ ràng hơn, nhấn trọng âm logic tốt
hơn, tốc độ phát âm/nói nhanh hơn. Khi phát âm, khuôn miệng tương đối mềm
dẻo. Việc chuyển từ âm này qua âm kia được thực hiện nhanh, tự nhiên, trẻ không
cảm thấy quá căng thẳng khi tập trung nghe phát âm mẫu. Bên cạnh đó, vẫn còn
một số trẻ phát âm lệch chuẩn về âm đệm (trong trường hợp kết hợp với một số
phụ âm đầu khó) và các phụ âm không đặc trưng cho phương ngữ Bắc Bộ (“s”,
14


“tr”, “r”). Việc nói thanh điệu khá nhanh và nhuần nhuyễn, song nhiều trẻ còn
ngắc ngứ khi nói những từ có hai thanh hỏi liền nhau. Tính ý thức và ý chí thể
hiện rõ, trẻ có sự cố gắng nhất định mà không lảng tránh hoặc thụ động trước
hoàn cảnh phát âm mới. Việc nói ngữ điệu, trọng âm logic thành thạo hơn, trên cơ
sở nghe - hiểu, thể hiện ở việc biết thay thế một số từ (thậm chí cụm từ), để bật ra
lời nói mà vẫn giữ được ý tưởng của câu, đặc biệt khi gặp câu mẫu là những câu
dài; (2) Về KN sử dụng từ (ĐTB = 2,22): Vốn từ của trẻ MG nhỡ phong phú hơn.
Trẻ biết dùng đến động từ, và cả tính từ để miêu tả về sự vật hiện tượng. Trẻ sử
dụng từ khá phù hợp với tình huống, song đôi lúc chưa chính xác về nghĩa hoặc
còn rập khuôn, máy móc; (3) Về KN sử dụng ngữ pháp (ĐTB = 2,88): Trẻ nói
được câu dài, với nhiều thành phần hơn, tuy chưa hoàn toàn đúng trật tự ngữ
pháp nhưng đã đảm bảo cấu trúc cơ bản. Ngoài ra, việc sử dụng ngữ điệu tương
đối thành thục nên lời nói khá rõ ràng, giúp trẻ thể hiện ý tốt hơn. Dù vậy, trẻ
MG nhỡ vẫn còn ngập ngừng, ngắc ngứ khi diễn đạt, một phần do thiếu từ, phần
khác do nhu cầu nói chưa rõ ràng. Hiện tượng “nói ngược” hoặc nói chưa
hết/chưa rõ ý vẫn còn tồn tại ở độ tuổi này; (4) Về KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể

hiện ý phù hợp với tình huống lời nói (ĐTB = 2,83): Việc diễn đạt các ý tưởng lưu
loát, sáng rõ hơn, giúp cho việc chơi trong nhóm trở nên dễ dàng, ăn ý hơn. Trẻ
biết dùng lời nói để bộc lộ ý muốn nói, cũng như điều chỉnh lẫn nhau trong quá
trình chơi. Việc kết hợp giữa hành động tay chân và lời nói trong khi chơi được
thực hiện phù hợp và nhuần nhuyễn. Dù vậy, trẻ MG nhỡ chưa phát hiện ra mối
liên hệ giữa các góc chơi để tạo ra sự hoàn chỉnh trong hành động chơi giữa các
góc với nhau và thực hiện lời nói theo vai chơi ở các góc này.
c. Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi)
Bảng 3.7: Mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo lớn
STT
1
2
3
4

Kỹ năng

ĐTB

ĐLC

Mức độ

KN sử dụng ngữ âm
KN sử dụng từ

4,34
2,72

0,295

0,192

Rất cao
Tr.bình

KN sử dụng ngữ pháp
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện
ý phù hợp với tình huống lời nói

