Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Khu vực mậu dịch tự do asean

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (691.36 KB, 37 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
===============

TIỂU LUẬN

KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN

Bộ Môn :
Giảng viên :
Nhóm thực hiện:

Đầu Tư Quốc Tế
Trần Thanh Phương
Pháp 2 – Khối 2 Kinh tế - K50

Hà Nội – Tháng 10/2012


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, trên thế giới đã xuất hiện nhiều tổ chức hợp tác trên
nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,… trong đó phải kể đến các tổ chức lớn như tổ
chức thương mại thế giới GATT (tiền thân của WTO), liên minh châu Âu EU hay diễn đàn hợp
tác Châu Á Thái Bình Dương APEC. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay đang diễn ra hết sức
mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, các tổ chức quốc tế càng ngày càng giữ vai trò quan trọng trong
việc ổn định nền kinh tế quốc tế cũng như duy trì hòa bình thế giới. Không nằm ngoài xu thế
đó, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ra đời với mục đích tăng cường hợp tác trên


nhiều lĩnh vực giữa các nước thành viên nói riêng và tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn đối
với các đối tác quốc tế nói chung. Riêng đối với Việt Nam, việc gia nhập tổ chức này đă tạo điều
kiện cho đất nước phát huy thế mạnh của mình, dần dần chuyển tứ nền kinh tế tập trung bao
cấp sang nền kinh tế thị trường năng động tạo đọng lực cho sự phát triển của đất nước. Tuy
vậy, việc mở cửa thị trường đối với các thành viên ASEAN cũng tạo ra nhiều khó khăn đối với
Việt Nam chẳng hạn như nguy cơ bị phụ thuộc quá nhiều về kinh tế dẫn tới sự bất ổn định về
chính trị.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu về lịch sử cũng như hoạt động của ASEAN nói chung và
của các nước thành viên nói riêng là hết sức cần thiết nhằm giúp cho Việt Nam có thể tận
dụng hết được lợi ich khi tham gia vào tổ chức này đồng thời hạn chế tối đa các tác động tiêu
cực của việc mở cửa nền kinh tế. Có như vậy, Việt Nam mới có thể phát huy được hết các thế
mạnh của mình và đạt được những bước phát triển như mong đợi. Vì nhứng lí do trên, các tác
giả đã chọn đề tài “Khu vực tự do ASEAN” cho bài tiểu luận của mình. Bài tiểu luận gồm 4
phần. Trong phần 1, tác giả sẽ đưa ra một cái nhìn tổng quan về lịch sử hình thành cũng như
các nguyên tắc hoạt động của tố chức. Phần 2 sẽ tập trung nghiên cứu các hoạt động của
ASEAN mà cụ thể là hoạt động đối nội và đối ngoại. Tiếp đó, tác giả sẽ ngiên cứu khu vực tự do
mậu dịch ASEAN (AFTA). Ở phần cuối bài tiểu luận, tác giả đưa ra thêm một số thông tin về
quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN.
Dù đã rất cố gắng nhưng bài tiểu luận này không thể tránh được những thiếu sót, các
tác giả rất mong nhận được sự góp ý từ giảng viên và các bạn sinh viên.

3


Xin chân thành cảm ơn!

4


NỘI DUNG


1. Kiến thức chung về sự hình thành và phát triển của ASEAN
1.1. Lịch sử và các nước thành viên
ASEAN có tiền thân là là Hiệp hội Đông Nam Á (ASA), một liên minh gồm Philippines,
Malaysia và Thái Lan được thành lập năm 1961 nhưng chỉ duy trì hoạt động được tới năm
1966. ASEAN chính thức được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các bộ trưởng ngoại
giao của 5 quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan – gặp gỡ tại toà
nhà Bộ ngoại giao Thái Lan ở Bangkok và ký Tuyên bố ASEAN (Tuyên bố Bangkok).
Trước bối cảnh tình hình chiến tranh căng thẳng trên thế giới, một trong những động cơ
cho sự ra đời của ASEAN là để các thành viên giới cầm quyền có thể tập trung cho việc xây
dựng và củng cố sức mạnh quốc gia. Không giống như Liên minh châu Âu, ASEAN được thiết
kế để phục vụ chủ nghĩa quốc gia.
Ngày nay, ASEAN cũng đã thiết lập được quan hệ hợp tác nhiều mặt với các Đối tác trong
và ngoài khu vực thông qua các tiến trình như ASEAN+1 (hợp tác ASEAN với từng Đối tác);
ASEAN+3 (với 3 nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc); Cấp cao Đông Á (với 3 nước
Đông Bắc Á và Ấn Độ, Ôx-trây-lia, Niu Di-lân); Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)…
Hiện nay, tổ chức này gồm 10 quốc gia thành viên được liệt kê theo ngày gia nhập:

