Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Luận văn thạc sĩ: Công nghiệp tỉnh Hà Nam 1997 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.2 KB, 107 trang )

MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài:

1.

Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp là ngành sản xuất giữ vai trò
rất quan trọng. Ngành công nghiệp sản xuất ra một khối lượng sản phẩm
khổng lồ phục vụ cho đời sống xã hội. Công nghiệp không những cung cấp
hầu hết các tư liệu sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho tất cả các
ngành kinh tế mà còn tạo ra các sản phẩm tiêu dùng có giá trị, góp phần phát
triển nền kinh tế và nâng cao trình độ văn minh của toàn xã hội. Công nghiệp
còn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác như nông
nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch vụ và củng cố an ninh quốc
phòng... Không một ngành kinh tế nào lại không sử dụng các sản phẩm của
công nghiệp. Vì vậy, để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo và lạc hậu, đối với
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam thì phát triển công nghiệp là
tất yếu. Phát triển công nghiệp được coi là điều kiện tiên quyết để thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của công nghiệp đối với sự phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, trong đường lối đổi mới của Đảng đã đề cập đến vấn
đề phatsb triển công nghiệp. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp. Thực hiện đường lối đổi mới
của Đảng từ năm 1986 đến nay nền kinh tế nước ta có bước phát triển rõ rệt đã
dạt được nhiều thành tựu to lớn đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế- xã hội, hội nhập với nền kinh tế quốc tế và khu vực.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trên con đường đổi mới,
từ xưa đến nay nhân dân Hà Nam không chỉ được biết đến là vùng đất giàu
truyền thống đấu tranh, và giàu truyền thống hiếu học mà ngày nay Hà Nam
còn được biết đến như một điểm sang về phát triển kinh tế nhất là kinh tế công
nghiệp. Hà Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ với những bước đi trên con



1

1


đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên sự phát triển công nghiệp của
Hà Nam mới chỉ là bước đầu, còn có rất nhiều tiềm năng để khai thác.
Khi tìm hiểu về sự phát triển của công nghiệp Hà Nam với mong muốn
là một người con của quê hương em muốn tìm hiểu thêm về lịch sử của quê
hương,đồng thời làm sáng tỏ một đường lối đổi mới của Đảng với chính sách
phát triển công nghiệp và vận dụng vào hoàn cảnh thực tế.
Khi tìm hiểu về sự phát triển của công nghiệp Hà Nam từ 1997-2013
cũng chính là cách thức rèn luyện phương pháp nghiên cứu lịch sử địa
phương nói riêng từ đó góp phần làm giàu thêm nguồn tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu lịch sử địa phương mình.
Chính vì những lý do trên tôi chọn vấn đề “ Công nghiệp tỉnh Hà
Nam 1997- 2013” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Với mục tiêu thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vấn đề phát triển công nghiệp đang được đặc biệt chú trọng ở nhiều cấp,
nhiều ngành, nhiều địa phương thì đây cũng là mối quan tâm lớn của các nhà
nghiên cứu. Vì vậy có rất nhiều công trình nghiên cứu đã nói đến công nghiệp
nói chung và công nghiệp Hà Nam nói riêng trong thời kì đổi mới. Tiêu biểu
trong số đó là các cuốn sách:
Cuốn "Công nghiệp Việt Nam 1945 - 2000", của tác giả Phạm Viết Muôn,
NXB Thống kê, 1997. Cuốn sách đã khái quát các chặng đường phát triển của
ngành công nghiệp từ năm 1945 đến năm 1995 và phương hướng, mục tiêu của
ngành đến năm 2000 cũng được đề cập đến.
Cuốn "Chính sách phát triển kinh tế công nghiệp Việt Nam trong quá trình

đổi mới", của tác giả Võ Đại Lược, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1987. Cuốn
sách đã nêu cụ thể những chính sách phát triển đối với ngành công nghiệp cả nước
trong thời kỳ đổi mới.

2

2


Cuốn "60 năm công nghiệp Việt Nam, NXB Lao động xã hội, Hà Nội, 2005.
Cuốn sách đã khái quát tình hình phát triển của ngành công nghiệp qua từng giai
đoạn, từng thời kỳ. Bên cạnh đó, những nhân tố mới của ngành trong thời kỳ đổi
mới và các ngành kinh tế, kỹ thuật và các cơ sở công nghiệp cũng được đề cập đến.

Trong “Niên giám thống kê 2004” – NXB Thống kê Hà Nội 2005 đa
đưa ra các chỉ số phát triển của công nghiệp Hà Nam về cơ cấu giá trị công
nghiệp của Hà Nam so với cả nước, cơ cẩu giá trị sản xuất công nghiệp phân
theo ngành, theo thành phần kinh tế. Những số liệu thống kê này chỉ dừng lại
ở việcđưa ra các số liệu thể hiện sự phát triển của công nghiệp.
Cuốn "Công nghiệp Việt Nam 20 năm đổi mới và phát triển", NXB Thống
kê, 2006... đã dựng lại bức tranh về quá trình phát triển công nghiệp cả nước thời kỳ
1985 - 2005. Những thành tựu, hạn chế của ngành công nghiệp từ năm 1985 đến
2006 và những yếu tố tạo điều kiện cho ngành phát triển, nguyên nhân của những
hạn chế cũng được đề cấp đến. Ngoài ra, các số liệu về sự phát triển ngành công
nghiệp từ 1985 - 2005 cũng được phản ánh đầy đủ.
Mặc dù không trực tiếp viết về công nghiệp tỉnh Hà Nam nhưng những cuốn
sách trên đã giúp tác giả có cơ sở lý luận để thực hiện nhiệm vụ của luận văn.

Dưới góc độ địa phương Hà Nam, đã có một số công trình nghiên cứu
đề cập đến sự phát triển công nghiệp của tỉnh trong thời kỳ đổi mới.

Cuốn "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam" tập I, (1930 - 1975), NXB Chính trị
Quốc gia của Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nam, 1996, đã nêu lên một vài nét sơ
lược về tình hình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dưới thời Pháp thuộc.
Cuốn "Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Nam" tập II (1975 - 2000), NXB Chính trị
Quốc gia của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Nam, 2005, đã ghi lại các sự kiện
tiêu biểu, những cống hiến, đóng góp của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Nam trong
suốt 25 năm xây dựng và bảo vệ quê hương, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội,
thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua đó, tình hình và
sự phát triển ngành công nghiệp cũng được phản ánh khá sinh động.

Ngoài ra còn có các bài báo đăng trên báo Hà Nam đề cập đến những
vấn đề phát triển của nền công nghiệp Hà Nam trong thời gian 1997-2013.
3

3


Có thể thấy, những tác phẩm trên đã đề cập đến các mặt khác nhau về tình
hình phát triển công nghiệp tỉnh Hà Nam trong thời kỳ đổi mới. Nhưng những tác
phẩm trên mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả ở từng mặt, ở từng thời gian
khác nhau. Việc nghiên cứu một cách tổng thể và hệ thống về quá trình phát triển
công nghiệp của tỉnh Hà Nam từ 1997 đến 2013 thì chưa có công trình lịch sử
chuyên biệt nào tập trung nghiên cứu. Chính vì vậy, mà tôi chọn đề tài này để
nghiên cứu và các công trình trên đã cung cấp nguồn tư liệu quan trọng, phong phú
và gợi ý phương hướng để tôi nghiên cứu đề tài này.

