Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Công cụ bảo hộ thương mại tại việt nam và ý nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.43 KB, 31 trang )

Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Mục Lục
Phần mở đầu

3

Chương 1: Cơ sở lý thuyết về bảo hộ thương mại

5

1.1. Khái niệm của bảo hộ thương mại

5

1.1.1. Bảo hộ thương mại là gì?

5

1.1.2. Bảo hộ thương mại mới là gì?

5

1.1.3. Vai trò của các công cụ bảo hộ thương mại và nhược điểm

5

1.2. Các biện pháp bảo hộ thương mại theo qui định của WTO

6

1.2.1. Các biện pháp thuế quan



7

1.2.1.1. Khái niệm, vai trò của thuế quan

7

1.2.1.2. Phân loại thuế quan

8

1.2.2. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan

9

1.2.2.1. Các biện pháp hạn chế định lượng

9

1.2.2.2. Các biện pháp quản lý giá

10

1.2.2.3. Rào cản kỹ thuật liên quan đến thương mại

10

1.2.2.4. Các biện pháp bảo hộ thương mại tạm thời

11


1.2.2.5. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp

12

1.2.2.6. Các biện pháp khác

13

Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam

14

2.1. Lý do cấp thiết của việc sử dụng các biện pháp bảo hộ thương mại ở Việt Nam

14

2.1.1. Tình hình nhập khẩu của Việt Nam không ngừng gia

14

2.1.2. Tổng quan về khả năng cạnh tranh của Việt Nam

18

2.1.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam

18

2.1.2.2. Khả năng cạnh tranh doanh nghiệp và ngành của Việt Nam


18

2.1.2.3. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam

19

2.2. Thực tế áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam

19

2.2.1. Thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam trong những năm 19
Page 1


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
gần đây và đánh giá
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam 23
trong những năm gần đây
2.2.2.1. Khủng hoảng kinh tế

23

2.2.2.2. Khung pháp lý thiếu hoàn thiện, nhiều bất cập trong quá trình thực thi các chính 24
sách còn tồn tại
2.2.2.3. Hiệu quả quản lý của Nhà nước, các bộ ngành còn chưa cao

24

2.2.2.4. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước còn kém


25

2.2.2.5. Nhận thức của doanh nghiệp về các biện pháp bảo hộ thương mại tạm thời còn 25
kém
Chương 3: Một số đề xuất để sử dụng hiệu quả các biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt 26
Nam
3.1. Giải pháp về phía Nhà nước

26

3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý về bảo hộ thương mại

26

3.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý, thi hành các chính sách về bảo hộ thương mại

26

3.1.3. Đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn cao về bảo hộ thương mại

27

3.1.4. Nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về việc áp dụng các biện pháp bảo hộ 27
thương mại
3.2. Giải pháp về phía doanh nghiệp

28

3.2.1. Chủ động tìm hiểu những quy định về việc áp dụng các biện pháp bảo hộ thương 28

mại
3.2.2. Tích cực tham gia vào tổ chức các hiệp hội

28

3.2.3. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước

29

Kết luận

30

Tài liệu tham khảo

31

Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài

Page 2


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, khái niệm buôn bán không còn được hiểu theo nghĩa đen
thuần túy như trước mà nó bao gồm một phạm vị rộng lớn hơn, bao trùm lên mọi hoạt động kinh
tế của toàn bộ các quốc gia. Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn
đều đi theo xu hướng tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực và thế giới,
đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực, trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực được coi là
trọng tâm. Có thể khái quát nền kinh tế thương mại trong thế kỷ XXI như sau: thị trường là toàn

cầu, định chế quản lý là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và các định chế của các khối kinh
tế khu vực, chủ thể kinh doanh chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Trong xu thế này, ranh
giới giữa thị trường nội địa và quốc tế bị thu hẹp lại một cách mong manh trong bối cảnh toàn
cầu hóa và khu vực hóa sâu sắc này. Các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia, đa quốc gia với phạm
vu toàn cầu luôn nhăm nhe tìm kiếm và tìm cách thống trị các thị trường tiềm năng màu mỡ tại
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.Mặc dù việc ra nhập thị trường của các công ty,
tập đoàn này mang lại nhiều lợi ích cho đất nước như: tăng cường việc làm, đầu tư ... nhưng nó
cũng kéo theo nhiều mối đe dọa đến thị trường hàng hóa nội địa. Đối với mối đe dọa “cá lớn
nuốt cá bé” này, chính phủ Việt Nam cùng các ban ngành đóng vai trò quan trọng trong việc
quản lý và điều tiết các chính sách kinh tế để đối phó. Chính sách bảo hộ thương mại là một cơ
sở vứng chắc cần phải được đề cập đến để giải quyết hoặc hạn chế các vấn đề nan giải này.
Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính hiện nay, các công cụ bảo hộ thương mại lại càng được sử
dụng mạnh mẽ không chỉ tại các quốc gia đang phát triển mà còn tại các cường quốc kinh tế
nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của họ cũng như liên minh. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới
World Bank, từ 10/2008 đến 2/2009 các nước trong khối G20 đã sử dụng hơn 41 biện pháp bảo
hộ thương mại. Dưới tác động của khủng hoảng cũng như xu thế toàn cầu, Việt Nam cũng tăng
cường áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại một cách thận trọng trên cơ sở tôn trọng cam
kết với WTO. Cụ thể nhiều mặt hàng nhập khẩu đã được điều chỉnh tăng thuế, gần đây nhất là
Thông tư số 79/2013/TT-BTC tăng thuế đối với mặt hàng đường nhập khẩu.
Như vậy, bảo hộ thương mại là một vấn đề mang tính quốc tế đang quan tâm không chỉ bởi các
cường quốc mà còn của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Kể từ khi gia nhập
WTO, Việt Nam vẫn duy trì việc sử dụng các công cụ để bảo hộ thương mại. Vậy Việt Nam
đang sử dụng các công cụ nào? Ý nghĩa của chúng? Thực trạng các công cụ bảo hộ đang diễn ra
thế nào? Giải pháp nào để thực hiện chúng một cách có khoa học và hiệu quả? Đó là những câu
hỏi cần thiết phải trả lời cho Việt Nam trong thời gian tới. Bởi tính cấp thiết này nên đề tài niên
luận của em là “Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa”
2. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu đề tài “Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa” với mục đích:
-


Nắm vững khái niệm về bảo hộ thương mại, khái niệm về các công cụ thuế quan và phi
thuế quan, nhận định mục đích và hoàn cảnh sử dụng của từng loại công cụ thuế quan và
phi thuế quan
Page 3


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
-

-

Nâng cao tầm hiểu biết thực trạng về các loại công cụ bảo hộ thương mại đang được
chính phủ Việt Nam sử dụng đối với các bạn hàng quốc tế khi xuất khẩu vào thị trường
Việt Nam.
Đồng thời hiểu rõ các ưu điểm cũng như hạn chế của các biện pháp này để đưa ra các
biện pháp khắc phục

Mục tiêu của đề tài là giải quyết các câu hỏi:
-

Bảo hộ thương mại là gì? Các công cụ của bảo hộ thương mại gồm những biện pháp nào?
Mục đích và hoàn cảnh áp dụng của chúng?
Thực trạng áp dụng các công cụ bảo hộ thương mại ở Việt Nam như thế nào? Ưu điểm và
hạn chế? Nguyên nhân?
Hướng dề xuất giải quyết các hạn chế của công cụ bảo hộ thương mại ở Việt Nam là gi?

3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Công cụ bảo hộ thương mại ở Việt Nam và ý nghĩa” là những
công cụ thuế quan và phi thuế quan được Việt Nam áp dụng đối với các mặt hàng nhập khẩu vào
thị trường nội địa, cũng như ý nghĩa và tác động của các công cụ này đối với thị trường Việt

Nam.
Phạm vi nghiên cứu là các công cụ bảo hộ thương mại đối với các hàng hóa được nhập khẩu vào
Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Tham khảo tài liệu
5. Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về bảo hộ thương mại
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam
Chương 3: Một số đề xuất để sử dụng hiệu quả các biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam

Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hộ thương mại
1.1. Khái niệm của bảo hộ thương mại
Page 4


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
1.1.1. Bảo hộ thương mại là gì?
“Bảo hộ thương mại (hay còn gọi là bảo hộ mậu dịch) là chính sách ngoại thương của các nước
nhằm một mặt sử dụng các biện pháp để bảo vệ thị trường nội địa trước sự cạnh tranh dữ dội của
hàng ngoại nhập, mặt khác giúp Nhà nước nâng đỡ các nhà kinh doanh trong nước bành trướng
ra thị trường nước ngoài”1
Chính phủ các nước bảo hộ thương mại bằng cách sử dụng những biện pháp thuế quan và phi
thuế quan: thuế quan, hệ thống thuế nội địa, giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các biện pháp
kĩ thuật… nhằm hạn chế các mặt hàng nhập khẩu từ nước ngoài.
Chính phủ các nước cũng giúp các nhà xuất khẩu trong nước đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa ra thị
trường nước ngoài bằng cách giảm hoặc miễn thuế xuất khẩu, thuế doanh thu, thuế lợi tức, trợ
cấp xuất khẩu ...
1.1.2. Bảo hộ thương mại mới là gì?
Đối diện với khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 2007, các nước trong nhóm G20 lợi dụng việc
giải cứu và khắc phục hậu quả để thiết lập lại hàng loạt các biện pháp bảo hộ mậu dịch. Theo số

liệu thông kê từ Ngân hàng thế giới, từ 10/2008 đến 02/2009 đã có 41 biện pháp được áp dụng,
trong đó các biện pháp thuế quan chiếm số lượng rất nhỏ mà đặc biệt các biện pháp phi thuế
quan được áp dụng triệt để một cách tinh vi.
Từ thực tế trên, ta có thể hiểu bảo hộ thương mại mới là việc tái áp dụng trở lại chính sách ngoại
thương của các nước, đặc biệt là các chính sách phi thuế, nhằm bảo vệ thị trường nội địa trước sự
cạnh tranh của hàng nhập khẩu nhằm khắc hậu quả của khủng hoảng kinh tế.
1.1.3. Vai trò của các công cụ bảo hộ thương mại và nhược điểm
Các công cụ bảo hộ thương mại có vai trò:
-Hàng hóa nhập khẩu bị giảm bớt sức cạnh tranh trong thị trường nội địa.
-Hàng hóa của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước được bảo hộ, giúp đẩy mạnh sức cạnh
tranh của hàng hóa này trong thị trường nội địa.
-Các nhà xuất khẩu dễ dàng hơn trong việc thâm nhập vào thị trường nước ngoài.
-Cán cân thanh toán quốc tế được điều tiết.
-Nguồn ngoại tệ thanh toán của mỗi nước được phân bổ sử dụng hợp lý
Bên cạnh các ưu điểm, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng mang đến một số nhược điểm:

