Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

luận văn thạc sĩ Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật người dân tộc thiểu số từ năm 1996 đến 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.88 KB, 97 trang )

Đảng bộ tỉnh đăklăk lãnh đạo
công tác đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật ngời
dân tộc thiểu số từ năm 1996 đến 2004
H NI 2009
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐĂKLĂK VỀ CÔNG
TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ KHOA HỌC-KỸ THUẬT NGƯỜI
DÂN TỘC THIỂU SỐ (1996-2004)
7
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh Đăklăk 7
1.2. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đào tạo cán bộ
khoa học-kỹ thuật người dân tộc thiểu số 14
1.3. Sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Đăklăk về đào tạo cán bộ khoa
học-kỹ thuật người dân tộc thiểu số 29
Chương 2: KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM TRONG QUÁ TRÌNH ĐẢNG
BỘ TỈNH ĐĂKLĂK LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐÀO TẠO
CÁN BỘ KHOA HỌC-KỸ THUẬT NGƯỜI DÂN TỘC
THIỂU SỐ (1996-2004)
46
2.1. Kết quả và nguyên nhân của những thành công và hạn chế 46
2.2. Kinh nghiệm lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ khoa học-kỹ thuật
người dân tộc thiểu số 71
KẾT LUẬN
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DTTS : Dân tộc thiểu số
GDĐT : Giáo dục và đào tạo
KHKT : Khoa học-kỹ thuật
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
UBND : Ủy ban nhân dân
3
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
Trang
Bảng 2.1: Học sinh ĐăkLăk theo học dự bị Đại học Dân tộc Trung
ương Nha Trang từ 1999-2004 48
Bảng 2.2: Đội ngũ cán bộ KHKT có trình độ từ cao đẳng trở lên
phân theo giới tính và trình độ đào tạo năm 2004
56
Bảng 2.3: Đội ngũ cán bộ KHKT có trình độ từ cao đẳng trở lên phân
theo hình thức đào tạo và nơi đào tạo năm 2004 57
Bảng 2.4: Số lượng cán bộ KHKT qua các năm 58
Bảng 2.5: Đội ngũ cán bộ KHKT có trình độ từ cao đẳng trở lên
phân theo thành phần dân tộc năm 2004 59
Bảng 2.6: Cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên là người DTTS phân
theo giới tính và trình độ đào tạo năm 2008-2009 60
Bảng 2.7: Cán bộ có trình độ từ cao đẳng trở lên là người DTTS
phân theo chuyên ngành đào tạo năm 2008-2009 61
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định
vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có tính chiến lược của cách mạng

và thực hiện chính sách dân tộc với những nguyên tắc cơ bản là: “Bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển”. Biểu hiện của
nguyên tắc đó trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH là việc tập trung xây
dựng vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh về kinh tế, văn hóa, xã hội,
vững mạnh về chính trị, an ninh-quốc phòng, xứng đáng với vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng của cả nước.
Để đưa vùng dân tộc và miền núi phát triển nhanh và bền vững tiến kịp
miền xuôi, làm cho đồng bào DTTS được hưởng ngày càng đầy đủ hơn những
quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa thì vấn đề có ý nghĩa quyết định là
phải có đội ngũ cán bộ. Việt Nam đang ở trong thời kỳ phát triển mới - thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH do đó KHKT là một nguồn lực quan trọng của sự
nghiệp CNH, HĐH. Điều này khẳng định, vận hội cũng như nguy cơ của
vùng dân tộc và miền núi gắn liền với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ DTTS nói chung và cán bộ KHKT người DTTS nói riêng đủ về số
lượng đảm bảo về chất lượng. Chính đội ngũ cán bộ này là lực lượng nòng
cốt, hạt nhân đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi
vào cuộc sống, lãnh đạo đồng bào các DTTS từng bước làm chủ quá trình
phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Họ đem sự hiểu biết KHKT của mình
truyền bá rộng rãi cho đồng bào DTTS. Họ là những chiến sỹ trên mặt trận tư
tưởng, văn hóa và KHKT; góp tài góp sức để cải tiến bộ mặt xã hội của vùng
đồng bào DTTS, làm cho đồng bào mình sản xuất và công tác theo khoa học
và đời sống của chính họ được văn minh. Cán bộ KHKT người DTTS còn là
cầu nối giữa đảng và dân, là một trong những “kênh” làm cho Đảng gắn bó
5
với dân, gần gũi với dân. Vai trò của cán bộ KHKT người DTTS không chỉ
thể hiện trong phát triển kinh tế mà còn đảm bảo cho việc giữ vững an ninh-
quốc phòng.
ĐăkLăk là một tỉnh miền núi thuộc Tây Nguyên, tại thời điểm trước khi
chia tách thành hai tỉnh (ĐăkLăk và ĐăkNông) có 44 dân tộc anh em chung
sống, chiếm 29,5% tổng dân số cả tỉnh, trong đó 19,31% là đồng bào DTTS

tại chỗ. ĐăkLăk có một vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an
ninh và quốc phòng.
Quán triệt chính sách dân tộc của Đảng cũng như nhận thức được tầm
quan trọng của KHKT đối với sự phát triển của tỉnh, trong quá trình lãnh đạo
Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk đã tập trung chỉ đạo công tác đào tạo cán bộ KHKT
người DTTS nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh để
đưa đồng bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước xây dựng
cuộc sống văn minh, hạnh phúc, góp phần xây dựng CNXH và đảm bảo quốc
phòng, an ninh. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ rất khó khăn, từ năm 1996-2004 ở
ĐăkLăk đã diễn ra hai cuộc bạo loạn chính trị năm 2001 và 2004, điều đó bộc
lộ một số tồn tại, yếu kém trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở ĐăkLăk
mà trước hết là sự yếu kém về đội ngũ cán bộ DTTS nói chung và cán bộ
KHKT người DTTS nói riêng.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo công tác đào tạo
cán bộ KHKT người DTTS một cách khoa học, đúng đắn và toàn diện sẽ giúp
chúng ta rút ra được những kinh nghiệm có tính khả thi để lãnh đạo, chỉ đạo việc
đào tạo nguồn nhân lực này một cách có hệ thống nhằm phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH bảo đảm cho chính trị, an ninh-quốc phòng được giữ vững, từng bước nâng
cao chất lượng cuộc sống về vật chất và tinh thần cho đồng bào DTTS.
Xuất phát từ những lý do trên, Tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk
lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ khoa học - kỹ thuật người dân tộc thiểu
số từ năm 1996 đến 2004” làm luận văn tốt nghiệp.
6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết liên quan đến đề tài như:
- Bộ Khoa học công nghệ và môi trường (1996), Chiến lược CNH,
HĐH đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- TS. Trịnh Quang Cảnh (2005), Phát huy vai trò đội ngũ trí thức các
dân tộc thiểu số nước ta trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