3. Mục tiêu, nhiệm vụ đề tài
* Mục tiêu: Tìm hiểu tình hình phát triển công nghiệp của tỉnh Hà Nam
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để làm sáng rõ hơn quá trình
công nghiệp hóa của cả nước nói chung và của địa phương nói riêng.

* Nhiệm vụ đề tài:
- Khái quát những điều kiện tác động đến sự phát triển của công nghiệp
Hà Nam
- Phân tích rõ quy mô sản xuất, cơ cấu và giá trị sản xuất công nghiệp
của Hà Nam thời kì 1997- 2013
- Phân tích tác động của công nghiệp Hà Nam tới tình hình kinh tế- xã
hội của từng địa phương.
- Tổng kết những thành tựu, hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm và đề
xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy công nghiệp phát triển
4. Đối tượng, phạm vi đề tài, nguồn tài liệu
* Đối tượng: Đề tài tập trung tìm hiểu các ngành, các cơ sở công
nghiệp của tỉnh Hà Nam từ năm 1997 đến năm 2013
* Phạm vi đề tài:
- Giới hạn thời gian: Từ năm 1997 (là năm tỉnh Hà Nam được tái lập)
đến năm 2013.
- Giới hạn không gian là tỉnh Hà Nam, gồm 5 huyện (Duy Tiên,Lý
Nhân, Kim Bảng, Thang Liêm, Bình Lục) và 1 thành phố (thành phố Phủ Lý).
4

4


5. Nguồn tài liệu và Phương pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
- Tài liệu lưu trữ của tỉnh (Niên giám thống kê, Báo cáo hàng năm của
UBND và các sở ban ngành).
- Các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các Văn kiện Đại hội đại biểu
tỉnh Hà Nam.
- Các sách báo chuyên khảo … có liên quan.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng các tài liệu điều tra thực địa, điền dã

* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng 2 phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử kết
hợp với phương pháp lôgic.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác như:
phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... nhằm đảm bảo tính
khách quan, khoa học của các nội dung nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận văn.
Khi nghiên cứu đề tài “Công nghiệp Hà Nam 1997-2013” khóa luận đã
hệ thổng hóa những chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp của Hà
Nam trong thời kì đổi mới. Đồng thời luận văn cũng đã dựng lại bức tranh về
tình hình phát triên công nghiệp Hà Nam từ khi tái lập tỉnh đến năm 2013.
Thông qua đó luận văn đã rút ra những bài học kinh nghiệm đề xuất những
giải pháp pháp triển công nghiệp của địa phương trong thời gian tới. Khóa
luận còn là nguồn tài liệu nghiên cứu cho nhiều công trình có liên quan.
Ngoài ra, luận văn còn cung cấp nguồn tư liệu hoàn chỉnh, hệ thống về
tình hình phát triển công nghiệp cho các nhà nghiên cứu về Hà Nam.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, phần nội dung được
chia làm 3 chương sau.

5

5


Chương 1: Các điều kiện tác động đền sự phát triển công nghiệp của
tỉnh Hà Nam
Chương 2: Tình hình công nghiệp tỉnh Hà Nam trong thời kì 1997 -2013
Chương 3: Tác động của sự phát triển công nghiệp đến tình hình kinh
tế- xã hội tỉnh Hà Nam thời kì 1997- 2013


CHƯƠNG I:
CÁC ĐIỀU KIỆN TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CÔNG NGhIỆP
TỈNH HÀ NAM THỜI KÌ 1997- 2013
1. 1. Điều kiện tự nhiên.
1.1. Vị trí địa lý
Hà Nam là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng là cửa ngõ giao lưu kinh tế
xã hội giữa các tỉnh phía Bắc với các tỉnh phía Nam, nằm trong tọa độ địa lý
20021,- 21o45, độ vĩ Bắc đến 105o45,- 106o10, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội về
phía Bắc; phía Đông giáp với tỉnh Hưng Yên, Thái Bình; phía Nam giáp với
Nam Định; phía Tây Nam giáp với Ninh Bình; phía Tây giáp với Hòa Bình.
Hà Nam có diện tích đất tự nhiên 860.115 km 2 (chiếm 0,25% diện tích đất cả
nước, 4,08% diện tích ĐBSH, và xếp thứ 62/63 tỉnh thành phố trong cả nước);
gồm 6 đơn vị hành chính cấp huyện là thành phố Phủ Lý, huyện Duy Tiên,
Thanh Liêm, Kim Bảng, Lý Nhân, Bình Lục, và 116 đơn vị hành chính cấp
xã, gồm 6 xã phường, 7 thị trấn và 103 xã.
Hà Nam là “cửa ngõ của thủ đô” cách Hà Nội khoảng 60km về phía
Nam, nằm trên các tuyến đường giao thông huyết mạch của cả nước như
đường bộ, đường sắt, đường thủy
Đường bộ: Hà Nam có 5050,8km đường bộ, trong đó QL 120 km gồm
các đường quan trọng như QL 1A chạy dọc tỉnh nối Hà Nam với Hà Nội ở các
tỉnh phía Bắc với Ninh Bình ở phía Nam, QL 21A chạy ngang tỉnh nối với
Hòa Bình ở phía Tây nối với Nam Định ở phía Nam, QL 21B đi Mỹ Đức- Hà
Nội, đường 971 và QL38 đi ra phía Đông (sông Hồng) ranh giới với các tỉnh
6

6


Hưng Yên. Đặc biệt trên đường 38 vừa qua đã xây xong cầu Yêu Lệnh, thông

xe nối liền Hà Nam vời Hưng Yên qua sông Hồng có tác dụng lớn rút ngắn
đoạn đường vận chuyển giảm lượng xe không cần qua Hà Nội trong lưu thông
đường bộ từ các tỉnh phía Đông như Hưng Yên, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải
Phòng….với các tỉnh phía Nam đồng bằng Bắc Bộ như Nam Định, Ninh
Bình…và theo chiều ngược lại.
Hệ thống đường tỉnh (tính cả đường nội thị) của Hà Nam cũng khá phát
triển. Tổng chiều dài của mạng đường tỉnh là 312km với 35 tuyến, trong đó
tỉnh quản lý 7 tuyến còn lại ủy thác cho các huyện quản lý. Các đường tỉnh
đều đạt tiêu chuẩn đường cấp V hoặc cấp IV đồng bằng. Không những thế Hà
Nam còn được đánh giá là một trong những tỉnh có hệ thống giao thông nông
thôn hiện đại và đồng bộ. Tính đến thời điểm hiện nay mạng lưới giao thông
nông thôn có tổng chiều dài 4519 km, trong đó đường huyện:192 km, đường
xã và liên xã: 666 km, đường thôn xóm đường ra đồng: 3661 km. Toàn bộ các
tuyến đường này đều được rải nhựa hoặc đổ bê tông, mặt đường tương đối
rộng, bằng phẳng, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân trong tỉnh.
Đường sắt: có đường sắt Bắc Nam dài 30km và 10km đường chuyên
dùng. Có 3 ga chính: ga Đồng Văn, ga Phủ Lý, ga Bình Lục và các ga đều
nằm ở trung tâm thành phố, thị trấn nền rất thuận tiện cho vận chuyển hàng
hóa và nhân dân đến các tỉnh trong cả nước. Đường sắt chuyên dùng (Phủ LýKiện Khê) đi và khu sản xuất VLXD phục vụ trực tiếp việc cung cấp nguyên
vật liệu, tiêu thụ sản phẩm đá, xi măng, vôi, bột nhẹ….
Đường sông: trên địa bàn Hà Nam có 2 sông lớn do trung ương quản lý
là sông Hồng và sông Đáy, ngoài ra còn có các sông khác.
Sông Hồng dài khoảng 35km nằm ở phía Bắc và Đông Bắc của tỉnh
chảy qua 2 huyện Duy Tiên và Lý Nhân rất thuận lợi cho vận tải đường thủy
Sông Đáy nằm ở phía Tây của tỉnh có chiều dài 40km chảy qua 2 huyện
Kim Bảng và Thanh Liêm. Hiện nay đoạn sông Đáy qua Hà Nam chưa được
nạo vét. Đoạn từ Phủ Lý đến xã Thanh Hải huyện Thanh Liêm vẫn đảm bảo
cho tàu có trọng tải 200- 300 tấn đi lại thuận tiện
7