3,11

0,096

Tr.bình

3,14

0,169

Tr.bình

3,33

0,146

Tr.bình

CHUNG

Nhận xét: Dù vẫn ở mức trung bình, song KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG lớn

có nhiều chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể là: (1) Về KN
sử dụng ngữ âm (ĐTB = 4,34): Trẻ phát âm to, rõ, chính xác. Việc phát âm âm
vị, nói thanh điệu, ngữ điệu được thực hiện đúng, nhanh, nhuần nhuyễn. Khi
thực hiện các bài tập này, trẻ hầu như không gặp khó khăn gì đáng kể; (2) Về KN
sử dụng từ (ĐTB = 2,72): Vốn từ của trẻ vẫn còn những hạn chế nhất định,
15


nhưng việc sử dụng thành thạo hơn. Trẻ dùng lời nói để thể hiện ý trong giao
tiếp nhanh, tự nhiên, thoải mái hơn, ít khi lúng túng, ngắc ngứ hoặc dùng từ sai
hẳn về nghĩa. Tuy nhiên, hiện tượng ghép từ hoặc dùng lẫn nghĩa của từ như ở
tuổi MG nhỡ vẫn còn; (3) Về KN sử dụng ngữ pháp (ĐTB = 3,11): Nói được câu
dài, có nhiều thành phần phức tạp là ưu điểm nổi bật. Trẻ sử dụng ngữ điệu khá
rõ và sắc nét, nhất là trẻ nữ. Thêm vào đó, mức độ sử dụng hư từ của trẻ đúng
hơn, thường xuyên và phù hợp hơn, khiến cho câu nói trở nên gãy gọn, có bối
cảnh không gian và thời gian xác định; (4) Về KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể
hiện ý phù hợp với tình huống lời nói (ĐTB = 3,14): Trẻ MG lớn đóng vai theo
chủ đề và thực hiện hành động nói theo vai chơi khá sinh động. Việc kết hợp
giữa chơi và nói diễn ra tự nhiên, không gượng ép. Ngoài ra, trẻ biết kết nối góc
chơi này với góc chơi khác, tạo ra bối cảnh chơi có nhiều điểm tương đồng với
“xã hội người lớn”, trong đó hành động nói và hành động chơi ở từng góc và
giữa các góc với nhau có sự liên kết khá chặt chẽ, mang tính tổ chức cao, phát
huy được vai trò của các thành viên trong khi chơi.
3.1.6. Sự thay đổi mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo qua hai
năm học (2013 - 2014 và 2014 - 2015)
a. Sự thay đổi mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ từ mẫu giáo bé lên
mẫu giáo nhỡ: (1) Qua hai năm học, KN nói của 60 trẻ MG bé (sinh năm 2010)
của cả 2 trường (29 trẻ của trường MN Hoa Thủy Tiên và 31 trẻ của trường MN
Tân Hội) tăng 0,53 điểm (từ 2,44 điểm, năm học 2013 - 2014 lên 2,97 điểm,
năm học 2014 - 2015). Sự khác biệt về điểm trung bình giữa 2 năm học này có ý

nghĩa thống kê; (2) Từ lớp MG bé lên MG nhỡ, KN tiến bộ rõ rệt nhất ở trẻ là
KN sử dụng ngữ âm (tăng 0,68 điểm). KN sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý và
KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói cũng tăng
lên đáng kể (0,57 điểm và 0,56 điểm). KN sử dụng từ để thể hiện ý tuy có tăng
nhưng mức tăng thấp nhất so với các kỹ năng khác (0,3 điểm), cho thấy vốn từ
của trẻ MG nhỡ tuy có tăng nhưng số lượng vẫn còn hạn chế và việc trẻ sử dụng
nghĩa của từ cũng chưa thật tốt; (3) Tính đúng đắn, tính thành thục và tính linh
hoạt của KN nói đều tăng, với mức tăng gần bằng nhau (khoảng 0,5 điểm).
b. Sự thay đổi mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ từ mẫu giáo nhỡ lên
mẫu giáo lớn: 1) Qua hai năm học, KN nói của 67 trẻ MG nhỡ (sinh năm 2009)
của cả 2 trường (34 trẻ của trường MN Hoa Thủy Tiên và 33 trẻ của trường MN
Tân Hội) tăng 0,31 điểm (từ 3,02 điểm, năm học 2013 - 2014 lên 3,33 điểm, năm
học 2014 - 2015). Sự khác biệt về điểm trung bình giữa 2 năm học này có ý nghĩa
thống kê; (2) Từ MG nhỡ lên MG lớn, KN tăng rõ nhất là KN sử dụng từ (tăng
0,49 điểm). Ba KN còn lại tăng với mức thấp hơn: từ 0,19 điểm (KN sử dụng ngữ
pháp) đến 0,25 điểm (KN sử dụng ngữ âm) và 0,29 điểm (KN sử dụng tiếng mẹ
16


đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói). Tính đúng đắn, tính thành thục,
tính linh hoạt đều tăng, với mức tăng tương đối đồng đều (khoảng 0,3 điểm).
c. Sự thay đổi mức độ kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ từ mẫu giáo bé lên
mẫu giáo lớn: Do thời gian nghiên cứu có hạn nên chúng tôi chưa có điều kiện
theo dõi thêm sự phát triển KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG trong năm học 2015
- 2016 đối với những trẻ sinh năm 2010 (là MG bé khi mới được nghiên cứu).
Tuy nhiên, dùng phép so sánh bắc cầu với những kết quả thu được (KN nói của
trẻ từ MG bé lên MG nhỡ, và từ MG nhỡ lên MG lớn đều tăng) cho phép nhận
định KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG từ 3 - 5 tuổi (MG bé đến MG lớn) phát
triển tốt dần lên theo thời gian, cả ở từng KN thành phần và ở các tiêu chí đánh
giá KN. Kiểm định t-test so sánh hai mẫu độc lập (p < 0,05) cho thấy có sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình của từng KN thành phần cũng như
các tiêu chí đánh giá KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ từ lớp bé lên lớp lớn. Trong đó,
mức độ KN nói của trẻ ở giai đoạn MG bé lên MG nhỡ nhanh hơn về tốc độ tăng
và rõ rệt hơn về lượng so với giai đoạn từ MG nhỡ đến MG lớn.
3.2. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ
mẫu giáo: Các yếu tố được xem xét đều có ảnh hưởng nhất định đến KN nói
tiếng mẹ đẻ của trẻ MG (ở mức trung bình, với ĐTB = 2,95). Trong đó, nhóm
yếu tố chủ quan ảnh hưởng rõ rệt hơn so với nhóm yếu tố khách quan (ĐTB =
3,18, so với 2,72). Cụ thể là:
* Về yếu tố chủ quan: Các yếu tố nêu ra đều có ảnh hưởng nhất định đến KN
nói tiếng mẹ đẻ của trẻ (ĐTB = 3,18). Có 4 yếu tố chủ quan ảnh hưởng rõ rệt
nhất, lần lượt là: “Trình độ nắm vững ngôn ngữ nói tiếng mẹ đẻ của trẻ” (ĐTB =
4,25), “Nhu cầu, hứng thú nói của trẻ” (ĐTB = 4,17), “Khả năng bắt chước ngôn
ngữ nói của người khác” (ĐTB = 3,91), “Việc tích cực sử dụng ngôn ngữ nói
trong các hoạt động của trẻ” (ĐTB = 3,80).
* Về yếu tố khách quan: Các yếu tố thuộc về cha mẹ (hoặc người chăm sóc
trẻ thường xuyên) và giáo viên có ảnh hưởng rõ rệt (ĐTB = 2,79 và 2,81). Trong
đó, có 2 yếu tố quan trọng nhất (của cả cha mẹ và giáo viên) chi phối rõ nét đến
việc hình thành và phát triển KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ, là sự tích cực giao tiếp,
tương tác với trẻ và phương pháp dạy trẻ nắm vững tiếng mẹ đẻ. Các yếu tố
khách quan khác như môi trường ngôn ngữ - văn hóa, chương trình dạy học,
phương tiện, trang thiết bị dạy học…cũng có ảnh hưởng nhất định đến KN nói
của trẻ, song không rõ bằng hai yếu tố trên.
* Phân tích mối tương quan và dự báo tác động thay đổi của các yếu tố
ảnh hưởng tới kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
Trên cơ sở chọn ra 2 yếu tố chủ quan và 2 yếu tố khách quan có điểm trung
bình cao nhất và sử dụng kỹ thuật hồi quy tuyến tính bội, có thể dự đoán sự thay
17