- PGS.TS. Trương Minh Dục (2005), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- GS.TS. Lê Hữu Nghĩa (2001), Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện người các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- PTS. Danh Sơn (1999), Quan hệ giữa phát triển khoa học công nghệ
với phát triển kinh tế-xã hội trong CNH, HĐH ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
- Ủy Ban khoa học xã hội Việt Nam, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân
ĐăkLăk (1990), Vấn đề phát triển kinh tế xã hội các dân tộc thiểu số ở
ĐăkLăk, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- TS. Lê Phương Thảo, PGS, TS. Nguyễn Cúc, TS. Doãn Hùng (2005),
Xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH - Luận cứ và giải pháp, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
Một số luận văn, luận án chuyên ngành Triết học, Lịch sử có bàn đến
nội dung của đề tài:
- Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt
Nam trong công cuộc đổi mới (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía Bắc),
Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Phạm Ngọc Đại (2008), Quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ các tỉnh Nam Tây Nguyên từ năm 2001-2006, Luận văn thạc
sỹ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
7
- Lê Nhị Hòa (2002), Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị cấp cơ sở thời kỳ đổi mới
(1986-2000), Luận văn thạc sỹ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
- Phạm Đức Kiên (2006), Đảng lãnh đạo công tác đào tạo đội ngũ cán
bộ khoa học, kỹ thuật ở miền Bắc 1960-1975, Luận văn thạc sỹ Lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- Nguyễn Thị Tứ (1993), Mấy vấn đề chủ yếu của chính sách giáo dục
và đào tạo đối với các đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Luận
văn thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Bài viết của nhiều tác giả được đăng tải trên các tạp chí như:
- Đặng Ngọc Dinh (1998), “Vấn đề định hướng chiến lược phát triển
khoa học công nghệ nước ta”, Tạp chí Cộng sản, (3), tr. 35.
- Lại Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Mỹ Trang (2005), “Chính sách cử tuyển
- Một chủ trương đúng trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta về
phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số”, Tạp chí
Dân tộc học, (2), tr. 27.
- Nguyễn Đình Hòa (2004), “Vai trò của khoa học, kỹ thuật đối với sự phát
triển của xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (21), tr. 31.
- GS.VS. Đặng Hữu (1990), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
khoa học-công nghệ”, Tạp chí Cộng sản, (8), tr. 2.
- Nguyễn Hữu Ngà (2005), “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức dân tộc
thiểu số trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH”, Tạp chí Dân tộc học, (3), tr. 50.
- Vũ Thị Hoài Nghiêm (2008), “Phát triển giáo dục và đào tạo trong
vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, Tuyên giáo, (2), tr. 44.
Những tài liệu nêu trên chỉ đề cập đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ
người DTTS nói chung ở các cấp và các địa phương khác nhau, cũng như vai
trò của khoa học kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay, chưa có công trình khoa
8
học nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk đối với công tác
đào tạo cán bộ KHKT người DTTS từ năm 1996-2004. Tuy nhiên, những
công trình khoa học, bài viết kể trên là cơ sở để tác giả tham khảo và kế thừa
trong việc thu thập, xử lý nguồn tài liệu và phương pháp luận trong quá trình
thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Tổng kết những kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn có thể

bước đầu vận dụng vào việc xây dựng nguồn nhân lực cán bộ KHKT người
DTTS trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Nhiệm vụ
- Trình bày một số quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk về công tác đào tạo cán bộ KHKT người
DTTS từ năm 1996 đến 2004.
- Phân tích và làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk chỉ đạo
công tác đào tạo cán bộ KHKT người DTTS thời kỳ 1996-2004.
- Nêu lên những thành tựu, hạn chế và tổng kết kinh nghiệm của Đảng
bộ trong quá trình lãnh đạo công tác đào tạo cán bộ KHKT người DTTS ở
tỉnh ĐăkLăk thời kỳ 1996-2004.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thời gian: Từ năm 1996 đến năm 2004.
Nội dung: Đường lối lãnh đạo và tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác
đào tạo cán bộ KHKT người DTTS.
Địa bàn khảo sát chủ yếu: 2 cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk là
Trường Đại học Tây Nguyên và Trường Cao đẳng Sư phạm; cán bộ KHKT
người DTTS có trình độ từ cao đẳng trở lên đang công tác tại các sở, ban,
ngành, viện, trường, các tổ chức, đoàn thể xã hội, doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh ĐăkLăk (trừ các đơn vị lực lượng vũ trang).
9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng về chính sách dân tộc, cán bộ dân tộc và KHKT, cán bộ KHKT.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc,
kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành như thống kê,
so sánh, đồng đại, lịch đại, phân tích, tổng hợp …