7


Sông Châu: dài 50km, rộng trung bình 30-40 m từ Phủ Lý chảy qua các
huyện Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục, Lý Nhân. Hiện nay tỉnh đang thực
hiện dự án Tắc Giang nhằm khai thông sông Châu với sông Hồng để lấy nước
từ sông Hồng về sông Châu, sông Đáy phục vụ cho tưới đồng ruộng Hà Nam,
Ninh Bình. Đồng thời mở thông tuyến vận tải đường sông từ Hà Nam qua
sông Hồng đến với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Sông Nhuệ: dài 18km, rộng trung bình 60m, sâu 2m chảy qua huyện
Kim Bảng, Duy Tiên hiện đang bị ô nhiễm nặng do nước thải từ Hà Nội đổ
về. Hiện nay Chính phủ các địa phương Hà Nội và Hà Nam đang quan tâm
xử lý ô nhiễm môi trường khu vực này.
Sông Sắt dài 17km, rộng trung bình 45m, sâu khoảng 1m có nhiệm vụ
chủ yếu dẫn nước tưới cho huyện Bình Lục
Hiện tại việc đầu tư cải tạo trên địa bàn tỉnh mới chỉ dừng ở công tác
quản lý chống lần chiếm, chống sạt lở. Các điều kiện tĩnh về luồng lạch rất
thuận lợi cho hoạt động vận tải nhưng chưa được khai thác hữu hiệu do trên
các tuyến có 3 đập ngăn nước, 10 cống thủy lợi, 6 cầu tạm các loại. Như vậy
hệ thống sông ngòi của Hà Nam còn nhiều tiềm năng chưa khai thác triệt để,
nếu được khai thác tốt đây sẽ đem lại nhiều thuận lợi cho Hà Nam phát triển
kinh tế của mình.
Hà Nam nằm gần các nguồn năng lượng lớn của quốc gia ở miền Bắc như
gần vùng than Quảng Ninh với trữ lượng lớn, gần thủy điện Hòa Bình. Hà Nam
được đáp ứng thỏa mãn nhu cầu về than và điện cho sản xuất công nghiệp.
Hơn nữa, Hà Nam cũng nằm gần địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc
với tuyến hành lang Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Điều này, cũng tạo
nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp của địa phương.
Có thể nói, với vị trí địa lý thuận lợi và hệ thống giao thông đường sắt,
đường bộ, đường sông phân bố hợp lý, cùng với quá trình hội nhập kinh tế

khu vực và quốc tế tạo điều kiện cho Hà Nam phát triển kinh tế và ngành
công nghiệp.
8

8


1.1.2. Địa hình, đất đai
* Về địa hình
Do vị trí địa lý nằm ở rìa phía châu thổ Đồng bằng sông Hồng - nơi có
sự đan xen giữa đồng bằng với núi đồi thuộc phức hệ Tây Bắc nước ta nên Hà
Nam có địa hình rất đa dạng và phức tạp, vừa có đồi núi và nửa đồi núi, vừa
có đồng bằng, vừa có vùng trũng Có thể chia địa hình theo 2 vùng chính:
- Đị a hì nh đồ i nú i : nằ m ở phí a Tây và Tây Nam củ a tỉ nh thuộ c 2
huyệ n Thanh Liêm và Kim Bả ng chiế m 20% diệ n tí ch toà n tỉ nh, có độ
cao tuyệ t đố i 378m, là vù ng tậ p trung nhiề u khoá ng sả n đá vôi, than
bù n….đây là tiề m năng lớ n cho phá t triể n công nghiệ p củ a tỉ nh đặ c biệ t
là công nghiệ p vậ t liệ u xây dự ng.
- Vùng đồng bằng : chiếm 71,1% diện tích tự nhiên, độ cao trung bình
0,9-1,2m so với mặt nước biển. Đất ở vùng này chủ yếu là đất phù sa được
bồi và không được bồi, tập trung một phần huyện Thanh Liêm và Kim Bảng,
còn lại chủ yếu ở Thành phố Phủ Lý, huyện Lý Nhân, Duy Tiên, Bình Lục.
Tiềm năng phát triển của vùng là nông nghiệp: Trồng lúa, rau màu, cây công
nghiệp ngắn ngày. Đây chính là nguồn nguyên liệu dồi dào cung cấp cho
ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Đặc biệt với địa hình
bằng phẳng như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dưng các khu
công nghiệp và cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
* Về đất đai
Bảng 1.1: Hiện trạng sử dụng đất năm 2013
TT

Loại đất
Tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó
1
Đất nông nghiệp
2
Đất dùng vào lâm nghiệp
3
Đất chuyên dùng
4
Đất khu dân cư
5
Đất chưa sử dụng

9

9

Diện tích (ha)
85.169
51.901
9.628
12.043
4.383
7.214

Cơ cấu (%)
100
60,9
11,3
14,2

5,2
8,4
Nguồn: [51, tr.7]


Qua bảng số liệu ta thấy tổng quỹ đất tự nhiên của tỉnh tính đến năm
2012 là 85.169 ha, đứng thứ 7 về diện tích tự nhiên trong 11 tỉnh, thành phố
thuộc khu vực Đồng bằng sông Hồng. Trong đó, tổng quỹ đất dùng cho sản
xuất (bao gồm đất nông nghiệp và lâm nghiệp) chiếm đa số,trên 70% diện tích
tự nhiên. Chỉ tính riêng đất nông nghiệp chiếm tới 60,9%, hơn một nửa tổng
diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Với tiềm năng đất đai như vậy sẽ tạo điều kiện
cho Hà Nam phát triển kinh tế nông nghiệp cho nông nông nghiệp nhiều,
cung cấp nguồn nguyên liệu dồi dào cho công nghiệp chế biến của ngành
công nghiệp. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 7.214 ha đất chưa sử dụng,
chiếm 8,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Đây cũng là tiềm năng có thể khai
thác sử dụng để phục vụ cho phát triển sản xuất công nghiệp.
Như vậy với nguồn tài nguyên đất đai đa dạng và phong phú như vậy,
tỉnh Hà Nam có điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp theo hướng đa
dạng hóa, sẽ cung cấp nguồn nguyên liệu phong phú cho công nghiệp. Ngoài
ra với diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn ta có thể khai thác vào việc xây
dựng các nhà máy xí nghiệp, xây dựng các cơ sở công nghiệp trong toàn tỉnh.
1.1.3. Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên rừng
Theo thống kê năm 2010 tiềm năng đất lâm nghiệp ở Hà Nam là 8.769
ha chiếm 10,3 % diện tích đất tự nhiên và tập trung chủ yếu ở hai huyện Kim
Bảng và Thanh Liêm. Trong đó diện tích rừng tự nhiên là 6.917 ha và rừng
trồng là 1.852 ha. Tài nguyên rừng của tỉnh có giá trị không lớn nhưng đây
cũng là nguồn nguyên liệu quan trọng cung cấp một phần nguyên liệu cho
ngành công nghiệp chế biến gỗ của tỉnh Hà Nam
* Tài nguyên nước