Quốc gia

Ngày gia nhập ASEAN

Thủ đô

Diện tích (km2)

Indonesia

08/08/1967


Jakarta

1.890.754

Malaysia

08/08/1967

Kuala Lumpur

330.257

Philippines

08/08/1967

Manila

300.000

5


Singapore

08/08/1967

Singapore

697


Thái Lan

08/08/1967

Bankok

513.254

Brunei Darussalam

08/01/1984

Bandar Seri Begawan

5765

Việt Nam

07/1995

Hà Nội

330.363

Lào

07/1997

Viên Chăn


236.800

Myanma

07/1997

Nay Pyi Taw

676.577

Campuchia

10/04/1999

Phnom Penh

181.035

Ngoài ra, ASEAN hiện có hai quan sát viên và ứng cử viên là Papua New Guinea (quan sát
viên của ASEAN) và Đông Timo (ứng cử viên của ASEAN)

1.2. Mục tiêu hoạt động của ASEAN
− Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực trên tinh
thần bình đẳng hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á
hoà bình và thịnh vượng.
− Thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyện tắc luật pháp
của các nước trong vùng và hiến chương Liên Hiệp Quốc.

6



− Thúc đẩy việc giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trên các lĩnh vực văn hoá,
xã hội, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hành chính.
− Giúp đỡ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu
trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính.
− Cộng tác có hiệu quả hơn, để sử dụng tốt hơn nền nồn nghiệp và các ngành công nghiệp
của nhau, mở rộng mậu dịch.
− Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á.
− Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực.

1.3. Bộ máy tổ chức của ASEAN
Hiến chương ASEAN quy định bộ máy tổ chức của ASEAN gồm các cơ quan:
− Cấp cao ASEAN : Cơ quan hoạch định chính sách tối cao của ASEAN, bao gồm những
người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các quốc gia thành viên. Hội nghị Cấp cao
ASEAN được tổ chức mỗi năm 2 lần.
− Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) : gồm các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN, họp ít nhất 2
lần một năm, có nhiệm vụ điều phối các hoạt động hợp tác ASEAN nói chung và chuẩn bị
cho các Hội nghị Cấp cao.
− Các Hội đồng Cộng đồng ASEAN : bao gồm Hội đồng Cộng đồng Chính trị - An ninh
ASEAN (APSCC), Hội đồng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AECC) và Hội đồng Cộng đồng Văn
hóa – Xã hội ASEAN (ASCCC), họp ít nhất 2 lần một năm, do Bộ trưởng có liên quan của
quốc gia đang giữ cương vị Chủ tịch ASEAN chủ trì, có nhiệm vụ theo dõi và điều phối hợp
tác ASEAN trên từng trụ cột Cộng đồng mình phụ trách.
− Ủy ban các Đại diện thường trực ASEAN (CPR) đặt tại Jakarta, đóng vai trò là cơ quan đầu
mối, theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác hàng ngày của ASEAN.
− Tổng thư ký ASEAN và Ban thư ký ASEAN đặt tại Jakarta, đóng vai trò là cơ quan hỗ trợ
hành chính cho các hoạt động hợp tác ASEAN.
− Ban thư ký ASEAN Quốc gia, nằm trong Bộ Ngoại giao của các nước thành viên, chịu trách
nhiệm theo dõi và điều phối các hoạt động hợp tác ASEAN ở cấp quốc gia.