1

giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - GS.TS Võ Thanh Thu

Page 5


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
-Nếu tiến hành bảo hộ thị trường nội địa khắt khe thì chính sách này sẽ làm tổn thương đến sự
phát triển của thương mại quốc tế, cô lập nền kinh tế của quốc gia đó, đi ngược với xu thế ngày
nay là toàn cấu hóa trong lĩnh vực kinh tế.
-Bảo hộ quá chặt sẽ triệt tiêu sự cạnh tranh trong thị trường nội địa. Trong khi đó cạnh tranh là
nền tảng của sự cải tiến phát triển. Điểu này dẫn đến sự trì trệ, kém linh hoạt trong việc kinh
doanh đầu tư của các nhà sản xuất kinh doanh trong nước. Đây sẽ là nguy cơ tiềm tàng trong

tương lai cho các nhà sản xuất này nếu quốc gia này tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực
hay thế giới đặc biệt là WTO, khi phải chấp nhận chịu sự cạnh tranh khốc liệt của các nhà sản
xuất quốc tế trên thị trường thế giới và hàng rào thuế quan bị giảm khi tham gia vào WTO hay
các khu vực mậu dịch tự do trên thế giới.
- Bảo hộ quá chặt cũng dẫn tới sự thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước bởi hàng hoá trên thị
trường kém đa dạng, mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng hàng hoá kém cải tiến do thiếu cạnh tranh
trong khi giá cả có thể đắt …
Trong thực tế, trên thế giới đã tồn tại hai chính sách bảo hộ mậu dịch, một là chính sách bảo hộ
mậu dịch “kiểu phòng ngự” và chính sách “tân bảo hộ” hoặc “siêu bảo hộ”
Chính sách bảo hộ mậu dịch “kiểu phòng ngự” thường diễn ra ở giai đoạn chuẩn bị chuyển sang
thực hiện chính sách mậu dịch tự do với mục đích bảo hộ các nhà kinh doanh sản xuất trong
nước ở thời kỳ chưa phát triển, chưa đủ sức cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài.
Còn chính sách “tân bảo hộ” hoặc “siêu bảo hộ” là chính sách ngoại thương của các nước tư bản
thời kỳ đế quốc. Mục đích của chính sách là hạn chế sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu, mặt
khác nâng đỡ các nhà xuất khẩu, đặc biệt thi hành các biện pháp khác nhau để giúp đỡ các tổ
chức chiếm lĩnh được thị trường nội địa vừa chủ động tấn công xâm nhập các thị trường nước
ngoài. Chính sách “siêu bảo hộ” là bước phát triển của chính sách bảo hộ mậu dịch, biến chính
sách ngoại thương từ mang tính chất cực đoan “ngăn chặn” sang vừa “ngăn chặn” vừa “tấn
công” và “bành trướng”. Cho nên nó còn được gọi là chủ nghĩa bảo hộ mang tính chất “xâm
lược”. Chính sách này xuất hiện từ cuối thế kỷ 19, bắt đầu từ nước Đức, sau đó lan rộng ra các
nước khác. Ngày nay chính sách siêu bảo hộ vẫn được duy trì dưới nhiều hình thức mới và tinh
vi.
1.2. Các biện pháp bảo hộ thương mại theo qui định của WTO
Hiện nay, tổ chức thương mại thế giới thực sự vẫn chưa đề cập tới phân loại các hàng rào bảo hộ
mậu dịch trong các tài liệu của mình mà chỉ đề cập tới các biện pháp để hạn chế nhập khẩu. Theo
diễn đàn về thương mại và phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCTAD), từ năm 1994 các biện
pháp kiểm soát nhập khẩu được chia thành hai nhóm là thuế quan (Tariff) và phi thuế quan
(Non-Tariff).
1.2.1. Các biện pháp thuế quan
Page 6



Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Thuế quan là loại rào cản thương mại hay một biện pháp bảo hộ mậu dịch phổ biến nhất trên thế
giới ngày nay và được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Cắt giảm thuế
quan luôn được nhắc đến trong tất cả các đàm phán hay hiệp định đa phương hay song phương
nhằm đi đến mục đích cuối cùng là tự do hóa thương mại. Trong qui định của WTO, thuế quan
phải áp dụng tại các nước như thế nào bởi rằng có rất nhiều loại thuế quan và mức thuế suất khác
nhau. Vậy thuế quan là gì? Và chúng đóng vai trò gì trong việc bảo hộ mậu dịch?
1.2.1.1 Khái niệm, vai trò
Thuế quan là khoản thu của nhà nước đưa ra đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu khi hàng hóa
đó đi làm thủ tục thông quan tại cửa khẩu hải quan hoặc đánh vào các tài khoản chuyển khoản
để thanh toán các hàng xuất nhập khẩu.
Ngày nay với vai trò là công cụ bảo hộ được sử dụng rộng rãi trên thế giới, WTO coi thuế quan
là một biện pháp hợp lệ và đồng ý cho các nước thành viên duy trì sử dụng trong thương mại
quốc tế. Tuy vậy, tổ chức thương mại thế giới WTO luôn hướng tới mục tiêu cắt giảm thuế quan
và mong muốn các nước thành viên không được phép tăng thuế lên mức trần đã cam kết trong
biểu.
Trong vai trò bảo hộ thương mại, thì thuế quan nhập khẩu có một số vai trò:
- Thuế nhập khẩu có vai trò điều tiết nhập khẩu: điểu chỉnh số lượng một mặt hàng được nhập
khẩu vào thị trường nội địa bởi thông qua đánh thuế, giá của hàng hóa sẽ tăng cao hơn, điều này
sẽ ảnh hưởng tới tính cạnh tranh của hàng hóa này trong thị trường nội địa.
- Thuế nhập khẩu như một công cụ bảo hộ cho ngành sản xuất then chốt, như Liên Minh Châu
Âu EU đánh thuế các mặt hàng nông nghiệp trong Chính sách nông nghiệp chung (CAP).
- Thuế quan được sử dụng để đưa giá cả của càc hàng hóa phá giá lên ngang bằng với giá cả
chung của thị trường.
- Thuế quan dùng để bảo hộ các ngành sản xuất còn non trẻ đến khi chúng có thể tự lực cạnh
tranh trên thị trường.
- Thuế nhập khẩu được xem là các công cụ phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại và gây áp
lực đối với các bạn hàng phải nhượng bộ trong đàm phán.Ví dụ gần đây, để trả đũa Liên Minh

Châu Âu EU tăng thuế nhập khẩu đánh vào mặt hàng pin mặt trời của Trung Quốc, Trung Quốc
thông báo đánh thuế cao hơn đối với mặt hàng rượu vang nhập khẩu từ Châu Âu.

1.2.1.2 Phân loại thuế quan
Dựa theo quan điểm của WTO, Viện nghiên cứu thương mại của Bộ thương mại chia thuế quan
làm 3 loại:
Page 7


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Thuế phần trăm (ad- valorem tariff) là loại thuế được các quốc gia chính phủ trên khắp thế giới
sử dụng phổ biến nhất. Chúng được đánh theo phần trăm vào tổng giá trị của một mặt hàng nhập
khẩu vào một quốc gia. Tại Việt Nam, phần lớn các mặt hàng nhập khẩu bị đánh thuế đều được
sử dụng loại thuế phần trăm này.
Thuế phi phần trăm (non- ad valorem tariff) được chia thành 3 loại:
-Thuế tuyệt đối (specific tariff) được sử dụng để đánh trực tiếp lên trên một đơn vị sản phẩm
nhập khẩu. Loại thuế này thường được áp dụng lên các mặt hàng nông sản.
-Thuế tuyệt đối thay thế (alternative specific tariff) là loại thuế qui định quyền được lựa chọn áp
dụng thuế tuyệt đối hay thuế phấn trăm.
-Thuế hỗn hợp (compound tariff) là loại thuế kết hợp giữa thuế tuyệt đối và thuế phần trăm. Ví
dụ, tại Nhật Bản, sữa nhập khẩu bị đánh thuế suất là 21,3% kèm với 54 Yên/kg
Thuế quan đặc thù bao gồm các loại thuế: hạn ngạch thuế quan, thuế quan đối kháng, thuế chống
bán phá giá, thuế thời vụ và thuế bổ sung.
-Hạn ngạch thuế quan: nhà nước sử dụng hạn ngạch thuế quan để quản lý hàng nhập khẩu bằng
hai mức thuế suất. Những hàng nằm trong hạn ngạch thuế quan có mức thuế thấp hơn và ngoài
hạn ngạch thuế quan thì có mức thuế suất cao hơn.
-Thuế đối kháng được nhà nước sử dụng để áp dụng vào mặt hàng nhập khẩu được nước xuất
khẩu trợ cấp.
-Thuế chống bán phá giá được áp dụng vào loại hàng hóa nhập khẩu bị phát hiện bán phá giá, tạo
sự cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường nội địa gây ảnh hưởng lớn tới các nhà kinh doanh

và sản xuất trong nước.
-Thuế thời vụ là loại thuế có mức thuế suất khác nhau cho cùng một loại sản phẩm. Loại thuế
này được áp dụng phần lớn đối với các mặt hàng nông sản. Vào vụ thu hoạch, mức thuế suất
đánh vào hàng hóa nhập khẩu sẽ cao để bảo hộ nền sản xuất trong nước, khi vụ thu hoạch kết
thúc thì mức thuế trở lại bình thường.
-Thuế bổ sung là loại thuế chỉ áp dụng trong trường hợp khẩn cấp để bảo hộ nền sản xuất trong
nước.