Tài nguyên nước trong tỉnh khá dồi dào và đa dạng bao gồm nước mặt
và nước ngầm trong đó:
Nguồn nước mặt: Hà Nam nằm trong vùng mưa lớn, lượng mưa trung
bình hàng năm 2.138 mm3 (nguồn niêm giám thống kê năm 2011) (nguồn
10

10


22,tr 7 ) Hà Nam có nguồn nước mặt dồi dào từ các song và một số hồ ao có
thể thỏa mãn về nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Song hiện nay nguồn
nước đang bị ô nhiễm nên đã ảnh hưởng không tốt đến việc cung cấp nguồn
nước của các nhà máy sản xuất nước sạch và tưới tiêu cho đồng ruộng.
Nguồn nước ngầm của Hà Nam qua các tài liệu khảo sát của Trung tâm
nước sạch và vệ sinh môi trường Sở nông nghiệp thì bị nhiễm ASEN nên việc
khai thác và sử dụng rất hạn chế.
* Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Hà Nam không phong phú và không có
nhiều chủng loại, chủ yếu là phi khoáng phục vụ cho ngành công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng như:
- Đá vôi: Theo dự án điều chỉnh Quy hoạch phát triển VLXD tỉnh Hà
Nam đến năm 2020 tổng trữ lượng đá vôi khoảng 7,4 tỷ m 3 trong đó nguồn
đá vôi có chất lượng cho sản xuất xi măng khoảng gần 1 tỷ tấn cho phép
xây dựng các nhà máy xi măng công xuất lớn. Ngoài ra còn có đá vôi cho
sản xuất hóa chất, vật liệu xây dựng….Các mỏ đá vôi tập trung chủ yếu là:
mỏ đá vôi xi măng Bút Phong, Hồng Sơn (Kim Bảng); mỏ đá vôi Đồng
Ao, Thanh Tân, Thanh Nghị (Thanh Liêm); mỏ đá vôi hóa chất ở Kiện
Khê, Thanh Nghị (Thanh Liêm), Thanh Sơn (Kim Bảng); mỏ Đô lômit ở
Bút Sơn (Kim Bảng)…
Đá vôi của Hà Nam có chất lượng tốt lại dễ khai thác, giao thông đi lại

thuận lợi…làm cho chi phí khai thác, chế biến thấp tạo lợi thế tuyệt đối với
các tỉnh lân cận.
- Đất sét: Tổng trữ lương đất sét ở Hà Nam khoảng 400 triệu tấn, trong
đó đất sét chuyên làm nguyên liệu sản xuất xi măng khoảng 331 triệu tấn có
hàm lượng Al203 từ 7,4 đến 18,6 %. Các mỏ sét phục vụ xi măng tập trung
chủ yếu ở các huyện Thanh Liêm, Kim Bảng. Ngoài ra Hà Nam có nguồn đất
sản xuất gạch, ngói rất phong phú dọc song Hồng qua 2 huyện Duy Tiên và

11

11


Lý Nhân cho phép xây dựng các lò sản xuất gạch tuynel lớn. Hàng năm sản
xuất trên 350 triệu viên phục vụ xây dựng của nhân dân trong và ngoài tỉnh.
- Cát san lấp và xây dựng: Hà Nam có nguồn cát đen tập trung chủ yếu
ở ven sông Hồng, sông Đáy thuộc các huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng,
Thanh Liêm và thành phố Phủ Lý cung cấp cho thị trường hàng trăm nghìn
m3/năm. Tuy nhiên chỉ có nguồn cát ở ven sông Hồng có thể khai thác thường
xuyên và có trữ lượng lớn, còn nguồn cát ở sông Đáy nếu khai thác nhiều sẽ
ảnh hưởng đến môi trường. Hiện nay tỉnh quản lý và nghiêm cấm khai thác
cát trên sông Đáy.
- Than bùn: các mỏ than bùn có trữ lượng trên 6 triệu m 3 ở Ba Sao và
hồ Liên Sơn (Kim Bảng). Mỏ than bùn Ba Sao dài khoảng 2km, rộng 1-2km,
chỗ dày nhất lên tới 1,5m. Mỏ than hồ Liên Sơn có chiều dài 800-900m, rộng
200- 300m, dày gần 2m có trữ lượng khoảng 7,296 triệu tấn.
- Cá t kế t: mỏ cá t kế t Khe Non huyệ n Thanh Liêm đượ c khai thá c sử
dụ ng là m phụ gia cho sả n xuấ t xi măng ở Hà Nam, trữ lượ ng khoả ng
19,22 triệ u tấ n.
*Tài nguyên du lịch

Hà Nam có một số danh lam thắng cảnh du lịch như: Núi Cấm, ngũ
động thi sơn, hồ Tam Chúc ở huyện Kim Bảng, Kẽm Trống ở huyện Thanh
Liêm, núi Đọi Sơn ở huyện Duy Tiên, hang Luồn, hang Dơi, động Vông, khu
Bát cảnh Tiên….
Về di tích lịch sử văn hóa : Hà Nam có nhiều tên đất tên làng và danh
nhân nổi tiếng như nơi thờ Lý Thường Kiệt- vị anh hùng dân tộc thời Lý; đền
Trần Thương ở huyện Lý Nhân thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn; từ
đường thờ Nguyễn Khuyến ở xã Trung Lương huyện Bình Lục, lễ hội Long
Đọi Sơn ở Duy Tiên, tượng đài 10 cô gái dân quân Lam Hạ thành phố Phủ Lý,
tượng đài các anh hùng liệt sĩ Chanh Chè xã Thanh Tâm huyện Thanh
Liêm….