7


2. Hoạt động của ASEAN
2.1. Quan hệ kinh tế nội khối
2.1.1. Hợp tác nông nghiệp, thực phẩm, nông nghiệp
Hợp tác nông nghiệp ASEAN bắt đầu từ khoảng thời gian 1968, không lâu sao
khi ASEAN được thành lập. Mục tiêu ban đầu là đảm bảo nguồn cung cấp thực phẩm
giữa các nước trong khối. Đến năm 1977, quan hệ hợp tác này được mở rộng sang lĩnh
vực lâm nghiệp và nông nghiệp. Đến hiện nay, các lãnh vực cụ thể trong quan hệ hợp
tác nông nghiệp, thực phẩm, nông nghiệp bao gồm: cây trồng, an toàn thực phẩm, chăn
nuôi, ngư nghiệp, đào tạo và hợp tác nông nghiệp, hợp tác khai thác các sản phẩm rừng
và nông nghiệp.
Mục tiêu chính của Hợp tác nông nghiệp, thực phẩm, nông nghiệp là tăng cường
và thực hiện các hoạt động hợp tác nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm
nông lâm thủy sản ASEAN cũng như thúc đẩy thực hiện an toàn thực phẩm trong khu
vực và hướng ra thế giới.

2.1.2. Hợp tác Hải Quan
Vào hội nghị ASEAN lần thứ IX năm 2003 đã thông qua Chương trình hải quan bao gồm
những vấn đề chủ yếu :
− Thực hiện Hành Lang Xanh (Green Lines) cho những sản phẩm ưu đãi theo chương
trình CEPT tại hải quan cửa khẩu của những nước thành viên.
− Thực hiện hiệp ước WTO về định giá hàng hóa và hướng dẫn thực hiện các biện pháp
phù hợp hải quan trước cuối 2004.
− Cam kết danh vực dành cho cá nhân từ cơ quan quản lý Hải quan các nước thành viên.
− Áp dụng chế độ một cửa bao gồm hệ thống xử lý tài liệu thương mại tự động cho từng
quốc gia và khu vực.
Vì thế các quan chức Hải quan các nước ASEAN hợp tác xây dựng Bản hướng dẫn định

giá Hải Quan ASEAN (ACVG - the ASEAN Customs Valuation Guide) và thống nhất những vấn

8


đề về kĩ thuật hải quan, tên gọi, chuẩn hóa thông tin, hài hòa những thông lệ hải quan theo
phương pháp định giá chung của WTO/GATT.

Hiện nay, ASEAN đang xây dựng một Danh mục biểu thuế hài hòa chung ASEAN
(AHTN). Danh mục biểu thuế này sẽ dựa trên dựa trên phiên bản mới nhất của hệ
thống Hài Hòa miêu tả và mã số hàng hóa mới nhất do Tổ chức Hải quan Thế giới
(WCO) ban hành.

Tổng kim ngạch xuất khẩu trong và ngoài ASEAN (nguồn />
2.1.3. Hợp tác Công nghiệp :
Từ ngày thành lập đến nay ASEAN đã có 5 chương trình hợp tác công nghiệp giữa các
nước thành viên trong lĩnh vực công nghiệp.
1, Các dự án công nghiệp ASEAN được thông qua tại Hội nghi thượng đỉnh ASEAN lần I
(1976)

9


2, Các liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV – ASEAN Industrial Joint Venture) bắt đầu từ

1/1983
3, Bổ sung công nghiệp ASEAN (AIC – ASEAN Industrial Complementation) đưa ra 6/1991.
4, Liên kết sản xuất chung nhãn mác (BBC – Brand to Brand Complementation) khởi đầu từ

10/1988

5, Chương trình hợp tác công nghiệp (ASEAN Industrial Cooperation Scheme – AICO)
được kí tại Singapore 27/4/1996 , chính thức có hiệu lực từ ngày 1/11/1996 dùng để
thay thế cho BBC và AIJV.
Mục đích chủ yếu của AICO là khuyến khích liên kết sản xuất giữa các xí nghiệp của các
nước ASEAN, kể cả các xí nghiệp vừa và nhỏ, và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của ASEAN.
Các sản phẩm được sản xuất bởi các xí nghiệp tham chương trình AICO được hưởng mức ưu
đãi thuế quan tối đa là 0-5% và các khuyến khích phi thuế quan do từng nước quy định.