1.2.2. Các biện pháp bảo hộ phi thuế quan

Page 8


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Bên cạnh công cụ thuế quan, các quốc gia còn dùng các biện pháp khác được quy định trong hệ
thống pháp luật hay phát sinh từ thực tiễn quản lý hoạt động thương mại. Những biện pháp này
được gọi là biện pháp phi thuế quan.
1.2.2.1. Các biện pháp hạn chế định lượng
Các biện pháp hạn chế định lượng là những biện pháp bảo hộ thương mại mạnh mẽ, có lẽ còn
mạnh hơn cả biện pháp thuế quan và bóp méo thương mại quốc tế. Có lẽ do vậy mà các quốc gia
thành viên của WTO không được phép áp dụng các biện pháp này. Tuy nhiên vì một sô lý do
như an ninh quốc gia, bảo vệ môi trường ... vẫn có một số ngoại lệ. Dưới đây là một số biện pháp
hạn chế định lượng
Cấm nhập khẩu (Prohibitions) bao gồm cấm hoàn toàn, cấm theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận,
cấm sản phẩm nhạy cảm, tạm dừng cấp phép nhập khẩu... Đây là biện pháp bảo hộ mạnh nhất
trong thương mại quốc tế, gây ra hạn chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế. Nói chung, tổ
chức thương mại thế giới WTO không cho phép các nước thành viên sử dụng biện pháp cấm
nhập khẩu ngoại trừ một số trường hợp được quy định tại điều XX và XXI -GATT 1994, các
trường hợp đặc biệt như: đảm bảo an ninh quốc gia, đạo đức xã hội; bảo vệ con người, động vật
và thực vật; bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm; bảo vệ các tài sản quốc gia về nghệ

thuật, lịch sử hay khảo cổ, với điều kiện phải thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu
dùng nội địa liên quan tới chúng; và liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu vàng và bạc.
Hạn ngạch nhập khẩu (Quota) là hạn ngạch về số lượng hoặc giá trị của một loại hàng hóa được
cho phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Đây là biện pháp cũng bị
WTO không cho phép áp dụng các biện pháp này vì nó ảnh hưởng nhiều đến thương mại quốc
tế. Tuy nhiên, tại điều XVIII - GATT 1994, WTO cho phép áp dụng trong những trường hợp đặc
biệt như: bảo vệ tình hình tài chính đối ngoại, cán cân thanh toán, bảo vệ một số ngành công
nghiệp của nước đang phát triển, mà khi sử dụng các quốc gia phải thực hiện các điều kiện kèm
theo.
Giấy phép nhập khẩu (Import Licence) được coi là các thủ tục hành chính được sử dụng để thực
hiện chế độ cấp phép nhập khẩu và là điều kiện tiên quyết để được phép nhập khẩu. Giấy phép
nhập khẩu được chia làm hai loại :
- Giấy phép nhập khẩu tự động : được cấp trong khoảng thời gian tối đa là 10 ngày sau khi cơ
quan chức năng nhận được đơn xin cấp giấy phép nhập khẩu, không hạn chế khối lượng nhập
khẩu trong phạm vi điều chỉnh, không đặt ra hạn chế với nhà nhập khẩu.
- Giấy phép nhập khẩu không tự động : thường được dùng để quản lý và hạn chế số lượng, phải
được cấp trong khoảng thời gian tối đa là 30 ngày kể từ khi nhận được đơn xin cấp giấy phép
theo nguyên tắc thứ tự, và 60 ngày nếu tất cả các đơn xin cấp giấy phép được xem xét cùng một
lúc.

Page 9


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER- Volutary Export Restraint) là một hiệp định tự nguyện song
phương giữa hai chính phủ, hay giữa ngành xuất khẩu tư nhân với ngành tương tự ở nước nhập
khẩu, hoặc giữa chính phủ ở nước nhập khẩu với ngành đó ở nước xuất khẩu, nhằm hạn chế số
lượng một mặt hàng xuất khẩu vào một quốc gia.
1.2.2.2. Các biện pháp quản lý giá
Trị giá tính thuế hải quan (Custom valuation), theo Hiệp định về xác định trị giá tinh thuế hải

quan (CVA) của WTO, được cho phép xác định như sau:Trị giá giao dịch, Trị giá giao dịch của
hàng giống hệt, Trị giá giao dịch của hàng tương tự, Trị giá khấu trừ, Trị giá tính toán, Phương
pháp dự phòng. Ngoài những cách trên, mọi phương pháp xác định giá trị tính thuế hải quan
khác đều không được phép đối với các quốc gia thành viên của WTO như: giá nhập khẩu tối
thiểu, giá bán của hàng hoá tại thị trường nước xuất khẩu, định giá trên có sở giả định hay tuỳ
tiện ...
Giá bán tối đa (Maximum selling price) trong nước đối với một hàng hoá nào đó có thể hạn chế
nhập khẩu, đặc biệt là đối với những nhà xuất khẩu những hàng hóa không có khả năng cạnh
tranh cao.
Phí nhập khẩu thay đổi (Variable import levies) là một loại phí đánh vào nhập khẩu nhằm tăng
giá của sản phẩm nhập khẩu ít nhất cao bằng giá của sản phẩm trong nước. Loại phí này được
điều chỉnh thường xuyên để đáp ứng với những thay đổi trong giá cả thị trường thế giới, và được
áp dụng với mục đích bảo vệ giá được thiết lập trên thị trường thế giới.
Phụ thu (Surcharges) là một loại phụ phí để thêm vào chi phí của một hàng hóa hay một dịch vụ.
Thường thì phụ thu được thêm vào một khoản thuế hiện hành và có thể không bao ảnh hưởng
trong giá của hàng hóa hoặc dịch vụ. Phụ thu được coi như là một biện pháp tạm thời để bù đắp
chi phí cho một loại hàng hóa đang tăng giá, ví dụ như phụ phí cho nhiên liệu.
1.2.2.3. Rào cản kỹ thuật liên quan đến thương mại
Rào cản kỹ thuật liên quan đến thương mại là những biện pháp đang được sử dụng phổ biến trên
thế giới mà ít gặp phải những phản ứng trong thương mại quốc tế. Ngoài tác dụng bảo hệ sức
khỏe người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, ..., rào cản kĩ thuật trong thương mại còn là công cụ
bảo hộ nền sản xuất và thị trường trong nước hữu hiệu trước sự cạnh tranh của hàng hòa nhập
khẩu. Sau đây sẽ là một số biện pháp thuộc vào nhóm này:
Các quy định kỹ thuật (technical requirements) và tiêu chuẩn (standards): Tiêu chuẩn và quy
định kỹ thuật đặt ra các yêu cầu cụ thể đối với sản phẩm liên quan tới kích thước, hình dáng,
thiết kế, thành phần và các chức năng của sản phẩm. Bên cạnh đó, các yêu cầu này cũng có thể
quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản phẩm và mở rộng tới các quy trình và phương pháp
sản xuất liên quan tới sản phẩm. Tuy nhiên, giữa tiêu chuẩn và qui định kĩ thuật có điểm khác
biệt cơ bản: sự tuân thủ các tiêu chuẩn là mang tính tự nguyện, trong khi sự tuân thủ với các quy
Page 10



Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
định kỹ thuật là bắt buộc. Nhưng chúng cùng mang mục đích chung là bảo vệ sức khoẻ người
tiêu dùng, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, ngăn chặn các hành vi lừa dối, bảo vệ quyền lợi người
lao động... Tuy vậy, đối với các nước đang phát triền và kém thi các tiêu chuẩn và quy định liên
quan đến kỹ thuật này lại là một trong những cản trở lớn nhất đối với việc tiếp cận các thị trường
nước ngoài bởi nguyên nhân chủ yếu là những quốc gia này chưa đáp ứng được về công nghệ
sản xuất, chế biến cũng như bảo quản độ an toàn cho các sản phẩm hàng hoá, nhất là đối với các
mặt hàng nông sản. Trong khi đó, các nước phát triển thường xuyên đặt ra các yêu cầu về kĩ
thuật cũng như tiêu chuẩn về hàng hóa đối với các nước đang và kém phát triển và yêu cầu các
nước này phải xuất trình trước các sản phẩm mẫu để họ kiểm tra, thử nghiệm về chất lượng ...
Vệ sinh và kiểm dịch (Sanitary and phytosanitary - SPS): Hiệp định SPS là hiệp định liên quan
tới việc áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch của WTO, dựa trên hiệp định SPS, các quốc
gia thành viên có thể đưa ra các quy tắc về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và sức khỏe động thực
vật ... để bảo vệ sức khỏe con người, động vật hoặc thực vật. Tuy vậy, các tiêu chuẩn này không
được tự ý đặt ra một cách tùy tiện mà phải dựa trên các cơ sở khoa học đã được kiểm chứng và
chúng phải mang tính công bằng đối với tất cả các quốc gia và không bóp méo thương mại.
1.2.2.4. Các biện pháp bảo hộ thương mại tạm thời
Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời là các biện pháp hạn chế nhập khẩu mà các quốc gia
được phép áp dụng trong những trường hợp nhất định, nếu thoả mãn một số điều kiện nhất định.
Nhóm này bao gồm các biện pháp chủ yếu sau:
Chống bán phá giá (Anti - Dumping):
Phá giá là hành động cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế. Theo quy định của
WTO, nước nhập khẩu có quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá thông qua việc áp
thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu từ một nước khác nhằm bảo vệ nền sản xuất nội
địa, khi hội tụ đầy đủ các điều kiện: Hàng hoá đó bán với giá xuất khẩu thấp hơn giá bán thông
thường của chính nó khi bán cho người tiêu dùng tại thị trường của nước xuất khẩu, có sự thiệt
hại về vật chất hoặc đe doạ thiệt hại về vật chất đối với ngành sản xuất tương tự của nước nhập
khẩu, có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu bán phá giá với thiệt hại vật chất của ngành

sản xuất tương tự của nước nhập khẩu.
Trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Subsidy and countervailing measures):
Trợ cấp là một khoản đóng góp về tài chính do chính phủ hoặc một tổ chức nhà nước cung cấp,
hoặc là một khoản hỗ trợ thu nhập hoặc hỗ trợ giá và mang lại lợi ích cho đối tượng nhận trợ cấp.
Theo WTO, trợ cấp được chia ra làm 3 loại: Trợ cấp đèn đỏ - bị cấm hoàn toàn, Trợ cấp đèn
vàng- không bị cấm nhưng có thể là đối tượng của các biện pháp đối kháng, Trợ cấp đèn xanh được phép sử dụng và không phải là đối tượng của các biện pháp đối kháng. WTO cho phép các
nước thành viên duy trì các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại
đến lợi ích của các nước thành viên khác. WTO cũng thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển
Page 11


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Như vậy, bên cạnh những yêu cầu
đòi bỏ trợ cấp thì Tổ chức thương mại thế giới cũng có những ưu đãi đối với những nước đang
phát triển.
Trợ cấp có thể dẫn tới cạnh tranh không công bằng trong thương mại quốc tế, vì vậy theo quy
định của WTO, nước nhập khẩu có quyền áp dụng các biện pháp trừng phạt như đánh thuế chống
trợ cấp khi đủ 3 điều kiện : có chứng cứ khẳng định hàng nhập khẩu được trợ cấp từ phía nước
xuất khẩu, có thiệt hại vật chất hoặc đe doa thiệt hại vật chất đối với ngành sản xuất tương tự của
nước nhập khẩu, có mối quan hệ nhân quả giữa hàng nhập khẩu được trợ cấp với thiệt hại của
ngành sản xuất tương tự của nước nhập khẩu.
Biện pháp tự vệ (Safeguard Measures) là biện pháp tạm thời hạn chế đối với một hoặc một số
loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm
trọng cho ngành trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng
đối với dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Do biện pháp này được sử dụng đối với hành vi thương
mại hoàn toàn bình thường (không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành
mạnh) nên việc áp dụng biện pháp tự vệ trên lý thuyết là đi ngược lại chính sách tự do hoá
thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là biện pháp được hợp pháp hoá trong khuôn khổ WTO đi
kèm với các điều kiện chặt chẽ nhằm tránh lạm dụng. Khi mới bắt đầu tự do hóa thương mại theo
cam kết với WTO thì đây là một biện pháp an toàn mà hầu hết các nước mới tham gia đều mong

muốn, bằng việc sử dụng công cụ này nước nhập khẩu có thể hạn chế được luồng nhập khẩu để
giúp các ngành sản xuất trong nước tranh được phá sản trong một số trường hợp đặc biệt.
1.2.2.5. Các biện pháp liên quan đến doanh nghiệp
Doanh nghiệp thương mại nhà nước, theo WTO, được hiểu là doanh nghiệp được nhà nước dành
cho những độc quyền hay đặc quyền nhất định trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nguyên tắc cơ
bản mà WTO qui định cho nhóm doanh nghiệp này là yêu cầu bắt buộc phải tuân thủ các tiêu chí
của thị trường trong hoạt động mua bán liên quan tới hàng hóa có độc quyền hoặc đặc quyền
xuất nhập khẩu và nhà nước đóng vai trò đảm bảo nguyên tắc này.
Quyền kinh doanh (trading rights) hay còn gọi là quyền thương mại trong lĩnh vực hàng hoá là
quyền dành cho một số công ty nhất định được tiến hành hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu một
loại mặt hàng nhất định nào đó. Các công ty không nhất thiết phải là công ty nhà nước mới được
hưởng quyền kinh doanh. Những nước có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung hoặc những nước
đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường như Việt Nam thường sử dụng quyền kinh doanh
như một công cụ thương mại để hạn chế xuất, nhập khẩu.

1.2.2.6. Các biện pháp khác
Page 12


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Qui tắc xuất xứ bao gồm tất cả các luật, qui định và quyết định hành chính được áp dụng để xác
định nước xuất xứ của hàng hoá mà không được liên quan tới các liên minh thương mại dẫn đến
việc cho hưởng các ưu đãi thuế quan vượt quá đối xử tối huệ quốc (MFN). Ngoài ra, chúng cũng
bao gồm các qui tắc xuất xứ được sử dụng trong mua sắm chính phủ và thống kê thương mại.
Các biện pháp đầu tư liên quan thương mại (các quy định yêu cầu các nhà đầu tư phải sử dụng
nguyên liệu trong nước, quy định tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm hay hạn chế nguồn ngoại tệ dùng để
thanh toán hàng nhập khẩu của công ty...) thường được các nước đang phát triển sử dụng rộng rãi
với mục đích hạn chế nhập khẩu và tăng cường phát triển ngành sản xuất công nghiệp trong
nước. Ðể khắc phục tình trạng này, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIMS đã lên danh mục các biện pháp đầu tư không phù hợp các quy định về tự do hóa thương

mại của WTO và yêu cầu các nước thành viên ngừng duy trì các biện pháp này.
Mua sắm chính phủ ( Goverment Procurement): Để phục vụ hoạt động của bộ máy nhà nước, các
chính phủ phải chi một khoản rất lớn để mua sắm hàng hóa, trang thiết bị cũng như các dịch vụ.
Nhưng việc mua sắm của chính phủ thường không cắn cứ vào các yếu tố thương mại thông
thường.Các chính phủ thường mua hàng hóa và dịch vụ từ các công ty trong nước, do vậy, tạo ra
sự phân biệt đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài. Hiện nay, WTO có Hiệp định Mua sắm
Chính phủ để điều tiết hoạt động này nhưng chỉ dừng ở khuôn khổ của một hiệp định nhiều bên
với sự tham gia hiệp định trên cơ sở tự nguyện.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nếu không được thực thi một cách nghiêm ngặt là một rào cản lớn
đối với thương mại quốc tế vì khả năng tiếp cận của sản phẩm bản quyền còn hạn chế bởi hàng
giả, hàng nhái, hàng vi phạm bản quyền. Vấn đề này vô cùng nghiêm trọng đối với những quốc
gia mà việc bảo hộ bản quyền còn rất lỏng lẻo. Trước vấn đề này, WTO đã có hiệp định về các
vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ đề cập đến các quyền chính như quyền
tác giả, nhãn hiệu hàng hóa, ... Hiệp định này qui định các nước thành viên phải tăng nước công
tác thực thi việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại
Page 13


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
ở Việt Nam
2.1. Lý do cấp thiết của việc sử dụng các biện pháp bảo hộ thương mại ở Việt Nam
Như đã đề cập ở chương trước, áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại mang mục đích bảo hộ
nền sản xuất trong nước, giảm thiểu sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu và thúc đẩy nâng đỡ
các doanh nghiệp trong nước thâm nhập sang thị trường nước ngoài hay tạo cơ hội cho các
ngành công nghiệp non trẻ gia tăng khả năng cạnh tranh tại thị trường trong nước. Chính vì vậy,
khi đề cập đến thực trạng áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại ở Việt Nam thì trước hết làm
rõ được các lý do dẫn tới việc áp dụng chúng. Theo người viết thì tồn tại hai lý do quan trọng
dẫn đến việc Việt Nam phải bảo hộ thương mại: tình hình nhập nhẩu của Việt Nam không ngừng

gia tăng, cũng như tính cạnh tranh của các hàng hóa và ngành sản xuất trong nước.
2.1.1. Tình hình nhập khẩu của Việt Nam không ngừng gia tăng
Bảng 1: Chỉ số giá trị nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2003 đến năm 20112

2

Nguồn Ngân hàng thế giới, countries/VN?
display=graph

Page 14


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu và cán cân thương mại 6 tháng đầu năm từ năm 2005 đến
20133