12

12


Hiện nay Hà Nam đang kêu gọi đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái
Tam Chúc- Ba Sao rộng 2042 ha với hồ Tam Chúc rộng 750 ha thành khu du
lịch cấp vùng có thể liên kết tạo thành tour du lịch Tam Chúc- Hương SơnBái Đính để đáp ứng nhu cầu trong và ngoài tỉnh tạo sự đột phá trong lĩnh vực
du lịch- dịch vụ.
1.2. Điều kiện dân cư, xã hội
Hà Nam là vùng đất có truyền thống văn hóa lâu đời. Cư dân Hà Nam
sống chủ yếu bằng nghề nông, ngoài trồng lúa, nhân dân còn trồng nhiều loại
cây lương thực, thực phẩm, cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây công nghiệp. Bên
cạnh đó, Hà Nam vốn là vùng đất có nhiều nghề thủ công mỹ nghệ nổi tiếng
như: nghề dệt ở Nha Xá (Duy Tiên) là làng nghề truyền thống về dệt vải, lụa
tơ tằm, đũi có từ lâu đời và rất nổi tiếng ở Hà Nam.Tính đến năm 2012 làng
dệt Nha Xá có khoảng 500 khung dệt, công suất đạt 850 nghìn đến 1 triệu mét
lụa/năm, tạo công ăn việc làm cho 1.7000 lao động. Trung bình cứ 3 người

đảm nhiệm 1 máy dệt. Trong làng cũng hình thành sự phân công lao động
theo hướng chuyên môn hóa theo mặt hàng và theo công đoạn sản xuất. Sản
phẩm lụa, đũi tơ tằm của Nha Xá hiện được tiêu thụ khắp các vùng, miền
trong nước và xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới.Nghề thêu ren ở Thanh
Hà (huyện Thanh Liêm) gồm 7 thôn, nằm cạnh quốc lộ 1A. Từ năm 1990 đến
nay do chuyển đổi cơ chế thị trường truyền thống bị thu hẹp nên nghề thêu
ren gặp không ít khó khăn song cũng tìm được hướng đi để tồn tại và phát
triển. Hiện nay sản phẩm thêu ren đã xuất đi nhiều nước chủ yếu là các nước
Châu Âu và Bắc Á. Làng nghề làm rũa cưa ở xã An Đổ (huyện Bình
Lục).Các công đoạn của nghề này cũng có sự phân công theo hướng chuyên
môn hóa theo các hộ nên sản phẩm có số lượng và chất lượng ngày càng cao..
Làng nghề làm bánh đan nem, bánh đa khô, bánh thái các loại ở xã Hòa LýNguyên Lý- Lý Nhân, sản lượng mỗi năm lên tới 2000- 2500 tấn, tiêu thụ
khắp các nơi cả Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh và
13

13


nhiều nơi khác. Trong đó có hàng trăm tấn sản phẩm được xuất khẩu ra nước
ngoài. Ngoài ra ở Hòa Lý còn có nhiều nghề khác như xay xát, buôn bán thóc
gạo, …Nghề làm trống ở Đọi Tam (Huyện Duy Tiên) có từ rất lâu đời và rất
nổi tiếng.Trống Đọi Tam hiện nay được bán ở rất nhiều nơi kể cả thị trường
nước ngoài, phần lớn làm theo đơn đặt hàng với nhiều loại kích cỡ và mẫu mã
đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng.Đây chính là tiềm năng để Hà Nam phát
triển ngành tiểu thủ công nghiệp với nhiều sản phẩm phong phú và đa dạng sẽ
cung cấp nguồn nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp của tỉnh, nâng
cao đời sống của nhân dân phát triển kinh tế xã hội.
Trải qua hàng nghìn năm chinh phục thiên nhiên, đức tính cần cù, lòng
dũng cảm, sự sáng tạo trong lao động của nhân dân Hà Nam đã được hun
đúc. Bằng sức lực trí tuệ của mình, trong quá trình hoạt động phát triển

kinh tế - xã hội nhân dân Hà Nam cũng đã nhanh chóng tiếp thu và làm
chủ kĩ thuật mới, phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại để ngày càng
tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội phấn đấu thành tỉnh có bước phát triển
khá trong khu vực và trong cả nước.
Ngày 01/01/1997 , tỉnh Hà Nam được tái lập nhưng với sự quan tâm
đặc biệt của toàn xã hội vấn đề dân số, lao động và việc làm có nhiều chuyển
biến tích cực. Chất lượng dân số, lao động được cải thiện rõ rệt. Theo kết quả
tổng điều tra dân số 1/1/2012 dân sô toàn tỉnh là 785.057 người. Trong đó
nam giới 385.059 người chiếm 49,05 %, nữ giới 399.998 người chiếm
50,95%. Dân số thành thị 77.087 người chiểm 9,82% cao hơn năm 1999 là
1,84%. Dân sô nông thôn 707.970 người chiếm 90,18%. Quy mô số khẩu
bình quân hộ gia đình 3,37 khẩu/hộ giảm 0,59 khẩu/hộ so với năm 1999.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặc biệt là việc hình thành
và mở rộng các khu công nghiệp đã thu hút nhiều lao động trẻ tuổi từ nông
thôn ra thành thị làm ăn nên dân số thành thị ngày càng tăng lên. Tỷ lệ nhóm
người trong độ tuổi lao động: nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi, tăng nhanh
sau 10 năm.Tổng số người trong độ tuổi lao động 1/1/2009 là 489.545 người
14

14


chiếm 62,5% dân số cao hơn năm 1999 là 4,3%. Dân số từ 70 tuổi trở lên
57.547 người chiếm 7,3% dân số cao hơn năm 1999 là 3,7%. Với cơ cấu dân
số trẻ như vậy Hà Nam có điều kiện phát triển kinh tế trong thời gian tới.
Cơ cấu dân số trẻ và chất lượng nguồn lao động cũng ngày càng cao
với sự phát triển của nền giáo dục Hà Nam trong thời gian qua.
Về giáo dục phổ thông có sự phát triển cả về cơ sở vật chất và trình độ
giáo viên, chất lượng dạy và học. Ngay từ những năm đầu tái lập, tỉnh đã đặc
biệt chú trọng đầu tư nâng cấp kiên cố hệ thống trường học các cấp, ưu tiên

đảm bảo chi thường xuyên cho hoạt động giáo dục chiếm tỷ lệ trung bình
19,8% tổng chi ngân sách của tỉnh hàng năm với mức tăng trưởng bình quân
19,1%/năm. Hà Nam cũng là một trong những tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn
thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học năm 1999, bậc trung học cơ sở năm
2002 đồng thời giữ vững và duy trì thành quả đó. Toàn tỉnh hiện nay có 405
trường học ở 4 bậc học phổ thông, trong đó bậc mầm non là 120 trường,
trường trung học phổ thông là 25 trường, trong 14 năm (1997-2010) đã thành
lập thêm 22 trường. Chất lượng giáo dục từng bước được cải thiện tỷ lệ thu
hút học sinh vào bậc THPT tăng lên. Năm học 2009-2010 đạt 7,3% vượt mục
tiêu đại hội XVII. Hà Nam còn có 9 trường đang hoạt động đào tạo là: 1
trường đại học, 6 trường cao đẳng và cao đẳng nghề, 2 trường trung cấp
chuyên nghiệp và trung cấp nghề đã đào tạo nhiều ngành nghề với nhiều loại
hình đào tạo Trong đó có hai trường đào tạo công nhân kĩ thuật với các ngành
nghề đạo tạo như: cơ khí, điện, vận hành máy, xây dựng... Học sinh được đào
tạo ra trường có đủ năng lực làm việc trong các khu công nghiệp trình độ kỹ
thuật cao. Với nguồn nhân lực có trình độ khá, nền giáo dục phát triển đã tạo
điều kiện cho phát triển khoa học công nghệ, một trong những yếu tố cần thiết
và quan trọng hàng đầu để phát triển ngành kinh tế nói chung và ngành công
nghiệp nói riêng của địa phương.
Cơ sở hạ tầng phát triển nhanh trong những năm đổi mới. Tỉnh đã hoàn
thành điện khí hóa nông thôn. Hệ thống giao thông nông thôn, chợ, thông tin liên
15