đổi KN nói của trẻ (là biến số phụ thuộc) khi có sự tác động của các yếu tố này (là
biến số độc lập). Có 3 mô hình dự đoán được thiết lập, trong đó, mỗi mô hình có
ít nhất 01 yếu tố chủ quan và 01 yếu tố khách quan. Mức độ ảnh hưởng của từng
mô hình này đến KN nói của trẻ MG như sau:
Bảng 3.8: Mối tương quan và dự báo tác động thay đổi của các yếu tố
tới kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
Biến phụ thuộc
(Kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ)
Các biến độc lập
M.hình 1 M.hình 2 M.hình 3
Trình độ nắm vững tiếng mẹ đẻ của trẻ
0,281**
0,264**
0,205**
PP dạy trẻ nắm vững tiếng mẹ đẻ của người lớn
0,161**
0,253**
0,170**
Nhu cầu, hứng thú nói của trẻ
0,057**
0,100**
Cách thức tương tác, giao tiếp của người lớn với trẻ
0,132**
Hằng số
1,860**
1,525**
1,473**
Hệ số R bình phương
0,631
0,773

0,801
***
***
Hệ số F của phân tích ANOVA
163,885
217,337
191,475**
Mẫu phân tích
195
195
195
(Chú thích: ** p<0,01 ***p < 0,001)

Nhận xét: Cả 3 mô hình đều có mức giải thích khá tốt về sự ảnh hưởng của
các yếu tố đến KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG (từ 63,1% đến 80,1%). Mô hình 1
có 2 biến số, mỗi mô hình sau lần lượt tăng một biến số. Trong cả 3 mô hình, các
biến số dự đoán đều có ý nghĩa thống kê và có tương quan thuận, chặt chẽ với
KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ.
- Ở mô hình 1: Biến số “trình độ nắm vững tiếng mẹ đẻ” có khả năng giải
thích tốt nhất cho mức độ KN nói của trẻ. Biến số này tăng lên một mức thì mức
độ KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ sẽ tăng lên 0,281 điểm, cho thấy, trẻ càng nắm
vững tiếng mẹ đẻ thì KN nói sẽ càng tốt. Biến số “phương pháp dạy nắm vững
tiếng mẹ đẻ của người lớn” cũng rất quan trọng, khi biến số này tăng lên một
mức thì KN nói của trẻ tăng lên 0,161 điểm. Sự phối kết hợp của 2 yếu tố này tạo
ra sự tác động khá mạnh mẽ tới KN nói của trẻ, có thể dự báo cho tỷ lệ thay đổi
KN nói của trẻ là tương đối lớn (63,1%).
- Ở mô hình 2: Mô hình 2 được xây dựng bằng cách đưa thêm biến số “Nhu
cầu, hứng thú nói của trẻ” so với mô hình 1, làm khả năng giải thích tăng lên
đáng kể (0,773 so với 0,631 của mô hình 1). Khi thêm biến số thứ 3 này, cả biến
số 1 và biến số 2 đều tăng lên so với mô hình 1, cho thấy nhu cầu, hứng thú nói