Từ biểu đồ thống kê về kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2013 và biểu
đồ chỉ số nhập khẩu từ năm 2003 đến năm 2011 với năm 2000 là mốc 100%, ta có thể nhận thấy
rằng, nhập khẩu của Việt Nam luôn có chiều hướng tăng và tăng với tốc độ nhanh chóng so với
mốc là năm 2000. Nhập khẩu trong chỉ 6 tháng đầu năm tăng mạnh từ năm 2005 đến năm 2008
từ chỉ 18,2 tỷ USD lên tới 45,1 tỷ USD, gấp tới gần 2,5 lần. Xu hướng tăng nhập khẩu này chỉ
bắt đầu có xu hướng giảm khi bắt đầu diễn ra khủng hoảng tài chính năm 2008. Cuộc khủng
hoảng kinh tế năm 2008 đã ảnh hưởng tới Việt Nam với bằng chứng là sự sụt giảm trong kim
ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2009. Nhưng những năm sau đó xu hướng tăng nhập khẩu có
xu hướng phục hồi, tới năm 2011 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã vượt năm 2008 là 50,3
tỷ USD và tiếp tục tăng mạnh vào những năm sau đó và đạt mức 62,5 tỷ USD vào 6 tháng đầu
năm nay 2013. Chỉ số nhập khẩu tính từ năm 2000 đến năm 2011 đã tăng gấp hơn 6,5 lần. Trong
khi đó kim ngạch xuất khẩu luôn thấp hơn nhập khẩu, Việt Nam là quốc gia nhập siêu. Điều này
đã khiến không ít người lo ngại về những tác động ngược khi Việt Nam gia nhập WTO. Điều
này chỉ ra rằng khu vực kinh tế trong nước liên quan tới xuất khẩu chưa tận dụng được toàn bộ

các cơ hội khi các nước trong khối WTO cắt giảm thuế suất, trong khi chính phủ lại mất một
khoản thu ngân sách lớn từ hoạt động cắt giảm thuế suất nhập khẩu. Tóm lại, hàng hóa do Việt
Nam sản xuất thắng lợi ít trên thị trường quốc tế nhưng lại thua thiệt nhiều hơn trong thị trường
nội địa.
Trong tình hình nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam có những đặc điểm đáng chú ý như sau:
Thứ nhất là những mặt hàng chủ yếu được nhập khẩu vào Việt Nam có khả năng phải cần đến sự
điều chỉnh của các chính sách bảo hộ của Nhà nước.
3

Hải Quan Việt Nam, =19846&Category=Th
%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20quan

Page 15


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Bảng 3: Trị giá nhập khẩu phân theo cơ cấu ngành hàng của kế hoạch Nhà nước4

Có thể thấy rằng nhóm hàng chủ yếu được Việt Nam nhập khẩu từ năm 2006 cho đến nay là máy
móc, thiết bị, phụ tùng ... Đây là những mặt hàng đóng vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất. Có thể
nói rằng nguyên nhân chính gây ra việc nhập siêu của Việt Nam hiện tại chính là do ngành công
nghiệp phụ trợ còn chưa phát triển, năng lực cạnh tranh còn yếu. Bên cạnh đó thì nguyên vật liệu
cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tính trạng nhập siêu của Việt Nam. Không phải Việt
Nam không thể sản xuất được nguyên liệu sản xuất nhưng do công nghiệp chế biến chưa công
nghệ nên chất lượng cũng như số lượng còn chưa cao.
Ngành công nghiệp phụ trợ đóng vai trò khá quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm, thu hút
lao động dư thừa, tăng sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp chính và giúp đẩy nhanh quá
chính công nghiệp hóa vửa mở rộng và chuyên sâu. Chính vậy mà nhà nước ta nên coi trọng ưu
tiên phát triển ngành công nghiệp hàng đầu này để mang lại bộ mặt mới cho nhành công nghiệp
nước nhà. Tuy vậy ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam từ khi gia nhập WTO vẫn vất vả để

tìm được con đường hòa nhập. Thực tế từ bảng 3 cho thấy, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu rất
nhiều các mặt hàng này, vì giá cả rẻ và ngành công nghiệp trong nước không đáp ứng đủ nhu
cầu. Bên cạnh đó với việc trở thành thành viên WTO, thuế suất cho việc nhập khẩu ngày càng
giảm khiến giá thành càng rẻ hơn. Do đó, các nhà lắp ráp thường nhập linh kiện từ nước ngoài và
góp phần vào việc giết chết các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước với khả năng cạnh tranh
yếu kém. Bài toán cho ngành công nghiệp phụ trợ và toàn bộ ngành công nghiệp nói chung cần
4

Nguồn Bộ Công Thương, />=detail&category_id=9&id=115

Page 16


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
phải thông qua sự giúp đỡ của nhà nước qua các chính sách bảo hộ hợp lý mà vẫn phải tuân thủ
theo các quy định của WTO.
Bên cạnh đó, đáng chú ý nhóm hàng nhập khẩu chính của chúng ta gần đây là xăng dầu, thép và
phân bón, những mặt hàng chủ đạo trong quá trình phát triển đất nước theo hướng công nghiệp
hóa hiện địa hóa cả thành thị lẫn nông thôn. Đối với mặt hàng xăng dầu, kim ngạch Đối với mặt
hàng xăng dầu, từ năm 2006 đến năm 2010 giá trị nhập khẩu sản phẩm xăng dầu chế biến từ dầu
mỏ của Việt Nam tăng mạnh cao nhất là vào năm 2008 với giá trị hơn 11 tỷ USD và luôn đứng
trong tốp đầu mặt hàng nhập khẩu. Mặc dù hiện nay khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đã bước
đầu đi vào chạy thử, tuy nhiên mới chỉ đáp ứng được 33 % nhu cầu xăng dầu trong nước và nhập
khẩu xăng dầu vẫn là một trong những nhu cầu quan trọng nhằm phát triển công nghiệp nước
nhà. Thị trường thép thì gặp nhiều biến động, thép ngoại giá rẻ với chất lượng tốt đang tràn ngập
thị trường Việt Nam và vẫn đang tiếp tục được nhập khẩu từ các nước Châu Á như Trung
Quốc... Điều này đã tác động xấu tới ngành thép Việt Nam vốn còn non trẻ không có khả năng
cạnh tranh với thép ngoại. Các doanh nghiệp thép trong nước kiến nghị chính phủ kịp thời đưa ra
các giải pháp nhằm cứu ngành thép thông qua tăng thuế nhập khẩu các sản phảm thép thành
phẩm và phôi thép. Còn về mặt hàng phân bón, khả năng sản xuất trong nước cũng chỉ đáp ứng

50% nhu cầu thị trường nội địa, phần còn lại phải dựa vào nguồn phân urê nhập khẩu, do đó thị
trường phân bón Việt Nam vẫn chịu nhiều ảnh hưởng bởi nhập khẩu. Để tạo điều kiện phát triển
cho các ngành sản xuất thép và phân bón trong thời gian dài bằng việc cải tiến công nghệ, nâng
cao năng suất và năng lực cạnh tranh thì một trong những biện pháp cần áp dụng là biện pháp
bảo hộ mậu dịch.
Ngoài ra, một đặc điểm cần đáng lưu tâm là nước ta đang nhập siêu từ các khu vực Châu Á,
trong đó có ASEAN, Hàn Quốc và đặc biệt là Trung Quốc. Do vậy dù có xuất siêu các thị trường
Hoa Kỳ, Nhật, EU hay Châu Phi và Châu Úc thì vẫn không thể bù đắp được việc nhập siêu từ
Châu Á. Điều này đã đưa ra một số nghịch lý đối với xuất nhập khẩu Việt Nam, khi xuất siêu thì
lại ở thị trường xa mà nhập siêu thì lại gần, thêm đó, chúng ta xuất siêu ở những khu vực có công
nghệ cao nhưng lại nhập siêu ở những khu vực có công nghệ thấp. Điều này dieẽn giải thấy khả
năng cạnh tranh trong khu vực còn rất yếu và sẽ tạo cơ hội cho nước láng giềng thâm nhập thị
thường hơn là chúng ta thâm nhập thị trường họ.
Trước tình hình trên, nhà nước cần phải áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch hợp lý để bảo hộ
ngành sản xuất trong nước như ngành công nghiệp phụ trợ. Đặc biệt với việc gia nhập WTO,
Việt Nam phải cam kết tuân thủ các qui tắc bình đẳng không phân biệt đối xử thì chính sách bảo
hộ mậu dịch phù hợp với WTO vẫn là rất cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế.

2.1.2. Tổng quan về khả năng cạnh tranh của Việt Nam
2.1.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam
Page 17


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Năng lực cạnh tranh quốc gia được chấm điểm theo 3 tiêu chí chính theo diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF): bộ chỉ tiêu thúc đẩy hiệu suất nền kinh tế, bộ chỉ tiêu các yếu tố cơ bản (bao gồm
các yếu tố về thể chế/tổ chức, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế vĩ mô, và y tế và giáo dục cơ
bản), bộ yếu tố đổi mới sáng tạo và độ tinh sảo kinh doanh. Cho đến nay, khả năng cạnh tranh
của Việt Nam bị đánh giá là còn khá thấp. Theo diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về năng lực
cạnh tranh quốc gia: giai đoạn 2012-2013 trong báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI), Việt