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Giải đáp những vấn đề còn tồn tại trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng bộ tỉnh ĐăkLăk về công tác đào tạo cán bộ DTTS và cán bộ KHKT
người DTTS - Một vấn đề chưa được nghiên cứu nhiều.
- Cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chủ trương, chính
sách của Tỉnh ủy, UBND tỉnh ĐăkLăk nói riêng và các tỉnh Tây Nguyên nói
chung về công tác đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Tổng kết những kinh nghiệm có tính định hướng để nâng cao nhận
thức, chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo cán bộ DTTS nói chung và
cán bộ KHKT người DTTS nói riêng ở ĐăkLăk.
- Kết quả của luận văn góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy các
chuyên đề của môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
10
Chương 1
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH ĐĂKLĂK VỀ CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO CÁN BỘ KHOA HỌC - KỸ THUẬT
NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ (1996-2004)
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ, VĂN HÓA,
XÃ HỘI CỦA TỈNH ĐĂKLĂK
Tỉnh ĐăkLăk nằm ở phía Tây Nam của dãy Trường Sơn, phía Bắc
giáp với tỉnh GiaLai; phía Nam giáp với hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Phước;
phía Đông giáp với hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, phía Tây giáp với Vương
quốc Cămpuchia. ĐăkLăk có nhiều tuyến giao thông quan trọng nối liền với
các tỉnh Tây Nguyên, duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ và tỉnh
Munđunkiri (Cămpuchia).
ĐăkLăk nằm ở trung tâm Cao Nguyên, với diện tích là 13.125 km

2
và ở
độ cao trung bình là 500m so với mặt nước biển, trong đó diện tích đất lâm
nghiệp có 1.019.847ha, đất nông nghiệp diện tích 28.906ha, đất trồng cây lâu
năm 160.488ha và hàng vạn hécta đồng cỏ, có nhiều cánh đồng cỏ chạy dài,
nhiều đầm hồ rộng lớn (lớn nhất là hồ Lăk với diện tích 750ha, hồ EaSoup với
diện tích 400ha), Hệ thống sông suối ở ĐăkLăk khá phong phú, lớn nhất là
sông Sêrêpốc. Do đó, tiềm năng thủy điện cũng là một thế mạnh của ĐăkLăk.
Việc xây dựng các công trình thủy điện sẽ làm tăng sản lượng điện, góp phần
phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu trên địa bàn tỉnh theo hướng tăng dần tỷ
trọng công nghiệp, tạo tiền đề cho giao thông phát triển, giao lưu văn hóa xã hội,
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho
đồng bào các dân tộc. Quan trọng nhất là nó mở ra cơ hội cho các dân tộc tiếp
xúc với đời sống hiện đại và dần từng bước xóa bỏ các thủ tục lạc hậu.
Vùng Cao Nguyên Buôn Ma Thuột và các khu vực phụ cận có địa hình
tương đối bằng phẳng, đất đai phì nhiêu. Diện tích đất đỏ bazan ở ĐăkLăk có
hơn 704.000ha, có diện tích rừng và đất rừng lớn nhất đất nước với
11
1.215.000ha (chiếm 62,2% diện tích đất tự nhiên), có nhiều tài nguyên sinh
vật phong phú, đa dạng như Vườn Quốc gia YokĐôn; Với thế mạnh về tài
nguyên đất đai, rừng, lâm sản, ĐăkLăk là vùng đất phù hợp cho phát triển cây
công nghiệp dài ngày, đặc biệt là các loại cây có giá trị xuất khẩu cao như cao
su, cà phê … chăn nuôi đại gia súc và kinh doanh tổng hợp nghề rừng.
Khí hậu ở ĐăkLăk tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình hàng năm là
24
0
C. Lượng chiếu sáng dồi dào với cường độ tương đối ổn định, lượng mưa
trung bình 1700 - 2000mm/ năm. Độ ẩm trung bình 81%, khí hậu phân thành
hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm trên 70% lượng mưa
cả năm, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng

4, độ ẩm giảm, gió đông bắc thổi mạnh từ cấp 4 đến cấp 6, lượng bốc hơi lớn
gây ra khô hại nghiêm trọng. Vì vậy, yếu tố giữ và cấp nước trong mùa khô
có vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
ĐăkLăk là tỉnh còn trữ lượng lớn tài nguyên, khoáng sản chưa được
khai thác nhiều như: chì, vàng, sét cao lanh, than bùn, … nhưng đáng kể nhất
là quặng bôxít tự nhiên có trữ lượng khoảng 5,4 tỷ tấn với hàm lượng ôxít
nhôm khoảng 35-40%, sét cao lanh trữ lượng 60 triệu tấn phân bổ ở Ma’Đrắc,
Buôn Ma Thuột, Sét làm ngói trữ lượng trên 50 triệu tấn tập trung ở huyện
KrôngAna, Buôn Ma Thuột, Ma’Đrắc và nhiều nơi khác trong tỉnh. Ngoài ra
còn có các khoáng sản khác như: vàng ở huyện EaKar, chì ở huyện EaH’leo,
phốtpho ở Buôn Đôn, than bùn chủ yếu ở CưM’Gar cùng các loại đá quý, đá
ốp lát, cát đá xây dựng có trữ lượng không lớn phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh.
Điều kiện tự nhiên vốn có đã tạo ra thế mạnh cho tỉnh ĐăkLăk, nhưng
do trình độ còn nhiều hạn chế, nên các DTTS bản địa đã không khai thác
được thế mạnh phục vụ cho cuộc sống mà chủ yếu vẫn là dựa vào săn bắt, hái
lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên và canh tác sản xuất nhưng hiệu
quả thấp nên đời sống của đại bộ phận các DTTS bản địa còn hết sức khó
khăn. Để phát huy được nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có của tỉnh, vấn đề
12
căn cốt hiện nay là cần có một đội ngũ cán bộ KHKT đặc biệt là cán bộ
KHKT người DTTS để họ hướng dẫn cho DTTS bản địa, vận dụng những tri
thức khoa học vào việc khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên vốn có của địa phương mình.
Trước khi chia tách tỉnh (2004), ĐăkLăk gồm 18 huyện và 1 thành
phố. Dân số trên 1,7 triệu người, dân tộc kinh chiếm 44%, DTTS chiếm 56%,
mật độ dân số là 135 người/ km
2
, trong đó số dân làm nông nghiệp và sống ở
nông thôn chiếm tỷ lệ khoảng 70%.
Kinh tế ĐăkLăk nhìn chung chậm phát triển, công nghiệp, dịch vụ