tuy không quyết định trực tiếp đến KN nói của trẻ nhưng lại là điều kiện thuận
lợi để phát huy vai trò của 2 biến số nói trên. Sự phối kết hợp của 3 yếu tố này
tạo ra sự tác động khá mạnh mẽ tới KN nói của trẻ và có thể dự báo cho tỷ lệ
thay đổi KN nói của trẻ là tương đối lớn (77,3%).
- Ở mô hình 3: Mô hình 3 được xây dựng bằng cách đưa thêm biến số
“Cách thức tương tác, giao tiếp của người lớn với trẻ” so với mô hình 2, làm
tăng khả năng giải thích từ 63,1% (mô hình 1) lên 80,1% (mô hình 3). Biến số
này cũng có ý nghĩa thống kê. Nó mô tả nếu người lớn thay đổi cách thức tương
18


tác, giao tiếp với trẻ theo hướng tôn trọng, cởi mở, khuyến khích (thay vì áp đặt
hoặc đe nẹt) thì KN nói của trẻ sẽ tăng lên 0,132 điểm. Khi thêm biến số này vào
mô hình, nó lại có tác dụng làm tăng nhu cầu, hứng thú nói của trẻ (từ 0,057
điểm, ở mô hình 2 lên 0,100 điểm ở mô hình 3). Sự phối kết hợp của 4 biến số
này tạo ra sự tác động khá mạnh mẽ tới KN nói của trẻ và có thể dự báo cho tỷ lệ
thay đổi KN nói của trẻ là rất lớn (80,1%).
Trong 3 mô hình trên, mô hình 3 cho ta khả năng giải thích tốt nhất với hằng
số đạt 1,473 và R2 = 0,801 và phản ánh rõ sự tương tác lẫn nhau giữa 4 biến số
được đưa vào. Đồng thời, ở cả 3 mô hình (với 2 yếu tố chủ quan và 2 yếu tố
khách quan), biến số “trình độ nắm vững tiếng mẹ đẻ của trẻ” luôn là yếu tố chủ
quan đạt điểm cao nhất; biến số “phương pháp dạy tiếng mẹ đẻ của người lớn
cho trẻ” luôn là yếu tố khách quan đạt điểm cao nhất. Vì vậy, muốn nâng cao
KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ, lý tưởng nhất là tăng cả 4 yếu tố này. Tuy nhiên,
trong những điều kiện cụ thể, nếu không có được cả 4 yếu tố để tác động đến KN
nói của trẻ thì người lớn cần quan tâm đến 2 yếu tố cơ bản là trình độ nắm vững
của trẻ và phương pháp dạy trẻ nắm vững tiếng mẹ đẻ.
3.3. Phân tích một số chân dung tâm lý: Chúng tôi phân tích chân dung tâm lý
của 03 trường hợp trẻ MG để minh họa rõ hơn cho kết quả nghiên cứu thực
trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ.

3.4. Thực nghiệm tác động: Từ cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu, chúng
tôi đề xuất 2 biện pháp thực nghiệm: (1) Tạo môi trường nói tiếng mẹ đẻ; (2) Cung
cấp lời nói mẫu phù hợp với tình huống lời nói. Thực nghiệm được tiến hành trên
35 trẻ lớp MG bé (MN Tân Hội), đối chứng trên 33 trẻ MG bé (MN Hoa Thủy
Tiên). Hai nhóm trẻ này tương đương nhau về các điều kiện học tập (giáo viên, cơ
sở vật chất), giới tính (tỉ lệ trẻ nam - nữ trong một lớp), và mức độ KN nói đạt được
trước thực nghiệm. Kết quả như sau:
3.4.1. Đánh giá chung sự thay đổi kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu
giáo trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng
Bảng 3.9: Sự thay đổi kỹ năng nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo
trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng
Tiêu chí
Tính
đúng đắn
Tính
thành thục
Tính
linh hoạt
CHUNG