Nam đã tụt 10 bậc so với giai đoạn trước từ vị trí thứ 65 xuống vị trí 75. Trong báo cáo chi tiết
về Việt Nam, tất cả hạng mục trụ cột của Việt Nam phần lớn nằm dưới hạng 50 và một số còn
sát với vị trí thứ 100. Tuy vây, Việt Nam vẫn được đánh giá tốt trong một số mục: thị trường lao
động khá hiệu quả (xếp hạng 51), quy mô thị trường lớn (hạng 32) và hoạt động chăm sóc sức
khỏe cũng như giáo dục cơ bản được đánh giá ở mức thỏa đáng (hạng 64).
Khả năng cạnh tranh quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
và ngành, đến thu hút đầu tư nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt.
2.1.2.2. Khả năng cạnh tranh doanh nghiệp và ngành của Việt Nam
Khả năng cạnh tranh doanh nghiệp và ngành của Việt Nam được thể hiện bằng khả năng bù đắp
chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần sản phẩm và dich vụ của doanh nghiệp trên
thị trường.
Theo đánh giá một cách tổng quát, các doanh nghiệp và ngành của Việt Nam có khả năng cạnh
tranh thấp ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong
nước có khả năng cạnh tranh kém hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
doanh nghiệp có vốn tư nhân. Điều này luôn được thể hiện ở hiệu quả hoạt động kinh doanh
thấp, công nghệ lạc hậu, phản ứng chậm đối với sự biến đổi của thị trường, chậm đổi mới
phương thức quản lý và kinh doanh, thiếu chiến lược và quy hoạch tổng thể cho sự phát triển
hoặc tính khả thi không cao, nhiều doanh nghiệp và ngành chỉ chú trọng đến mục tiêu ngắn hạn,
hạn chế đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tiếp thị và đào tạo huấn luyện … kèm theo đó chưa
xây dựng được hệ thống mạng lưới bạn hàng và khả năng tiêu thụ, kém năng động. Nguyên nhân
chính cho sự cạnh tranh yếu kém này là luôn ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước. Doanh nghiệp
Nhà nước đáng nhẽ có được khả năng đầu tư và cạnh tranh hơn ở một số mặt hàng, ngành hàng
thiết yếu như xăng dầu, phân bón, thép, xi măng… nhưng thực tế thì hiệu quả kinh doanh chưa
cao với nguyên nhân: bộ máy nhà nước cồng kềnh, cơ chế quản lý tài chính và kinh doanh chưa
tạo ra động lực để thu hút được nhân tài và thúc đẩy năng suất lao động.

2.1.2.3. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam:

Page 18



Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Dựa vào các tiêu chí : Lợi thế sẵn có của đất nước; Năng suất lao động, năng suất cây trồng, vật
nuôi; Chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế; Tính độc đáo, quý hoặc hiếm; Thị trường
tiêu thụ và khả năng mở rộng thị trường; Suất đầu tư thấp; Tạo ra giá trị gia tăng cao… hàng hóa
Việt Nam được chia làm 3 nhóm:
-Nhóm có khả năng cạnh tranh: cà phê, gạo, tiêu, một số trái cây đặc sản (soài, dứa, bưởi…) thuỷ
hải sản, hàng dệt may, giày dép …
-Nhóm có khả năng cạnh tranh trong tương lai: sản phẩm sợi và dệt, xe máy ...
-Nhóm không có khả năng cạnh tranh: da thuộc, ô tô, máy móc thiết bị y tế ...
Ở thị trường trong nước, nhóm hàng hoá có khả năng cạnh tranh, hầu hết các tiêu chí về giá, chất
lương ... đều được đánh giá ngang bằng hoặc nhỉnh hơn hàng nhập ngoại, duy nhất về mặt đóng
gói, bao bì sản phẩm thì không hấp dẫn bằng hàng ngoại nhập. Đối với các mặt hàng có khả năng
cạnh tranh trong tương lai về chất lượng, mẫu mã ... đã được đảm bảo nhưng giá thành thường
cao hơn các nước trong khu vực và thế giới. Đối với nhóm hàng không có khả năng cạnh tranh
thì về phần lớn khía cạnh thì đều chưa cạnh tranh được với hàng ngoại nhập hoặc chưa có đầy đủ
điều kiện để sản xuất.
Ở thị trường nước ngoài, Việt Nam chủ yếu chỉ xuất khẩu những mặt hàng thuộc nhóm có khả
năng cạnh tranh. Nhóm này có khả năng cạnh tranh về giá, chất lượng và được xuất sang các
nước phát triển tuy nhiên thường gặp trở ngại về bao bì và dịch vụ vận chuyển. Các sản phẩm
thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh trong tương lai được xuất khẩu rất ít và phần lớn cho các
nước đang phát triển và các nước láng giềng có nền kinh tế kém phát triển hơn . Đối với nhóm
hàng không có khả năng cạnh tranh hầu như chưa được xuất khẩu vì thực tế thì những nhóm này
còn thua kém hàng hoá các nước về nhiều mặt. Tóm lại, khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất
khẩu Việt Nam nay dù đã được cải thiện so với trước nhưng vẫn còn thấp, trong khi, cạnh tranh
trên thị trường thế giới ngày càng gay gắt, các đối thủ lớn mạnh không ngừng.
Dù đã có nhiều nỗ lực nhưng khả năng cạnh tranh thấp kém của Viêt Nam ở cả cấp độ quốc gia,
doanh nghiệp và ngành là thách thức lớn nhất và trực tiếp nhất trong hội nhập kinh tế quốc tế khi
tham gia vào WTO.
2.2. Thực tế áp dụng các biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam

2.2.1. Thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam trong những năm gần đây
và đánh giá
Chặng đường hội nhập kinh tế dù mới chỉ hơn 6 năm nhưng đã đem đến cho Việt Nam những tác
động không hề nhỏ. Hội nhập kinh tế quốc tế như một con dao hai lưỡi, không chỉ ban tặng cho
những cơ hội phát triển mà đồng thời còn mang lại những thách thức vô cùng cam go cho mảnh
đất hình chữ S này. nguồn FDI phong phú hơi, môi trường đầu tư, thủ tục hành chính thông
thoáng hơn, hàng rào thuế quan giảm bớt, hàng hóa phong phú với nhiều mẫu mã cho sự lựa
Page 19


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
chọn của người tiêu dùng, xuất khẩu tăng, cơ hội làm việc với mức lương cao hơn ... nhưng Việt
Nam cũng phải đối mặt với nhiều vấn để bất lợi như: cạnh tranh mạnh mẽ của hàng hóa nhập
khẩu với chất lượng cao hơn mà giá cả phải chăng, phải thực hiện nhiều cải cách về mặt pháp
luật, các doanh nghiệp mất đi sự trợ cấp, ưu đãi của chính phủ ... Để bảo vệ được quyền lợi quốc
gia khi hội nhập với thế giới, Việt Nam cần phải thực hiện những chính sách bảo hộ phù hợp
nhưng vẫn phải tuân thủ các cam kết với WTO. Vậy Việt Nam đã và đang áp dụng các chính
sách bảo hộ thương mại trong những năm qua ra sao?
Những điểm chính trong quá trình áp dụng biện pháp bảo hộ ở Việt Nam như sau:
Một là, Việt Nam áp dụng chủ yếu là các biện pháp thuế quan trong chính sách bảo hộ sản xuất
nội địa. Đây là công cụ bảo hộ thích hợp được WTO cho phép áp dụng kèm theo việc thực hiện
cắt giảm thuế quan theo lộ trình đã cam kết và phải tuân thủ theo các ràng buộc thuế quan mà
WTO đề ra. Trong thời gian gần đây, chính phủ đã thông qua nhiều chính sách thuế theo đúng lộ
trình đã cam kết đối với các mặt hàng nhập khẩu quan trọng như ôtô, linh kiện, phụ kiện, thép ...
hay các sản phẩm công nghệ.
Đối với từng loại mặt hàng nhập khẩu nhất định, thuế suất nhập khẩu biến động theo từng giai
đoạn phù hợp với chính sách của nhà nước. Đối với mặt hàng ôtô mới chưa qua sử dụng, trong
suốt hai năm 2007 và 2008 thuế suất nhập khẩu liên tục thay đổi. Trong năm 2007 ngay sau khi
Việt Nam gia nhập WTO, thuế suất đối với mặt hàng ôtô mới nguyên chiếc cắt giảm từ 90%
xuống 80%, và tiếp tục giảm xuống lần lượt cho đến cuối năm 2007 là 70% và 60%(11/2007).

Nhưng đến đầu năm 2008, các nhà nhập khẩu ôtô lại tiếp tục chứng kiến sự tăng thuế suất lên
70%. Và Mức thuế suất ôtô tăng lên 83% được niêm yết trong Thông tư số 216/2009/TT-BTC
ngày 12/11/2009 của Bộ Tài chính, một mặt nhằm hạn chế việc nhập khẩu ôtô ồ ạt gây ra tình
trạng ách tắc giao thông tại các thành phố lớn, mặt khác bảo hộ cho nền công nghiệp sản xuất ôtô
chưa phát triển tại Việt Nam.
Trong những năm qua mặt hàng biến động nhiều nhất có lẽ là thép. Sản xuất thép trong nước gặp
nhiều khó khăn đòi hỏi sự can thiệp hỗ trợ từ phía nhà nước, điều này dẫn đến việc các chính
sách thuế đánh với mặt hàng này biến động theo. Nhưng việc điều chỉnh thuế lại kém nhạy bén
và không kịp thời đã gây nên nhiều vấn đề. Trong giai đoạn thép trên thị trường thế giới đang
tăng giá, các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu nhiều phôi thép làm đầu vào sản xuất để xuất
khẩu. Tuy nhiên, khi giá phôi thép tăng, khiến các doanh nghiệp lại phải xuất khẩu ngược trở lại.
Nhưng trong tình cảnh này, nhà nước lại đưa ra chính sách tăng thuế xuất khẩu phôi thép khiến
các doanh nghiệp thép vô cùng khó khăn. Sản lượng thép trong nước không ngừng sụt giảm
trong những tháng cuối năm 2008 không đáp ứng được nhu cầu trong nước. Điều này dẫn đến
việc xuất hiện nhiều công ty xuất nhập khẩu thép từ thị trường Trung Quốc, ASEAN.Theo ước
tính của hiệp hội thép Việt Nam, sản lượng thép năm 2009 của hiệp hội đạt 4 triệu tấn trong khi
lượng nhập khẩu lên đến 6,5 triệu tấn, nguyên nhân chính của sự nhập khẩu ồ ạt này là do thuế
suất năm 2009 cam kết với WTO là 17% nhưng chính phủ chỉ áp dụng 15%, đặc biệt đối với các
nước ASEAN, thuế suất là 0% theo cam kết AFTA. Và trong những năm tiếp theo, thuế suất tiếp
Page 20