15


lạc, các công trình phúc lợi như: trường học, trạm y tế, nhà văn hóa…được xây
dựng, nâng cấp đáp ứng yêu cầu cơ bản cho phát triển kinh tế- xã hội. Năm 2005
toàn tỉnh cơ bản không còn hộ đói, số hộ nghèo giảm còn 9,68 % năm 2011
(theo tiêu chí mới). Bệnh viện đa khoa tỉnh và ở các huyện được xây dựng nâng

cấp, mở rộng mạng lưới chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội từ năm 1997 đến nay, đời
sống của dân cư trên địa bàn tỉnh cũng không ngừng được cải thiện và từng
bước được nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần. Sản lượng lương thực sản
xuất duy trì tốc độ phát triển khá , tăng trung bình quân 1,66%/năm (19972000) nhanh hơn tốc độ phát triển của các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Sản
xuất lương thực phát triển đi đôi với thực hiện tốt chính sách dân số- kế hoạch
hóa gia đình đã đưa sản lượng lương thực bình quân theo đầu người của tỉnh
đạt khá cao. Năm 2010 đạt 567kg/người/năm gấp 1,23 lần năm 1997, đạt tốc
độ phát triển bình quân 1,62%/năm các tỉnh đồng bằng sông Hồng chỉ đạt
0,72%/năm [13, tr.52].
Với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội như trên đã
tạo cho ngành công nghiệp Hà Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
như: sự giao lưu kinh tế thuận lợi; nguồn nguyên liệu phong phú; nguồn nhân
lực dồi dào... Đây chính là tiền đề, cơ sở vững chắc cho ngành công nghiệp
Hà Nam tiếp tục phát triển góp phần vào thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
1.3. Đường lối chính sách phát triển công nghiệp của Đảng, Nhà nước
Đường lối đổi mới đất nước được đề ra lần đầu tiên tại đại hội VI
(12/1986) và được điều chỉnh, bổ sung và phát triển qua các kỳ đại hội VII
(6/1991), VIII (6/1996), IX (4/2001), X (6/2006). Qua các kỳ đại hội, chủ
trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội được đề ra một cách toàn diện
trong đó chủ trương chính sách phát triển kinh tế nói chung và ngành công
nghiệp nói riêng được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, coi trọng. Đảng
xác định nước ta:Từ một nền sản xuất nhỏ đi lên, điều rất quan trọng là phải
16

16


xác định đúng bước đi của công nghiệp hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả

năng của mỗi chặng đường. Chính vì thế, qua từng thời kỳ chủ trương, chính
sách phát triển công nghiệp đều được Đảng và Nhà nước đưa ra một cách cụ
thể đối với từng ngành, từng vùng, từng thành phần kinh tế...
Đại hội VI của Đảng là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi
mới toàn diện ở nước ta. Sau khi phân tích phê phán nghiêm túc những sai
lầm, thiếu sót trong thời gian qua. Đại hội đã đề ra chủ trương chính sách
đổi mới kinh tế, có đổi mới phát triển công nghiệp. Cụ thể, có những nội
dung chủ yếu sau:
- Đổi mới toàn diện nhưng trọng tâm là đổi mới kinh tế
- Xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường.
- Thừa nhận nền kinh tế có nhiều thành phần
- Mở rộng kinh tế đối ngoại
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) Đảng và Nhà nước
đã đề ra chính sách phát triển cho từng ngành công nghiệp. Đại hội chỉ rõ:
- Đối với ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, phải quy
vùng tập trung chuyên canh, đưa khoa học công nghệ vào sản xuất, tạo ra
nguồn nguyên liệu lớn, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp chế biến
hiện đại. Phát triển cơ sở chế biến gần với vùng nguyên liệu, nâng cao chất
lượng, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, đa dạng hóa mặt hàng thực phẩm.
- Với công nghiệp hàng tiêu dùng, phát triển hàng công nghiệp tiêu
dùng thông dụng, mở rộng sản xuất hàng lâu bền, cao cấp. Đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mặt hàng, cải tiến bao bì và giảm giá
thành. Phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu, đặc biệt các sản
phẩm may mặc, dệt, da, hàng điện tử, đồ điện gia dụng, hàng thủ công mỹ
nghệ, chuyển nhanh từ gia công sang tự sản xuất để xuất khẩu.
- Công nghiệp cơ khí và điện tử - tin học: Tận dụng năng lực hiện có,
tranh thủ công nghệ hiện đại, tạo thêm năng lực sản xuất mới cần thiết. Mở
rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài, đi từ lắp ráp sản xuất phụ tùng tiến
17


17


tới sản xuất các sản phẩm hoàn chỉnh. Tập trung thực hiện chương trình cơ
khí trang bị cho nông, lâm, ngư nghiệp; sản xuất thiết bị chế biến nông - lâm thủy sản, hàng tiêu dùng.
- Các ngành công nghiệp sản xuất nguyên, nhiên, vật liệu đẩy mạnh tìm
kiếm thăm dò và khai thác dầu, khí. Các ngành sản xuất than, xi măng, thép ...
được chú ý phát phát triển [52, tr.577 ].
Không chỉ đề ra chủ trương phát triển cho từng ngành công nghiệp mà
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001- 2010) Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX còn đề ra chủ trương xây dựng cơ cấu ngành công nghiệp hợp
lý: Phát triển nhanh các ngành công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh
tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu như chế biến
nông, lâm, thủy sản, may mặc, da giầy, điện tử, tin học, một số sản phẩm cơ
khí và hàng tiêu dùng... Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp
nặng, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây
dựng... [28,tr 321].
Đảng và Nhà nước ta còn chủ trương phát triển có hiệu quả các khu
công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công
nghiệp cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở; phát triển
rộng khắp các cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa với ngành nghề đa dạng; đổi mới
nâng cấp công nghệ trong các cơ sở hiện có để nâng cao năng suất, chất lượng
hiệu quả, sử dụng phù hợp các công nghệ có khả năng thu hút nhiều lao động;
phát triển nhiều hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ, vừa và lớn,
giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở đảm bảo
hài hòa về lợi ích; tăng tỷ lệ nội địa hóa trong công nghiệp gia công, lắp ráp;
tăng cường công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, bảo hộ sở hữu công
nghiệp và bảo vệ môi trường.
Đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 6/2006) cũng nêu rõ mục
tiêu: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức,


18

18


tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020" [33, tr 296].
Như vậy, có thể thấy những chủ trương chính sách phát triển công
nghiệp của Đảng và Nhà nước trải qua các kỳ đại hội đều nhằm mục tiêu xây
dựng một nền công nghiệp phát triển, góp phần vào quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
Trên cơ sở đường lối, chính sách phát triển công nghiệp của Đảng và
Nhà Nước, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương sau khi tái lập tỉnh
(1997), Hà Nam đã đề ra chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp của
mình. Cụ thể là:
- Khai thác mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp. Tại Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII (tháng 8/1992), đã xác định "Tổ chức sắp xếp lại
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, phát triển các thành phần kinh
tế" [30, tr.130].
- Sản vật liệu xây dựng và chế biến thực phẩm là 2 ngành mũi nhọn của
tỉnh. Chủ trương này được Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đề ra và tiếp tục
khẳng định tại các Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV, XIX. XX. Cụ thể, ngay tại Đại
hội Đảng bộ tỉnh Hà Nam lần thứ XIII đã xác định nhiệm vụ cụ thể cho ngành
công nghiệp là: "Tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu, trong đó công nghiệp sản
xuất vật liệu xây dựng và chế biến thực phẩm là mũi nhọn" 31, tr.42].
- Phát triển cả công nghiệp và thủ công nghiệp. Chủ trương này được
đề cập đến ngay từ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII và tiếp tục được khẳng
định tại các Đại hội sau đó. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tỉnh đến

năm 2010 cũng chỉ rõ: "Phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây
dựng các làng nghề theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa, nhằm đáp
ứng yêu cầu chuyển dịch kinh tế, gắn công nghiệp với nông nghiệp, nông
thôn" [30, tr.152].