manh mún thiếu tập trung, tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong cơ cấu
GDP của tỉnh cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong 5 năm
2001-2005 đạt 8,05%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân xấp xỉ 5,18%/
năm trong giai đoạn 2001-2005. Sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh gồm
các mặt hàng nông sản như: cà phê, tiêu, điều, ong mật, gỗ, cao su … trong
đó, các mặt hàng cà phê, ngô, gỗ, bông có sản lượng đứng đầu cả nước, đặc
biệt sản phẩm cà phê ĐăkLăk là mặt hàng nổi tiếng trên thế giới đã xuất khẩu
sang 83 quốc gia và vùng lãnh thổ, thâm nhập được vào cả những thị trường
khó tính, có yêu cầu cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như EU,
Mỹ, Nhật … Tuy nhiên, những mặt hàng xuất khẩu của ĐăkLăk đều ở dạng
thô nên hiệu quả kinh tế không cao, điều đó đòi hỏi cần đầu tư xây dựng
những nhà máy chế biến những sản phẩm đó ở dạng tinh để xuất khẩu. Muốn
làm được vậy cần quan tâm đến chính sách đào tạo và thu hút những cán bộ
KHKT về lĩnh vực này.
Xã hội Tây Nguyên nói chung và ĐăkLăk nói riêng là sự đan xen giữa
những yếu tố của xã hội truyền thống với hiện đại. Tính chất cư trú đan xen
giữa các tộc người là một hiện tượng phổ biến ở ĐăkLăk, nó không chỉ dừng
lại ở cấp độ xã, phường, thị trấn mà còn xuống tận các buôn, làng, thôn, xóm.
Và kéo theo là sự đa dạng, phong phú về phong tục, tập quán, truyền thống
13
văn hóa, truyền thống với đầy đủ tính chất hai mặt của nó. Như vậy, sự đa
dạng về thành phần dân tộc, sự đan xen về địa bàn cư trú là một nét nổi bật
của các DTTS ở ĐăkLăk.
ĐăkLăk là một trong những tỉnh có số lượng thành phần dân tộc đông
nhất nước. Hiện ĐăkLăk có 44 dân tộc anh em chung sống, chiếm 29,5% tổng
dân số cả tỉnh, trong đó 19,31% là đồng bào DTTS tại chỗ (Êđê, M’Nông,
GiaJai). Êđê dân tộc bản địa chiếm tỷ lệ cao nhất là 14,8% so với các DTTS
khác. Trong các DTTS ở nhiều vùng khác nhau di cư vào thì dân tộc Tày,
Nùng chiếm tỷ lệ lớn nhất gần 6%. Có 7 dân tộc có số dân trên 1 vạn người là
Êđê, M’Nông, GiaJai, Tày, Nùng, Thái, Mường.

Khoảng cách về trình độ phát triển giữa các dân tộc tương đối cao. Một
số dân tộc đã đạt tới trình độ tiên tiến, nhưng vẫn còn một bộ phận vẫn còn
mới chỉ vừa qua giai đoạn canh tác, đốt, phát, chọc, trỉa. Chính vì vậy, sự
phân hóa giữa các dân tộc thể hiện rõ nét hơn sự phân hóa trong nội bộ từng
dân tộc, rõ nét nhất là giữa dân tộc kinh với các DTTS bản địa. Sự phân hóa
đang có xu hướng tăng dần không chỉ giữa các dân tộc và trong nội bộ một
dân tộc, mà còn giữa các khu vực và các vùng trong tỉnh.
Đặc điểm này đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS ở
nhiều trình độ khác nhau, nhiều tộc người khác nhau và phải có khả năng
nhạy cảm với các vấn đề về dân tộc và quan hệ dân tộc, biết giải quyết nhanh,
đúng đắn, có hiệu quả trong quá trình chuyển đổi từ thói quen sản xuất lạc
hậu sang vận dụng KHKT vào sản xuất không ngừng nâng cao hiệu quả của
sản xuất tăng năng xuất lao động. Có thể nói đây là một yêu cầu không thể
thiếu được đối với người cán bộ KHKT là người DTTS ở ĐăkLăk.
ĐăkLăk là một vùng văn hóa giàu bản sắc và phong phú của nhiều
dân tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nó vừa đa dạng đan
xen; vừa thống nhất, kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bản sắc độc đáo,
tinh tế, một phong cách đặc thù với 3 dòng văn hóa chính:
14
- Văn hóa bản địa của các dân tộc Trường Sơn - Tây Nguyên
- Văn hóa của các DTTS phía Bắc
- Văn hóa của dân tộc Việt, mang đủ sắc thái 3 miền Bắc - Trung - Nam.
Cả ba dòng văn hóa này đang phát triển, giao thoa, đan xen, bồi đắp
cho nhau tạo nên nền văn hóa ĐăkLăk phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc
dân tộc. Văn hóa làng buôn ở ĐăkLăk là sự hội tụ của văn hóa nhà dài (Êđê,
M’Nông), văn hóa nhà rông (GiaJai, XêĐăng), văn hóa nhà sàn của các DTTS
phía Bắc và văn hóa đình làng của người Việt. Nơi đây vừa có hương ước
(quy ước) làng thể hiện sự gắn bó trong cộng đồng từ lâu đời, vừa thể hiện sự
giao kết giữa các cộng đồng trong việc thực hiện nếp sống văn minh, gia đình
văn hóa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