ĐTB

Trước TN
ĐLC
Mức

ĐTB

Sau TN
ĐLC

Mức

Lớp đối chứng
ĐTB ĐLC
Mức

2,09

0,232

Thấp

2,39

0,200

Thấp

2,12

0,198

Thấp

1,86

0,245

Thấp


2,24

0,197

Thấp

1,93

0,205

Thấp

1,72

0,249

R.Thấp

2,13

0,191

Thấp

1,78

0,213

R.Thấp


1,89

0,241

Thấp

2,25

0,196

Thấp

1,94

0,204

Thấp

Nhận xét: Sau thực nghiệm, KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ đã được cải thiện ở
mức độ nhất định (ĐTB = 2,25), so với lớp đối chứng (1,94) và trước thực
nghiệm (1,89). Tuy vẫn ở mức thấp, nhưng về điểm trung bình, KN nói tiếng mẹ
đẻ của trẻ đã được tăng lên một cách có ý nghĩa. Kiểm định t-test so sánh cặp
(p< 0,05) cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình
19


trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng ở tính đúng đắn, tính thành thục,
tính linh hoạt khi trẻ thực hiện KN nói tiếng mẹ đẻ. Trong đó, tính thành thục và
linh hoạt tăng rõ rệt hơn so với tính đúng đắn.
3.4.2. Đánh giá sự thay đổi các kỹ năng thành phần trong kỹ năng nói

tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng
a. Sự thay đổi kỹ năng sử dụng từ để thể hiện ý của trẻ mẫu giáo trước - sau
thực nghiệm và với lớp đối chứng: KN sử dụng từ của trẻ MG có sự thay đổi
một cách có ý nghĩa (ĐTB = 1,97) so với trước thực nghiệm (ĐTB = 1,59) và
với lớp đối chứng (ĐTB = 1,69). Trước thực nghiệm, đây là KN mà trẻ gặp khó
khăn nhiều nhất, do việc hiểu và tích cực hóa vốn từ ở trẻ còn hạn chế. Dưới tác
động của biện pháp thực nghiệm, trẻ hiểu từ, ghi nhớ từ tốt hơn và dần chuyển
những từ đó thành vốn kinh nghiệm riêng của mình. Điểm tiến bộ rõ là số lượng
động từ và tính từ nhiều hơn; việc huy động từ nhanh hơn.
b. Sự thay đổi kỹ năng sử dụng ngữ pháp tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý của trẻ mẫu
giáo trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng: KN sử dụng ngữ pháp của trẻ
MG có sự thay đổi đáng kể (ĐTB = 2,38) so với trước thực nghiệm (ĐTB = 2,08)
và với lớp đối chứng (ĐTB = 2,10). Kiểm định t-test so sánh cặp (p < 0,05) cho
thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giá trị trung bình trước - sau thực
nghiệm và với lớp đối chứng ở tính đúng đắn, tính thành thục, tính linh hoạt khi
thực hiện KN sử dụng ngữ pháp để thể hiện ý. Trẻ biết nói câu đầy đủ hơn, giảm
hiện tượng “nói trống không” (thiếu chủ ngữ). Ngữ điệu được thể hiện linh hoạt
hơn với việc thay đổi âm điệu giọng nói kết hợp với các sắc thái biểu cảm khác
của khuôn mặt, cơ thể…
c. Sự thay đổi kỹ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống
lời nói của trẻ mẫu giáo trước - sau thực nghiệm và với lớp đối chứng: KN sử
dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý của trẻ MG có sự tiến bộ so với trước thực
nghiệm và với lớp đối chứng một cách có ý nghĩa. Điểm trung bình của KN này
sau thực nghiệm là 2,42; cao hơn so với trước thực nghiệm 0,41 điểm và lớp đối
chứng là 0,39 điểm. Xét trong các biểu hiện của KN, có hai biểu hiện mà sự thay
đổi thể hiện rõ nhất là “thể hiện ý phù hợp với vai chơi” (ĐTB = 2,80, tăng so
với trước thực nghiệm 0,54 điểm) và “thể hiện ý rõ ràng, lưu loát” (ĐTB = 2,43,
tăng so với trước thực nghiệm 0,46 điểm). Biểu hiện “nói rõ ý, dễ hiểu” và “phát
triển ý” tuy có tăng nhưng mức độ thấp hơn (khoảng 0,3 điểm).
3.4.4. Phân tích một số chân dung tâm lý: Chúng tôi phân tích chân dung