19

19


- Công nghiệp Hà Nam chủ yếu phát triển các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, Điều này được thể hiện rõ qua chủ trương của Đại hội Đảng bộ Tỉnh
lần thứ XIII và XIV. Tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII đã xác định: "Các
xí nghiệp xây dựng mới chủ yếu là qui mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ
cao" [30, tr.42].
Đi lên từ điểm xuất phát thấp, kinh tế kém phát triển, thiếu vốn, thiếu
kỹ thuật nên Hà Nam đã xác định con đường vươn lên làm giàu là phát triển
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Do có nhiều làng nghề truyền thống nên
việc xây dựng mô hình làng nghề là hướng đi đúng đắn để thực hiện mục tiêu
"dân giàu, tỉnh mạnh". Tỉnh đã ban hành chính sách ưu tiên nhằm giữ vững và
phát triển các làng nghề truyền thống hiện có, tập trung vào các ngành nghề
thu hút nhiều lao động, tạo thêm nhiều nghề mới và đổi mới công nghệ ở các
làng nghề.
Hà Nam trương áp dụng tổng thể các biện pháp làm sao đẩy nhanh tốc
độ phát triển công nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp tập trung với
các chính sách như huy động vốn, chính sách phát triển nguồn nhân lực, nâng
cao chất lượng lao động, đầu tư cho giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ
để hỗ trợ cho ngành công nghiệp và các doanh nghiệp.... Ngoài ra tỉnh còn
xây dựng Quỹ khuyến công, quỹ đào tạo nghề, quỹ khuyến khích xuất khẩu,
vốn sự nghiệp khoa học, tạo môi trường thông thoáng và lành mạnh để phát

triển công nghiệp. Tỉnh cũng đã tiến hành cải cách hành chính, ban hành quy
định thực hiện "cơ chế một cửa" tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm và
mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Với những đường lối, chính sách nêu trên của Đảng, Nhà nước ta nói
chung và tỉnh Hà Nam nói riêng, đã tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi cho công
nghiệp của Hà Nam phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn.
1.4. Vài nét về công nghiệp tỉnh Hà Nam trước năm 1997
1.4.1. Tình hình công nghiệp Hà Nam trước năm 1986

20

20


Cùng với sự hình thành và phát triển của con người thì nền kinh tế cũng
phát triển nhằm phục vụ cho nhu cầu của cư dân. Là một bộ phận quan trọng
của nền kinh tế ngành công nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật đó
Ngay từ thời phong kiến, bên cạnh việc phát triển nông nghiệp lúa nước
thì Hà Nam đã nổi tiếng nhiều làng nghề thủ công mỹ nghệ như dệt ở Nha Xá,
Thanh Hà- Thanh Liêm, nghề làm nghề thêu ren ở Đọi Tiên, nghề làm bánh
đa nem ở Nguyên Lý- Lý Nhân, nghề chế tác đồ sừng và đồ mĩ nghệ …..Sản
phẩm của các làng nghề không chỉ phục vụ cho nhu cầu dân cư trong vùng mà
còn cung cấp cho các vùng khác.
Từ cuối thế kỉ XIX bên cạnh các nghề tiểu thủ công gia đình trong các
làng xã ở Hà Nam bắt đầu xuất hiện các loại hình công nghiệp công xưởng,
có quy mô lớn kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Đó là các cơ sở công
nghiệp của các chủ tư bản người Pháp và một số tiểu chủ, tiểu tư sản trong
nước. Các cơ sở công nghiệp này chủ yếu khai thác ở những dãy núi đá ven
sông Đáy, những mỏ đá thuận tiện về giao thông ở các huyện Kim Bảng,
Thanh Liêm. Năm 1883, Ghiôm- một chủ tư sản người Pháp đã thành lập

xưởng khai thác đá ở Kẻ Sở- Kiện Khê. Năm 1884, Bôren lập công trường
khai thác đá ở Quyển Sơn.
Đến năm 1930, ở Hà Nam có khoảng 18 mỏ khai thác đá với sản lượng
đạt hàng trăm nghìn mét khối mỗi năm. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có một
số xưởng làm gạch,ngói, vôi, gốm, sứ, chế biến tre, đường mật…của các tiểu
chủ, tiểu tư sản người Việt, xưởng chế biến sữa, thịt, sơ chế cà phê trong các
đồn điền của Pháp, ở khu vực thị xã Phủ Lý xuất hiện một số cơ sở công
nghiệp như xưởng in, trạm phát điện đi-ê-zen (ở phố Quy Lưu), xưởng sửa
chữa ô tô, ca nô, may mặc, làm đồ gỗ, gò hàn….Tuy nhiên trước cách mạng
tháng Tám (năm 1945) các cơ sở công nghiệp ở Hà Nam vẫn hết sức nhỏ bé.
Hơn nữa sau cách mạng tháng tám nhất là trong thời kì kháng chiến chống,
nhiều cơ sở công nghiệp đã ngừng hoạt động, thu hẹp sản xuất hoặc phải sơ
21

21


tán, phân tán sản xuất. Nền công nghiệp Hà Nam chỉ thực sự có những bước
chuyển biến đáng kể từ cuối những năm 1950 đầu những năm 1960, với việc
cải tạo công nghiệp tư bản tư nhân, hình thành các xí nghiệp công tư hợp
doanh và thành lập mới hàng chục nhà máy, xí nghiệp công nghiệp quốc
doanh (cả trung ương và địa phương) trên địa bàn tỉnh. Nhiều cơ sở công
nghiệp đã đi vào hoạt động như: Nhà máy đường Vĩnh Trụ (1959); xí nghiệp
đá vôi Kiện Khê (1959 -1960); nhà máy nhiệt điện Phủ Lý (1960); xưởng
nông cụ, xưởng may mặc, cơ sở chế biến gỗ (1958 -1960); nhà máy thiết bị
và kết cấu thép Phủ Lý (1963)…Tuy vậy chỉ có một số nhà máy được trang bị
máy móc, thiết bị cơ khí như nhà máy đường Vĩnh Trụ, nhà máy nhiệt điện
Phủ Lý…còn lại phần lớn các cơ sở công nghiệp lúc bấy giờ chỉ có công nghệ
sản xuất thủ công.
Trong những năm 1970 đầu những năm 1980 trên địa bàn Hà Nam có

thêm một số cơ sở công nghiệp quốc doanh được xây dựng và đi vào hoạt
động như nhà máy xi măng X-77 của Bộ Quốc phòng năm (1977); nhà máy xi
măng nội thương (năm 1978) và nhiều cơ sở công nghiệp quốc doanh địa
phương của tỉnh và của các huyện. Song từ cuối những năm 1980 đầu những
năm 1990 trong quá trình chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hóa tập trung sang
cơ chế thị trường, nhiều cơ sở công nghiệp địa phương đã phải thu hẹp sản
xuất,giải thể hoặc chuyển sang cổ phần hóa.
Như vậy sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), Đảng và Nhà nước ta
đã đưa đường lối phát triển kinh tế : đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất của CNXH, phải đưa nền kinh tế nước ta từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Khi đã
thấm nhuần tư tưởng của đường lối trên tỉnh ủy Hà Nam đã đề ra chủ trương:
khôi phục các làng nghề, sản xuất các mặt hàng phục vụ trực tiếp sản xuất,
xuất khẩu và đời sống của nhân dân. Vì vậy thực hiện đường lối trên công
22