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
tục giảm 1% đến 2% tùy theo từng loại thép. Điều này nếu kéo dài sẽ giết chết nền công nghiệp
thép Việt Nam bởi công nghệ còn chưa được bắt kịp với thế giới, cần thêm thời gian bảo hộ để
cải tạo và đầu tư công nghệ mới. Vấn đề này cần được nhà nước và doanh nghiệp đồng lòng thực
hiện để bảo vệ quyền lợi và công ăn việc làm cho hàng vạn công nhân thép Việt Nam.
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế, để hướng người tiêu dùng sử dụng các hàng hóa được sản
xuất trong nước, chính phủ việt nam đã nâng mức thuế nhập khẩu nhằm giảm giá tương đối mặt
hàng nội địa so với mặt hàng ngoại nhập. Tuy việc tăng thuế quan này đi ngược lại cam kết về tự

do thương mại hóa và cắt giảm bảo hộ nhưng trong thời điểm hiện tại, chính sách này được chấp
nhận bởi đây là tình trạng chung trên toàn thế giới.
Nhận thức được những hậu quả của bảo hộ, chính phủ Việt Nam thực sự e dè trong việc áp dụng
các chính sách này. Từ khi vấn đề kích cầu tiêu dùng nội địa được đưa ra từ năm 2009, Bộ tài
chính chỉ mới điều chỉnh tăng đối mặt hàng sữa và giầy theo các văn bản 28/2009/QĐ-BTC và
số 39/2009/TT-BTC. Điều này phần nào cho thấy Việt Nam rất thận trọng trên cơ sở tôn trọng
các cam kết quốc tế và phù hợp với động thái của các nền kinh tế lớn.
Bên cạnh đó, Việt Nam trước kết quả tăng trưởng mạnh mẽ đã cắt giảm thuế trước lộ trình so với
cam kết. Do vậy trong thời điểm hiện nay việc nâng thuế nhập khẩu sẽ không bị phản đối mạnh
mẽ và coi như là biện pháp chống suy giảm kinh tế dù phạm vi áp dụng không lớn.
Hai là, Các biện pháp thuế quan được sử dụng một cách hạn chế với nhiều lý do cả về khách
quan lẫn chủ quan. Đầu tiên, các biện pháp thuế quan mang tính chất thiếu minh bạch và khó dự
đoán nên WTO không khuyến khích sử dụng và Việt Nam là thành viên WTO nên cam kết thực
hiện theo đúng quy định. Thứ hai, trong việc ban hành các văn bản pháp luật về các biện pháp
phi thuế quan cũng như áp dụng các biện pháp này, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế
bởi nguồn nhân lực còn chưa nhận thức rõ về các biện pháp phi thuế quan cũng như bộ máy thủ
tục hành chính còn cồng kềnh, rườm rà, cản trở quá trình áp dụng ...
Khi tham gia WTO, Việt Nam đã cam kết không áp dụng các biện pháp hạn chế định lượng cũng
như hạn ngạch và minh chứng cho cam kết này, Việt Nam đã bãi bỏ hoàn toàn việc cấm nhập
khẩu thước lá điếu, xì gà, ô tô cũ vào thị trường nội địa.
Đối với việc áp dụng giấy phép nhập khẩu, ngày 2/3/2005 thủ tướng chính phủ đã ban hành
quyết định 41/2005/QĐ-TTg về quy chế cấp phép nhập khẩu hàng hóa và 23/1/2006, Chính phủ
ban hành nghị định 12/2006/NĐ-CP trong đó có rất nhiều mặt hàng thuộc diện phải cấp phép
nhập khẩu, và những năm sau được tiếp tục duy trì hoặc điều chỉnh bởi Bộ công thương bằng
một số thông tư như thông tư 24/2010/TT-BCT. Một thực tế đáng lo ngại là trong thời gian qua,
việc quản lý bằng giấy phép nhập khẩu tự động tỏ ra kém hiệu quả và dễ dẫn đến tiêu cực vì sự
không minh bạch trong vấn đề cấp phép. Một số mặt hàng thuộc diện kiểm soát của quyết định là
mặt hàng rau quả, thực phẩm ... là hàng tươi sống, chóng hỏng nhưng lại không sớm cấp phép,
gây tồn kho dẫn đến thiệt hại và khó khăn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, bộ công thương cũng đã
phải ban hành thêm rất nhiều văn bản bổ sung như văn bản số 8237/BCT-XNK để quy định để

Page 21


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
giảm bớt một số mặt hàng phải kiểm soát nhưng lại kéo theo nhiều mặt hàng lẽ ra không nên
nằm trong diện kiểm soát chặt chẽ như các thiết bị điện sử dụng năng lượng mặt trời,thiết bị làm
sạch... Nhiều thủ tục phát sinh không cần thiết như bản sao giấy phép kinh doanh... Có thể thấy
việc áp dụng giấy phép nhập khẩu tự động còn khá nhiều bất cập, có lẽ do vậy bộ công thương
đã ban hành thông tư 27/2012/TT-BCT để tạm ngừng cấp phép nhập khẩu tự động đối với các
mặt hàng quy định trong thông tư 24/2010/TT-BCT.
Việt Nam đã cố gắng thực hiện đúng theo cam kết với WTO Về thực hiện Hiệp định xác định trị
giá tính hải quan như việc áp dụng các phương pháp tính thuế và đơn giản hoá thủ tục hải quan
bằng áp dụng hải quan điện tử. Tuy nhiên, theo thống kê năm 2006-2008 mới chỉ có 537 doanh
nghiệp tham gia, phần mềm ứng dụng điện tử hải quan thì chưa đạt được tiến độ, vẫn còn phải
điều chỉnh nhiều. Quá trình mới chỉ triển khai thí điểm ở một số địa bàn nhất định, quy mô thông
quan chỉ giới hạn ở 3 loại hình hàng hoá xuất nhập khẩu (xuất nhập khẩu kinh doanh, hàng
nguyên liệu sản xuất, xuất nhập khẩu gia công), đồng thời chưa đồng bộ giữa quy trình thủ tục
hải quan và quy trình thủ tục hải quan điện tử....
Các biện pháp tự vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của doanh nghiệp
Việt Nam thì còn khá mới mẻ mà đây được coi là những công cụ bảo vệ hiệu quả phù hợp với
luật chơi thương mại quốc tế. Theo cục quản lý cạnh tranh thì Việt Nam đã hứng chịu ít nhất 67
vụ kiện chống phá giá trên nhiều thị trường thế giới nổi tiếng là vụ kiện bán phá giá của Hoa Kỳ
đối với Việt Nam về mặt hàng cá tra, cá basa và tôm, gần đây các vụ kiện ngày càng tăng, nhưng
lại ít sử dụng các biện pháp này để bảo vệ hàng hóa của mình. Mặc dù, hiện nay các văn bản
pháp lý của Việt Nam về chống bán phá giá, chống trợ cấp, và tự vệ thương mại đã khá hoàn
thiện, nhưng thực tế là doanh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng được nhiều lợi thế của các biện
pháp này. Gần đây các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ thực hiện 3 vụ khởi kiện, 2 vụ tự vệ
thương mại và 1 vụ chống bán phá giá. Đặc biệt là vụ công ty Posco VST và CTCP Inox Hòa
Bình nộp đơn lên Cục Quản lý cạnh tranh, khởi kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm thép
không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam từ Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Indonesia.

Thừa nhận chưa sử dụng hữu hiệu công cụ phòng vệ thương mại tại thị trường nội địa, mà pháp
luật đã cho phép, nhưng các DN không giấu được bức xúc khi cho rằng, một phần nguyên nhân
của tình trạng này là lỗi của cơ quan quản lý, ví dụ khi các doanh nghiệp Việt Nam nghi ngờ một
mặt hàng bán phá giá cần phải lấy số liệu từ cơ quan Hải quan, trong khi việc tiếp cận với nguồn
dữ liệu là không thể, trong khi các nguồn khác thì khó tiếp cận và thiếu tính chích xác. Đây là
nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp chưa dám sử dụng công cụ khởi kiện DN nước ngoài
bán phá giá tại thị trường Việt Nam. Như vậy, để có thể khởi kiện không chỉ cần sự chủ động
của doanh nghiệp mà các cơ quan chức năng cũng phải tạo điều kiện phối hợp với doanh nghiệp,
đặc biệt trong cung cấp số liệu chính thức và tư vấn pháp lý ...
Sự kiện đáng chú ý vào năm 2009 là tình hình tồn kho của các doanh nghiệp sản xuất giấy vào
ngày 25/2 bởi tình trạnh suy thoái kinh tế toàn cầu, khiến bộ Công thương có văn bản áp dụng
biện pháp bảo vệ khẩn cấp đối với mặt hàng giấy.
Page 22