Nói đến văn hóa các dân tộc ĐăkLăk không thể không nói đến văn hóa
cồng chiêng hết sức độc đáo, với sự hội nhập của các dàn chiêng Knar (Êđê),
GôngPế (M’Nông), Aráp (XêĐăng, GiaJai) tạo nên một bản hợp sướng giàu
âm điệu của núi rừng Tây Nguyên.
Là một trong những dân tộc bản địa lâu đời ở ĐăkLăk, người Êđê có
một hệ thống lễ hội dân gian hết sức phong phú, đa dạng và độc đáo. Đặc biệt
là lễ nghi nông nghiệp theo nông lịch chu kỳ hàng năm như lễ ăn cơm mới,
cúng bến nước, cầu mưa, lễ đâm trâu, lễ mừng được mùa … Vấn đề đặt ra ở
đây là, hệ thống lễ hội phong phú như vậy vừa chứa đựng những quan niệm
mê tín dị đoan cần được xóa bỏ nhưng cũng bao hàm chứa đựng ý nghĩa nhân
văn, giáo dục đạo đức và ý thức cộng đồng của các thành viên buôn làng, cần
được tiếp tục nghiên cứu và cải biến cho phù hợp với nhu cầu đời sống văn
hóa mới.
Một nét đặc sắc trong văn hóa các dân tộc ở ĐăkLăk là các Sử thi. Nội
dung của các Sử thi mang đậm tính lịch sử, trong đó các sinh hoạt xã hội, tín
ngưỡng, phong tục tập quán được miêu tả cụ thể và sinh động bằng những lời
văn vần xúc tích, trau chuốt và mang tính nghệ thuật cao. Các Sử thi thường
15
được kể trong các lễ hội cầu chúc sức khỏe, lễ cơm mới, các lễ hội sau mùa
gặt hái … phản ánh khát vọng tự do của con người hướng về cội nguồn tổ
tiên, cội nguồn dân tộc; về ý thức cộng đồng buôn làng. Các nội dung này có
ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ, hình thành mối quan hệ
giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên một cách hài
hòa, góp phần trong việc tạo dựng phẩm chất khoan dung, sự đoàn kết gắn bó
và tính cộng đồng bền chặt xây dựng quê hương giàu đẹp hơn.
Người Êđê theo chế độ mẫu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, lấy họ mẹ.
Trong cuộc sống gia đình, vai trò của người phụ nữ trở thành chính yếu, từ
việc nắm giữ kinh tế, nuôi dạy con cái, tổ chức cuộc sống, còn người đàn ông
chỉ lo nương rẫy. Chính sự phân công xã hội từ bản sắc văn hóa cộng đồng
này đã ảnh hưởng đến nhân cách của người DTTS hiện nay theo hai chiều:

tâm lý tự ti thụ động. Mặt khác, tuy người vợ có vị thế quan trọng trong gia
đình nhưng trong quan hệ xã hội thì người đàn ông vẫn giữ vị trí quan trọng.
Cho nên nam giới vẫn dễ thoát ly, nữ giới vẫn dễ bị cột chặt vào công việc gia
đình, dòng họ. Thực tế này đã ảnh hưởng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ
nữ người DTTS.
Sống trong một xã hội mà ý thức cộng đồng bao giỡ cũng là tính trội
so với ý thức sống và làm việc theo pháp luật; những tàn tích của gia đình
mẫu hệ vẫn còn tồn tại; những thói quen và tập tục lạc hậu từ ngàn đời vẫn
níu kéo con người làm cho người cán bộ DTTS bàng quang trước cái mới
và ngại thay đổi.
Yếu tố xã hội truyền thống này ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình
thành nhân cách, tâm lý của người cán bộ DTTS, chỉ dừng lại ở tư duy trực
quan, cảm tính mà không vươn tới tư duy lý luận, tư duy khoa học, làm cho
năng lực cá nhân chưa được phát triển một cách đầy đủ.
ĐăkLăk chịu sự chi phối rất lớn bởi đặc điểm tình hình của một địa
bàn miền núi, biên giới, nơi có nhiều thành phần dân tộc và tôn giáo đang
16
hoạt động; là địa bàn tập trung đầy đủ các yếu tố về dân tộc, tôn giáo, biên
giới hết sức phức tạp và nhạy cảm. Tỉnh có 10 xã của 6 huyện tiếp giáp với
tỉnh Munđunkiri với 193km đường biên giới. Có 24,6% dân số theo tôn giáo,
trong đó Công giáo 214.425 người, Phật Giáo 123.619 người, Tin lành
135.836 người, Cao Đài 4.200 người, Hòa Hảo 175 người; có mối liên quan
và ảnh hưởng mật thiết với yêu cầu xây dựng và bảo vệ khu vực Tây Nguyên
cũng như của cả nước. Sự ổn định và phát triển của ĐăkLăk gắn liền với sự
ổn định và phát triển của cả khu vực Tây Nguyên và trong cả nước.
Với vị trí chiến lược của mình, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, ĐăkLăk
luôn là một trong những địa bàn mà các lực lượng thù địch chống phá quyết
liệt, tìm cách chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm suy yếu chế độ XHCN do
Đảng ta lãnh đạo. Trong thời gian gần đây, các thế lực phản động quốc tế đã
và đang lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để đẩy mạnh việc thực hiện diễn