22


nghiệp Hà Nam đã có những bước phát triển nhanh. Các sản phẩm công
nghiệp ngày càng đa dạng và phong phú như đồ gỗ, gạch, ngói…. Có giá trị
sản xuất công nghiệp ngày càng cao.
Công nghiệp Hà Nam trước năm 1986 mặc dù đã đạt được một số
thành tựu quan trọng, nhưng về cơ bản còn nhỏ bé, lạc hậu, cơ cấu ngành
chưa đa dạng, giá trị sản xuất chưa cao, chủ yếu là công nghiệp làng nghề.
Công nghiệp chế biến còn quá nhỏ bé phần lớn là nông sản, thực phẩm và
hàng tiêu dung. Tuy nhiên ngành công nghiệp trong thời gian qua cũng có
những đóng góp nhất định vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Sự
phát triển của công nghiệp thời kì này tạo điều kiện tiền đề và là cơ sở cho sự

phát triển công nghiệp ở giai đoạn sau.
1.4.1. Công nghiệp Hà Nam thời kì 1986 – 1997
Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là đâị hội mở đầu
đường lối đổi mới đất nước và đường lối này được các đại hội VII, VIII, IX
tiếp tục phát triển bổ sung và hoàn thiện. Trong đường lối đổi mới toàn diện
Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế là trọng tâm, xóa bỏ cơ chế quản lý quan
lieu bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế,
tăng cường lien doanh, lien kết với nước ngoài. Đảng ta còn chủ trương “xây
dựng kinh tế Trung ương, đồng thời phát triển kinh tế địa phương, kết hợp cân
đối giữa công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp”.
Bước vào thời kì đổi mới công nghiệp Hà Nam đã đạt được kết quả
đáng khích lệ. Trong thời kì 1990- 1996 tỷ trọng khu vực kinh tế Nhà nước
vẫn giữ được chiều hướng tăng, năm 1990 chiếm 22,9% đến năm 1996 là
26,2%. Tỷ trọng công nghiệp ngoài quốc doanh có xu hướng giảm, năm 1990
chiếm 77,0% đến năm 1996 chiếm 73,7% (chủ yếu do sự giảm sút của khu
vực kinh tế tập thể). Tỷ trọng công nghiệp khai mỏ giảm chủ yếu là khai thác
đá năm 1990 chiếm 18,1% đến năm 1996 giảm còn 9,9%. Tuy nhiên tỷ trọng
23

23


công nghiệp chế biến có xu hướng tăng từ 81,2% năm 1990 lên 84,6% năm
1996. Trong đó các ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống, công nghiệp dệt,
chế biến, sản xuất các sản phẩm từ gỗ…có xu hướng tăng. Nhờ có sự chuyển
dịch cơ cấu trên nên công nghiệp Hà Nam đã có nhịp độ tăng trường tương
đối khá, bình quân thờ kì 1986- 1996 giá trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng
14,5%/năm. Năm 1997 so với năm 1996 tăng 9,02% : [52, tr 577]
Công nghiệp ngoài quốc doanh có mức tăng trưởng cao nhất tới

13,1%/năm. Trong thành phần kinh tế Nhà nước công nghiệp quốc doanh
trung ương có tỷ trọng giảm, năm 1990 chiếm 57,3% đến năm 1996 giảm
xuống còn 28,7%, công nghiệp quốc doanh địa phương có tỷ trọng tăng từ
42,7% năm 1990 lên 71,3% năm 1996. Do có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nên nhịp độ tăng trưởng bình quân thời kì 1990-1996 của khu vực kinh tế tư
nhân, kinh tế cá thể đạt 24,2%. Về cơ cấu công nghiệp theo các huyện, thị xã
thì các huyện Lý Nhân, Kim Bảng và Duy Tiên là ba huyện có tỷ trọng công
nghiệp cao nhất lên tới 77,6% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của toàn
tỉnh. Lý Nhân cũng là huyện có nhịp độ tăng trưởng công nghiệp cao nhất với
bình quân 20%/năm thời kì 1991-1995. [52,tr. 577- 578 ]
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công nghiệp Hà Nam trong thời
kỳ này còn bộc lộ nhiều hạn chế. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nhỏ bé,
chưa phát huy được tiềm năng thế mạnh. Công nghiệp quốc doanh quy mô
nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, phần lớn thiết bị máy móc của các doanh
nghiệp thuộc thế hệ trước năm 1960. Nhiều cơ sở sản xuất bằng phương pháp
thủ công, năng suất thấp, chất lượng hiệu quả kém. Một số xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh khi chuyển sang cơ chế thị trường tự hạch toán kinh doanh
còn gặp nhiều lúng túng, sản xuất kinh doanh thua lỗ triền miên và không tìm
được hướng đi phù hợp cho mình. Công nghiệp Hà Nam thời kỳ này phát
triển chưa tưng xứng với vị trí, tiềm năng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.
24

24


* Tiểu kết chương 1
Như vậy, với những thuận lợi nhất định về điều kiện tự nhiên - xã hội
cùng với những chủ trương chính sách phát triển công nghiệp của Đảng và
Nhà nước đã tạo tiền đề để các ngành công nghiệp ở Hà Nam phát triển, góp

phần thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh
tế của tỉnh.
Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, vùng đất có bề dày lịch sử đã có những
đóng góp xứng đáng đối với quá trình phát triển của đất nước. Trước năm
1986 kinh tế công nghiệp của Hà Nam vẫn còn còn ở trình độ lạc hậu. Cơ cấu
ngành đơn giản, sức sản xuất còn thấp, các sản phẩm công nghiệp chưa đa
dạng phong phú. Nhờ có chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước từ sau
công cuộc đổi mới, nền kinh tế Hà Nam nói chung, kinh tế công nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung của tỉnh cũng có sự chuyển biến rõ rệt. Các
làng nghề truyền thống được khôi phục, phát triển, đã sản xuất ra một số sản
phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, đã giải quyết việc làm cho rất nhiều lao
động.Vì vậy đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao, tình hình xã hội được
ổn định.Tuy còn tồn tại nhiều hạn chế nhưng quá trình phát triển của công
nghiệp Hà Nam thời kỳ trước năm 1997 cũng đạt những kết quả nhất định.
Đây là cơ sở, nền tảng để ngành công nghiệp Hà Nam phát triển trong thời
gian tới.

25

25


×