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Các biện pháp về rào cản kỹ thuật bước đầu đã được áp dụng tuy còn nhiều hạn chế bởi khả năng
cạnh tranh của Việt Nam đối với sản phẩm nhập khẩu còn yếu. Do vậy, nếu để các biện pháp này
hiệu quả hơn, nhà nước cần kết hợp các biện pháp bảo hộ khác để nâng cao khả năng cạnh tranh
của hàng hóa nội địa. Đặc biệt là hàng hóa nhập lậu từ thị trường Trung Quốc không đảm bảo
được chất lượng. Việc kiểm soát an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như kiểm dịch động
thực vật ở Việt Nam cũng còn khá yếu. Sáng 23-7, tại buổi làm việc với đoàn công tác phòng
công tác thanh tra Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm TP.
HCM cho biết vừa phát hiện thêm hàng loạt thực phẩm trên địa bàn không đảm bảo an toàn, đe
dọa đến sức khỏe người tiêu dùng, nguyên nhân chính là các sản phẩm này được nhập khẩu từ
nhiều nơi, rất khó xác định nguồn gốc xuất xứ. Có thể thấy công tác quản lý chất lượng an toàn
vệ sinh thực phẩm ở Việt Nam còn rất yếu.
Đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền, tình trạnh vi phạm bản quyền tại Việt
Nam còn rất nghiêm trọng dù đã được cải thiện khá nhiều từ khi gia nhập WTO. Tình trạng đĩa
lậu, ăn cắp bản quyền, sử dụng hình ảnh chưa có sự cho phép về bản quyền vẫn chưa được quản

lý chặt chẽ bởi bộ ngành quản lý. Tuy đã kí kết hiệp định TRIPS, Việt Nam vẫn cần thời gian để
giải quyết vấn nạn này.
Tuy đã có nhiều cải thiện sau 6 năm tham gia WTO nhưng các biện pháp bảo hộ mậu dịch ở Việt
Nam vẫn còn tồn tại nhiều mặt khó khăn. Sau đây, người viết xin được lý giải một số những
nguyên nhân dẫn đến những tình trạng trên đây ở Việt Nam.
2.2.2 Nguyên nhân của thực trạng áp dụng biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam trong
những năm gần đây
2.2.2.1. Khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế năm 2008 không chỉ ảnh hưởng tới tài chính thế giới mà còn lan rộng sang
cả lĩnh vực sản xuất, các quốc gia trên toàn thế giới phải đối mặt với vấn đề có nên tái lập lại các
hàng rào bảo hộ mậu dịch mà trước đây cả thế giới phải đấu tranh để gỡ bỏ cho một thị trường tự
do. Bởi khủng hoảng mang tính toàn cầu nên Việt Nam cũng không thể thoát khỏi ảnh hưởng
lớn, bởi vậy việc nâng thuế suất nhập khẩu là chiến lược đúng đắn để bảo vệ nền sản xuất nội
địa, cũng như bảo vệ công ăn việc làm cho lực lượng lao động trong nước trước nguy cơ thất
nghiệp tràn lan. Chính tình xu thế khủng hoảng kinh tế hiện nay đã buộc Việt Nam sử dụng
hàng rào bảo hộ mà trước hết là vào các mặt hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, chính phủ cũng cần
tiến hành các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu sản phẩm trong nước với hi vọng vực dậy các doanh
nghiệp trong nước và tăng khả năng cạnh tranh để có thể đứng vững hoặc thoát khỏi khó khăn
hiện nay. Nói là vây nhưng tác động của khủng hoảng kinh tế rất lớn, nên đòi hỏi Việt Nam cần
có những chính sách thuế phù hợp một mặt đảm bảo hộ trợ các doanh nghiệp trong nước mặt
khác tránh vi phạm cam kết quốc tế và các biện pháp trả đũa từ các quốc gia khác.
2.2.2.2. Khung pháp lý thiếu hoàn thiện, nhiều bất cập trong quá trình thực thi các chính sách còn
tồn tại
Page 23


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
Đầu tiên, ban hành các chính sách thuế nâng thuế nhập khẩu còn chưa phù hợp không đúng thời
điểm. Như ví dụ đã dưdợc nêu ở trên về ngành sản xuất thép, Nhà nước áp dụng những chính
sách thuế không đúng thời điểm: Khi giá phôi thép trên thị trường thế giới tăng nhanh, Bộ tài

chính lại thuế suất xuất khẩu với mặt hàng phôi thép khiến cho các doanh nghiệp trong nước sở
hữu phôi thép nhằm tài xuất khẩu rơi vào tình trạng mua vào cũng không được mà bán ra cũng
không xong. Trong khi đó thì hiện tại giá thép từ thị trường Trung Quốc, ASEAN ... tràn lan thị
trường Việt Nam với giá rẻ, nhưng các cơ quan quản lý vẫn đang trong thời gian xem xét kiến
nghị hỗ trợ của doanh nghiệp ngành thép.
Thêm nữa, chính sách hỗ trợ lãi suất 4% của ngân hàng nhà nước trong quyết định 443/QĐ-TTg
và thông tư 05/2009/TT-NHNN và kéo dài tiếp trong năm 2011 dường như tỏ ra không mấy hiệu
quả với nhiều lý do. Thứ nhất, phần lớn doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu lại nhập khẩu
yếu tố đầu vào là máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu mà đầu ra của hàng hóa các doanh nghiệp
này nằm ở nước ngoài chứ không phải trong nước. Vì vậy, phạm vi ảnh hưởng của chính sách
này đối với bảo hộ thương mại là không đáng kể. Thứ hai, các mặt hàng nhập khẩu thuộc diện
giảm thuế chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ và điều này có thể dẫn đến việc trả đũa bằng thuế đối với hàng
Việt Nam xuất khẩu. Thứ ba, khủng hoảng kinh tế ảnh hướng tới toàn bộ thế giới buộc các hãng
trên toàn thế giới giảm giá bản hàng hóa, đặc biệt là các hãng của Trung Quốc. Điều này có thể
triệt tiêu những nỗ lực hỗ trợ của chính phủ Việt Nam. Thứ tư, Buôn lậu là một vấn nạn quốc gia
mà việc kiểm soát còn vô cùng yếu kéo. Khi tăng cường bảo hộ bằng thuế dẫn đến càng kích
thích nguồn hàng nhập lậu chảy vào Việt Nam đặc biệt là từ Trung Quốc. Để chính sách có hiệu
quả, nhà nước cần kết hợp cả việc đẩy lùi buôn lậu.
2.2.2.3. Hiệu quả quản lý của Nhà nước, các bộ ngành còn chưa cao
Nguyên nhân không nhỏ không nhỏ dẫn đến giảm tính hiệu quả của các chính sách bảo hộ là
hoạt động của các ban ngành còn kém hiệu quả. Hải quan điện tử trong việc xác định giá trị hải
quan thì còn nhiều khiếm khuyết trong phần mềm, quy mô triển khai mới chỉ trong một số địa
bàn, phạm vi triển khai nhỏ trên 3 loại mặt hàng hóa. Cục quản lý thị trường cũng như hải quan
chưa giải quyết được bài toán hạn chế buôn lậu với nhiều thủ đoạn tinh vi và giả mạo cả giấy
phép nhập khẩu. Điều này cho thấy lợi ích từ chính sách này chưa được tối đa hóa mà bất cấp
còn rất nhiều. Những quy định về cấp phép nhập khẩu của bộ công thương cũng tỏ ra không hiệu
quả, kèm với quy trình cấp phép còn lằng nhằng rườm ra và thiếu tính minh bạch.

2.2.2.4. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trong nước còn kém
Với phân tích ở phần khả năng cạnh tranh của Việt Nam, ta có thể thấy rõ khả năng cạnh tranh

của doanh nghiệp, hàng hóa Viêt Nam còn rất kém, do vậy chính chúng ta đã thua trên chính sân
chơi của mình. Hàng hóa nhập khẩu thì phong phú về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng ổn định,
Page 24


Công cụ bảo hộ thương mại tại Việt Nam và ý nghĩa
giá cả phải chăng đã chinh phục người tiêu dùng trong nước khiến vị trí của hàng nội ngày càng
lu mờ. Điều này đã làm chính phủ e ngại trong việc ban hành các biện pháp bảo hộ phi thuế quan
về tiêu chuẩn kỹ thuật ... bởi không những không đáp ứng được nhu cầu trong nước, người tiêu
dùng sẽ phải mua với giá cao và có thể nhận các chính sách trả đũa từ các quốc gia xuất khẩu vào
Việt Nam mà chịu tác động của chính sách.
2.2.2.5. Nhận thức của doanh nghiệp về các biện pháp bảo hộ thương mại tạm thời còn kém
Các biện pháp tự vệ thương mại như chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đã được sử dụng
nhiều trên thế giới và mang lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ hàng hóa nội địa bị hàng ngoại
nhập cạnh tranh thì các doanh nghiệp Việt Nam còn rất lúng túng và luôn phải chấp nhận bị
khơir kiện trong khi các trường hợp khởi kiện thì rất ít. Nguyên nhân chính llà do các doanh
nghiệp Việt Nam còn chưa tích cực tìm hiểu kiến thức liên quan tới các chính sách này cũng như
các vụ kiện từng xảy ra trên thế giới và khu vực, qua đó thu thập kinh nghiệm để đối phó với các
doanh nghiệp nước ngoài đang và có ý định thâm nhập thị trường trong nước với mặt hàng bán
phá giá. Việc nang cap nhận thức của doanh nghiệp đối với vấn đề áp dụng biện pháp bảo hộ
thương mại hiện giờ là vô cùng cấn thiết, khi tính cạnh tranh trên trường quốc tế lẫn trong nội địa
ngày càng gay gắt.

Chương 3: Một số đề xuất để sử dụng hiệu quả các biện pháp bảo hộ thương mại tại Việt Nam
Chương trước chúng ta đã biết các nguyên nhân dẫn đến các chính sách bảo hộ thương mại của
nước ta chưa đạt được những hiệu quả cao. Vì vậy người viết trong chương này sẽ kiến nghị một

Page 25



×