tâm lý của 02 trẻ MG bé, lớp thực nghiệm, để minh họa cho tác động tích cực
của biện pháp tâm lý - sư phạm được đề xuất.
Tiểu kết chương 3: Kết quả nghiên cứu thực trạng KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ
MG cho thấy: (1) KN nói của trẻ hiện nay ở mức trung bình; (2) Trong các KN
20


thành phần, KN sử dụng ngữ âm để thể hiện ý được thực hiện tốt hơn cả, KN mà
trẻ MG còn gặp nhiều khó khăn là KN sử dụng từ để thể hiện ý; (3) KN nói của
trẻ phản ánh rõ nét tính bắt chước; (4) Có sự khác biệt về KN nói tiếng mẹ đẻ của
trẻ MG nói chung, các KN thành phần nói riêng theo phương diện giới tính, độ
tuổi; (5) KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ có sự thay đổi tích cực theo thời gian (qua 2
năm học); (6) Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến KN nói tiếng mẹ đẻ của
trẻ. Trong đó, yếu tố ảnh hưởng rõ nhất là trình độ nắm vững tiếng mẹ đẻ của trẻ,
phương pháp dạy nắm vững và sự tích cực tương tác, giao tiếp của người lớn với
trẻ; (7) Sau thực nghiệm, KN nói của trẻ MG tăng lên một cách có ý nghĩa so với
trước thực nghiệm và lớp đối chứng, cho phép kết luận biện pháp thực nghiệm
được đề xuất có tính khả thi.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1.1. Tổng quan các nghiên cứu cho thấy, KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mầm non
nói chung và trẻ mẫu giáo nói riêng, được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở nước ngoài, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về vấn đề này nhưng ở
Việt Nam, các công trình nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học còn ít.
1.2. KN nói tiếng mẹ đẻ không tách rời hoạt động nói và các hoạt động khác
của con người. Nói vừa nhằm thể hiện ý muốn diễn đạt của việc nói, vừa nhằm
đạt được mục đích của hoạt động mà nó đang thực hiện, vì vậy, nói có bản chất
hoạt động. Khi nói, cá nhân huy động nhiều kinh nghiệm khác nhau, đặc biệt là
kinh nghiệm về ngôn ngữ nói tiếng mẹ đẻ, để tạo nên nội dung, hình thức hoàn
chỉnh cho lời nói. Vì vậy, KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo vừa thể hiện mặt

kỹ thuật của hành động nói, vừa thể hiện năng lực nói của cá nhân; đó là sự vận
dụng những tri thức, kinh nghiệm hành động/hoạt động nói tiếng mẹ đẻ đã có
của trẻ vào thực hiện có kết quả hành động/ hoạt động sử dụng ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp theo quy định, để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói.
Ở trẻ MG, KN nói phản ánh rõ nét một trong những đặc trưng tâm lý của lứa
tuổi nhỏ là tính bắt chước. Đến lượt mình, sự bắt chước này vừa là một điều
kiện, vừa là một yếu tố ảnh hưởng ngược trở lại việc thực hiện KN nói tiếng mẹ
đẻ của trẻ.
KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG được biểu hiện ở bốn KN thành phần: KN sử
dụng ngữ âm để thể hiện ý, KN sử dụng từ để thể hiện ý, KN sử dụng ngữ pháp để
thể hiện ý và KN sử dụng tiếng mẹ đẻ để thể hiện ý phù hợp với tình huống lời nói.
Dựa vào đặc điểm KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG, có thể đánh giá KN này
qua 3 tiêu chí (tính đúng đắn, tính thành thục, tính linh hoạt) và ở 5 mức độ (rất
21