biến hòa bình kết hợp với âm mưu bạo loạn lật đổ ở ĐăkLăk bằng nhiều thủ
đoạn chống phá trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, gia tăng
việc truyền đạo tin lành trái phép. Núp dưới danh nghĩa dân tộc, tôn giáo, các
thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, chia rẽ tổ chức đảng, chính quyền với đồng
bào các dân tộc, lừa gạt, dụ dỗ, kể cả đe dọa để lôi kéo đồng bào nhằm gây ra
sự mất ổn định về an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Vụ bạo loạn mang tính chất chính trị diễn ra vào năm 2001 và 2004
nhằm mục đích công khai cái gọi là “Nhà nước Đềgar độc lập”. Việc phát
triển tổ chức “Tin lành Đềgar”, lôi kéo kích động lừa phỉnh đồng bào vượt
biên trái phép sang Cămpuchia, phát tán tờ rơi, viết khẩu hiệu chống chính
quyền, chống Đảng … đều nằm trong âm mưu nói trên.
Đặc điểm này đòi hỏi và yêu cầu trong quá trình xây dựng, đào tạo đội
ngũ cán bộ DTTS nói chung, đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS nói riêng
phải hết sức chú ý vấn đề rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với lý tưởng cách mạng, đề cao cảnh giác, nắm vững và quán triệt
17
các quan điểm của đảng về chính sách dân tộc, tôn giáo, độc lập dân tộc với
an ninh biên giới, phát triển kinh tế gắn liền với ổn định xã hội và giữ vững
chính trị, an ninh, quốc phòng, có khả năng nhạy bén chính trị, khôn khéo và
kiên quyết trong xử lý, giải quyết công việc khi có “điểm nóng chính trị” xảy
ra. Hơn bao giờ hết trong những hoàn cảnh có vấn đề đòi hỏi cán bộ, đảng
viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk
vốn rất phức tạp bởi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.
Tất cả những vấn đề trên cho thấy, cùng với việc học tập, nâng cao
trình độ chuyên môn trong nhà trường thì việc giữ vững bản lĩnh chính trị,
không ngừng rèn luyện tu dưỡng đạo đức và tư cách có ý nghĩa hết sức quan
trọng để đội ngũ cán bộ KHKT người DTTS ở ĐăkLăk đủ sức vươn lên đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Những đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của tỉnh
ĐăkLăk là cơ sở thực tiễn của một trong năm tỉnh ở Tây Nguyên để Trung

ương Đảng đề ra đường lối lãnh đạo khu vực Tây Nguyên phát triển bền vững
và ổn định chính trị.
1.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ
ĐÀO TẠO CÁN BỘ KHOA HỌC-KỸ THUẬT NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ
Sự phát triển của lịch sử nhân loại đã và sẽ tiếp tục chứng minh KHKT
luôn chứa đựng trong bản thân nó một sức mạnh tiềm tàng, KHKT có thể
mang lại cho con người những lợi ích to lớn, song cũng có thể đặt con người
trước những nguy cơ, hiểm họa khôn lường. Mác đã từng nhấn mạnh đến
những hậu quả, đặc biệt là về mặt xã hội do sự phát triển của KHKT dưới chủ
nghĩa tư bản mang lại. Ngày nay, khi phải đối mặt với những hậu quả do sự
lạm dụng KHKT vì những toan tính vụ lợi, ích kỷ của con người gây ra như ô
nhiễm môi trường sống, ngộ độc thực phẩm, bệnh tật … chúng ta càng cảm
nhận rõ hơn chiều sâu trong tư tưởng của Mác về vấn đề này. Hơn lúc nào
hết, trong thời đại ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học
18
và công nghệ cần phải có đội ngũ cán bộ KHKT để biến sức mạnh tiềm tàng
vốn có của KHKT thành hiện thực phục vụ cho cuộc sống của con người
đồng thời chính họ cũng là những người tham gia vào công việc ngăn ngừa,
khắc phục những hiểm họa mà chính KHKT tạo ra.
Kế thừa những tư tưởng của Mác và Ăngghen, sau khi giành được
chính quyền, để đáp ứng được yêu cầu của công cuộc bảo vệ và xây dựng
CNXH, và trong sự nghiệp công nghiệp hóa XHCN, một nhiệm vụ rất mới
mẻ đặt ra trước công nhân và Đảng của giai cấp công nhân đó là nhiệm vụ
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế nhằm xây dựng thắng lợi CNXH. Lênin đã
tiến hành đánh giá, sắp xếp lại, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cho phù
hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Lênin rất chú ý đến việc rèn luyện, đào
tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên trẻ, đó là những người có khả năng tiếp thu
nhanh kiến thức về KHKT, quản lý kinh tế-xã hội, quản lý nhà nước, là những
người kế thừa sự nghiệp lãnh đạo đất nước, lãnh đạo cách mạng trong tương
lai, đó là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà nước Xôviết. Lênin nêu rõ: Tiến

tới xóa bỏ sự phân công giữa người và người, đồng thời giáo dục, huấn luyện và
trau dồi nên lớp người có tri thức về mọi mặt, nghĩa là những người có khả năng
làm được tất cả mọi việc. Chủ nghĩa cộng sản đang đi theo hướng ấy.
Còn J.Stalin thì cho rằng: Bản thân chúng ta cần phải trở thành những
nhà chuyên môn, những người làm chủ công việc; chúng ta cần phải hướng về
phía những trí thức kỹ thuật; đấy là phía mà cuộc sống đang đẩy chúng ta đi
tới … Đã đến lúc gấp rút chúng ta phải hướng về kỹ thuật … bản thân chúng
ta phải trở thành những nhà chuyên môn, những người thông hiểu kỹ thuật,
bản thân chúng ta phải trở thành những người hoàn toàn làm chủ được công
tác kinh tế.
Bình đẳng dân tộc là một nguyên tắc cực kỳ quan trọng trong Cương
lĩnh về vấn đề dân tộc của Lênin. Đây là một sự bình đẳng hoàn toàn, một sự
bình đẳng toàn diện giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
19
hóa, Lênin đã chỉ rõ rằng: Người nào không thừa nhận và không bảo vệ quyền
bình đẳng giữa các dân tộc và bình đẳng giữa các ngôn ngữ, không đấu tranh
chống mọi áp bức hay mọi bất bình đẳng dân tộc, người đó không phải là
người mácxít, thậm chí cũng không phải là người dân chủ nữa. Bình đẳng văn
hóa có nghĩa là các dân tộc có quyền sử dụng tiếng mẹ đẻ trong trường học …
Mặt khác, Lênin cho rằng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa sẽ đòi hỏi các
dân tộc sống trong một quốc gia phải học tiếng của dân tộc đa số.
Có thể thấy, theo Lênin vấn đề cán bộ có tri thức về mọi lĩnh vực và
đặc biệt là lĩnh vực KHKT được quan tâm hàng đầu trong công cuộc bảo vệ
và xây dựng chính quyền Xôviết và Người cũng quan tâm đến việc thực hiện
bình đẳng dân tộc trên mọi phương diện cũng như việc phải đoàn kết dân tộc
để chung tay xây dựng chính quyền Xôviết vững mạnh. Tuy nhiên, Lênin
chưa đề cập rõ nét về việc đào tạo đội ngũ trí thức DTTS chính là tạo điều
kiện để các dân tộc vượt lên thực hiện quyền bình đẳng.
Bình đẳng dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh có 3 cấp độ: bình đẳng
giữa các quốc gia dân tộc; bình đẳng giữa dân tộc đa số và các DTTS, bình

đẳng giữa các DTTS với nhau trong một quốc gia đa dân tộc; bình đẳng giữa
các cá nhân, giữa các công dân, giữa các thành viên trong xã hội, không phân
biệt nam hay nữ, giàu hay nghèo, địa vị cao hay thấp trong xã hội …
Hồ Chí Minh coi thời đại của chúng ta bây giờ là thời đại vệ tinh nhân
tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển mạnh, thời đại XHCN. Tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội nghị phổ biến KHKT Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: không phải từ sản xuất mà ra và phải trở
lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng xuất lao động
và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, đảm bảo cho CNXH thắng
lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục KHKT
cho nhân dân, coi việc cung cấp tri thức KHKT là một nội dung cơ bản của
giáo dục. Người quan tâm đến việc tập hợp trí thức, trọng dụng nhân tài,
20
chăm lo xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ KHKT. Bởi vì, theo Người muốn
phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân
dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư.
Chính vì thế, Người đã khẳng định một cách dứt khoát rằng, cách mạng
XHCN phải gắn liền với sự phát triển của KHKT, với sự phát triển văn hóa
của nhân dân; đồng thời tin tưởng rằng, CNXH cộng với khoa học chắc chắn
sẽ mang lại cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho dân tộc Việt Nam nói chung và
cho đồng bào các DTTS nói riêng.
Để cho đồng bào DTTS có cuộc sống ấm no, Hồ Chí Minh khẳng định
phải làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, Người chỉ rõ Đảng và Chính phủ
phải có kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền núi. Đồng
bào miền xuôi phải giúp đỡ đồng bào miền núi. Đồng thời các DTTS cũng
phải không ngừng vươn lên. Động viên đồng bào miền núi tăng gia sản xuất,
thực hành tiết kiệm. Xây dựng hệ thống giao thông, liên lạc thuận lợi hơn.
Phát triển nông nghiệp toàn diện, tùy theo điều kiện của từng địa phương mà
phát triển cây lương thực hay cây ăn quả, cây công nghiệp. Đưa tiến bộ
KHKT vào các ngành nông, lâm nghiệp, đẩy mạnh phong trào cải tiến công

cụ, chống xói mòn đất trồng. Kết hợp chặt chẽ công nghiệp địa phương, thủ
công nghiệp và nông nghiệp; sản xuất và chế biến, thương nghiệp … Muốn
vậy, phải đào tạo được đội ngũ cán bộ DTTS và cán bộ DTTS làm KHKT.
Đào tạo DTTS là sự thể hiện nội dung của tư tưởng bình đẳng và chiến
lược con người của Hồ Chí Minh. Trong Hội nghị Tuyên giáo miền Núi
(1963), Người nói: Hiện nay, lại có hơn 30 trường thanh niên dân tộc vừa học
vừa làm, để đào tạo cán bộ địa phương, vừa có văn hóa, vừa có kỹ thuật, vừa
giỏi lao động. Loại trường đó rất tốt, cần giúp cho trường đó phát triển đúng
phương hướng … đây là trường học để đào tạo cán bộ. Hồ Chí Minh cũng rất
chú trọng đến khâu bồi dưỡng cán bộ miền núi về chính trị, văn hóa và nghiệp
vụ bằng nhiều hình thức, phương pháp bồi dưỡng đa dạng. Cử đi học văn hóa
21
để nâng cao trình độ, từ bổ túc, các trường phổ thông, rồi đại học, trên đại
học. Cử đi học các trường kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sơ cấp, trung cấp kỹ
thuật đến đại học kỹ thuật.
Nhận rõ vai trò và tầm quan trọng to lớn của lực lượng cách mạng
trong vùng đồng bào các dân tộc, ngay từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã có chính sách dân tộc đúng đắn, động viên và tập hợp lực lượng các
DTTS tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và ngày nay là sự nghiệp
đổi mới đất nước. Trong 79 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991). Chính sách dân tộc của Đảng được bổ
sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn cách mạng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Nội dung chủ yếu,
xuyên suốt và nhất quán trong chính sách dân tộc của Đảng ta là các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và phát triển bền
vững. Đây là một trong những đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất ưu việt của
chế độ XHCN ở nước ta.
Tinh thần cơ bản trên đã được thể chế vào Hiến Pháp năm 1946, được
cụ thể hóa trong Hiến Pháp năm 1959 và được khẳng định lại ở Hiến Pháp