thấp, thấp, trung bình, cao, rất cao). KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ ở từng mức độ,
theo từng tiêu chí, đều có những biểu hiện cụ thể.
Sự hình thành và phát triển KN nói của trẻ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố
chủ quan và khách quan khác nhau.
1.3. KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG hiện nay ở mức trung bình. Trong đó, tính
đúng đắn đạt điểm cao nhất, tính linh hoạt đạt điểm thấp nhất; cho thấy, trẻ đã
nắm được ngôn ngữ nói tiếng mẹ đẻ ở mức độ nhất định, nhưng còn chưa ổn định,
bền vững và sáng tạo. Tuy nhiên, với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, đặc điểm phát
triển ngôn ngữ, KN nói ở mức này đã cho phép trẻ MG (nhất là trẻ nhỡ và lớn)
thể hiện được ý muốn nói. Giữa các tiêu chí đánh giá KN nói của trẻ có mối tương
quan thuận và chặt chẽ với nhau, trong đó, tính đúng đắn là tiêu chí chi phối tính
thành thục và tính linh hoạt.
Trong bốn KN thành phần của KN nói tiếng mẹ đẻ, trẻ thực hiện KN sử dụng
ngữ âm tốt hơn cả, song còn gặp nhiều khó khăn ở KN sử dụng từ để thể hiện ý.

Giữa các KN thành phần có mối tương quan thuận, chặt chẽ với nhau. Có sự
khác biệt về KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ nói chung, các KN thành phần nói riêng,
theo phương diện giới tính và độ tuổi.
KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ mẫu giáo có sự thay đổi tích cực theo thời gian (từ
MG bé lên MG lớn), cả về nội dung (các KN thành phần) và đặc điểm (tính đúng
đắn, tính thành thục, tính linh hoạt) của KN một cách có ý nghĩa.
KN nói bộc lộ rõ tính bắt chước, phản ánh mức độ quan sát và tiếp nhận của
trẻ về những lời nói, hành động giao tiếp, ứng xử của người lớn xung quanh. Sự
bắt chước được thể hiện từ phương diện nội dung lời nói, vai xã hội, bản sắc
giới, đến hình thức thể hiện (âm sắc, ngữ điệu, thái độ, cử chỉ kèm theo). Ban
đầu, sự bắt chước còn rập khuôn, thụ động (tuổi MG bé), nhưng càng về sau,
càng tăng dần tính ý thức, tính mục đích, chủ động và sáng tạo hơn (tuổi MG
nhỡ và lớn).
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến KN nói tiếng mẹ đẻ của trẻ MG. Trong đó,
các yếu tố chủ quan ảnh hưởng mạnh hơn so với yếu tố khách quan. Trong các
yếu tố chủ quan, trình độ nắm vững ngôn ngữ nói của trẻ là yếu tố quan trọng
nhất. Trong các yếu tố khách quan, phương pháp dạy trẻ nắm vững ngôn ngữ nói
tiếng mẹ đẻ và sự tích cực tương tác, giao tiếp của người lớn với trẻ là hai yếu tố
quan trọng nhất.
Có thể nâng cao KN nói tiếng mẹ đẻ cho trẻ MG bằng cách tạo môi trường
nói tiếng mẹ đẻ và cung cấp lời nói mẫu phù hợp với tình huống lời nói. Sau
thực nghiệm, kết quả KN nói của trẻ được tăng lên một cách có ý nghĩa so với
trước thực nghiệm và lớp đối chứng, đã khẳng định tính khả thi của biện pháp
tác động tâm lý - sư phạm được đề xuất.
22


×