năm 1992:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước
thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa
các dân tộc; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc … Nhà
nước thực hiện chính sách phát triển về mọi mặt, từng bước nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS [25, tr. 255-256].
Để chính sách dân tộc thực sự đi vào cuộc sống, trở thành hiện thực,
Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, đề cập đến việc đào tạo, bồi dưỡng và
sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ DTTS.
22
Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, ngày
27/ 11/ 1989 và Quyết định 72 của Hội đồng bộ trưởng, ngày 13/ 3/ 1990 đều
đề cập đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và các chính sách đối với đội ngũ cán
bộ DTTS. Để thực hiện trên thực tế quyền bình đẳng, giữa các dân tộc, một
mặt pháp luật phải bảo đảm quyền bình đẳng đó, mặt khác phải có chính sách
và tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc miền núi vươn lên mạnh mẽ, phát
triển kinh tế, văn hóa, từng bước nâng cao năng xuất lao động, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, coi trọng đào tạo cán bộ người dân
tộc; tôn trọng và phát huy những phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa
tốt đẹp của các dân tộc. Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ
sở mỗi dân tộc phát huy bản sắc văn hóa của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn
hóa của các dân tộc khác và góp phần phát triển văn hóa chung của cả nước.
Ngày 16/ 5/ 1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 37/ CT-
TW, Chỉ thị nêu cụ thể: Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ KHKT, kinh tế,
pháp luật, hành chính, quản lý nhà nước … cán bộ nữ, dân tộc ít người, tôn
giáo, vùng sâu, vùng xa. Trong các trường đại học cần xây dựng một số
trường đại học và một số ngành trọng điểm có đủ năng lực đào tạo được các
nhà khoa học và kỹ thuật giỏi cho đất nước.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng đã

xác định phương hướng đến năm 2000 trong việc thực hiện chính sách dân
tộc của đảng là, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, phải thực hiện
cho được 3 mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải
thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào các DTTS; nâng cao trình độ dân
trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của các dân tộc; xây
dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các DTTS ở các
vùng, các cấp trong sạch vững mạnh.
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng
đội ngũ cán bộ KHKT, trong đó có cán bộ DTTS. Xuất phát từ đặc điểm riêng
23
của đồng bào DTTS nên chủ trương của Đảng là có chính sách bảo đảm cho
con em các gia đình trong diện chính sách, gia đình nghèo được đi học và mở
thêm các trường phổ thông dân tộc nội trú ở những vùng khó khăn, vùng đồng
bào thiểu số, coi đây là một bộ phận quan trọng trong đường lối cách mạng
của Đảng. Đối với việc phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi và vùng đồng bào
DTTS, Đại hội VIII đặt ra chương trình mục tiêu: khai thác mọi tiềm lực ở địa
phương và huy động sức của cả nước để tạo bước phát triển nhanh hơn về
kinh tế-xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh … tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển xã hội, văn hóa, bảo đảm
quốc phòng an ninh, phấn đấu giảm bớt khoảng cách giữa các vùng về mặt
tiến bộ xã hội.
Từ các mục tiêu nêu trên, Đảng ta yêu cầu đội ngũ cán bộ KHKT cần
phát huy sáng tạo trong nghiên cứu, đề cao trách nhiệm trước xã hội. Về phía
Đảng và Nhà nước:
Có chính sách chăm lo điều kiện làm việc, lợi ích vật chất và tinh
thần của người nghiên cứu, phát minh và ứng dụng khoa học, công
nghệ; bảo hộ quyền sở hữu trí tụê; ưu đãi nhân tài có cống hiến quan
trọng; khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở vùng sâu, vùng xa.
Ngăn chặn tình trạng “chảy máu chất xám”. [18, tr. 106, 107]
và khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí

của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu
bằng khoa học và công nghệ.
Nhằm từng bước đổi mới giáo dục, Đại hội VIII của Đảng xác định đổi
mới hệ thống giáo dục chuyên nghiệp và đại học, kết hợp đào tạo với nghiên
cứu, tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến. Bên cạnh
đổi mới giáo dục chúng ta cũng tính đến hiệu quả của việc sử dụng đội ngũ
cán bộ được đào tạo và từ khâu sử dụng cán bộ cũng là cơ sở để hoạch định
chiến lược phát triển giáo dục về các lĩnh vực chuyên môn cần chú ý đào tạo
24
cho trước mắt cũng như lâu dài: “Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo với
sử dụng. Xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công
nghệ” [18, tr. 109]
Hội nghị Trung ương lần thứ Hai khóa VIII của Đảng cũng đã nhấn
mạnh đến việc nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường phát huy cao độ
trí tụê và nguồn lực nội sinh, lấy phát triển GDĐT, khoa học và công nghệ
làm yếu tố cơ bản coi đó là then chốt đột phá để tiến hành CNH, HĐH đất
nước. Thực tế đã chứng minh rằng, khoa học và công nghệ muốn phát triển là
do con người, do đội ngũ trí thức. Con người được GDĐT sẽ là động lực của
sự phát triển kinh tế-xã hội. Khoa học công nghệ đã đưa GDĐT lên vị trí
chiến lược trong sự nghiệp CNH, HĐH ở mỗi quốc gia. Chính vì vậy, xu thế
đi lên bằng giáo dục, bằng khoa học công nghệ đã và đang trở thành xu thế
của thời đại.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình
phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu,
vùng xa số 135, ngày 31/ 7/ 1998 chỉ rõ nhiệm vụ của chương trình 135 là
phải đào tạo cán bộ xã, bản, làng, phum, sooc, giúp cán bộ cơ sở nâng cao
trình độ quản lý hành chính và kinh tế để phục vụ yêu cầu phát triển kinh
tế-xã hội tại địa phương. Nhà nước sẽ có chính sách phát triển nguồn nhân
lực như hỗ trợ kinh phí để mở lớp dạy nghề cho con em đồng bào dân tộc
nhằm khai thác tiềm năng tại chỗ, phát triển các ngành nghề phi nông

nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh:
“Phát huy tính tích cực sáng tạo, tính dân chủ trong hoạt động khoa học và
công nghệ. Đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng
dụng và tôn vinh nhân tài”. Về công tác cán bộ, Đại hội IX tiếp tục khẳng
định quan điểm đổi mới mà Đại hội VI, VII, VIII đã nêu và nhấn mạnh, có cơ
chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng
25

×