Tổng kết những ứng dụng được phê chuẩn của các nước thành viên AICO (nguồn />
2.1.4.Chương trình hợp tác đầu tư :
ASEAN là một trong khu vực thu hút đầu tư hàng đầu thế giới vì thế cộng đồng ASEAN
luôn khẳng định cam kết cung cấp cho các nhà đầu tư một môi trường cạnh tranh và hấp dẫn
cho nhà đầu tư và các hoạt động kinh doanh.
Vào tháng 7/1998 ASEAN kí hiệp định thành lập khu đầu tư ASEAN (AIA – ASEAN
Investment Area) để cung cấp một môi trường tự do kinh doanh, đầu tư, công nghệ và nhân
lực chất lượng cao. Mục tiêu chính của AIA là :
10


− Hợp tác để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN từ các nguồn trong và
ngoài ASEAN.
− Dành nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT – National Treatment) cho các nhà đầu tư
ASEAN vào năm 2010 và tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020.
− Mở cửa tất cả các ngành công nghiệp cho cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và
tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020.
− Thúc đẩy sự di chuyển vốn, lao động có tay nghề, công nghệ giữa các nước thành viên
ASEAN.
Hiệp định AIA ngày nay đã mở rộng sang các ngành : sản xuất, nông nghiệp, khai khoáng,
nông lâm nghiệp, và dịch vụ (có giới hạn một số ngành), góp phần đảm bảo cung cấp thông tin
minh bạch trong chính sách, luật, thủ tục hành chính đầu tư ; xóa bỏ hàng rào đầu tư và tự do

hóa luật và chính sách đầu tư của tất cả những khu vực được quy định trong Hiệp định.
Để thực hiện nội dung của Hiệp định AIA, ASEAN đề ra 3 chương trình :
1, Chương trình hợp tác và thuận lợi hóa
2, Chương trình xúc tiến và nhận thức.
3, Chương trình tự do hóa.
Mỗi nước ASEAN sẽ tự vạch ra các kế hoạch hành động để cụ thể hóa các chương trình
nói trên. Cứ mỗi 2 năm 1 lần, các kế hoạch của từng quốc gia sẽ được rà soát để đảm bảo tiến
độ thực hiện AIA.

2.1.5. Chương trình hợp tác về dịch vụ :

11


Bảng tỷ lệ các ngành trong GDP của các nước ASEAN (nguồn />
Dịch vụ là một lĩnh vực khá quan trọng trong khối ASEAN. Để phát triển tự do hóa
thương mại dịch vụ trong khối, 12/1995 Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN trong Hội nghị
cao cấp ASEAN lần V đã thông qua Hiệp định khung dịch vụ ASEAN (AFAS).

AFAS nhằm mục tiêu xóa bỏ mọi rào cản thương mại dịch vụ trong những
quốc gia ASEAN để tăng khả năng cạnh tranh của những nhà cung cấp dịch vụ ASEAN.
AFAS cung cấp sự hướng dẫn rộng rãi cho các nước thành viên ASEAN để cải thiện khả
năng tiếp cận thị trường và đảm bảo Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia trong quốc gia
12


ASEAN. Tất cả các quy định của AFAS đều bám sát luật quốc tế được quy định bởi
GATS và WTO.

2.1.6.Hợp tác tài chính ngân hàng


Chương trình nổi bật đầu tiên của ASEAN trong lĩnh vực tài chính ngân hàng là
Thỏa thuận trao đổi (Swap Arrangment) giữa các ngân hàng trung ương và các cơ quan
tiền tệ ASEAN được kí kết tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ II (1977) nhằm cung cấp
kịp thời các khoản tín dụng quốc tế ngắn hạn cho các nước thành viên đang gặp khó
khăn trong thanh toán quốc tế. Thỏa thuận này hết hạn vào năm 1992 và được gia hạn
thêm 5 năm đến 1997.
Hiện nay các nước đang đàm phán về hoạt động tiếp theo nhằm thiết lập một
diễn đàn giữa các ngân hàng trung ương của các nước thành viên. Các nước ASEAN
cũng đã nhất trí tiếp tục công tác theo dõi các vấn để tài chính quốc tế có thể có ảnh
hưởng đến ASEAN để kịp thời có biện pháp xử lý.
Trong giai đoạn sau 1997, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã có nhiều tác
động nghiêm trọng đến nền kinh tế ASEAN vì thế các nước ASEAN đã tích cực hợp tác
để hỗ trợ nhau trong cuộc khủng hoảng và đề phòng cũng như dự báo các cơn khủng
hoảng kinh tế khác trong tương lai.
Nhằm mục tiêu trên, tại hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN vào 2004, chương
trình Tiến trình giám sát ASEAN (ASEAN Surveillance Process - ASP) đã được thành lập.
ASP bao gồm những mục tiêu sau :
1, Sự giám sát phát triển kinh tế và tài chính quốc gia, khu vực cũng như toàn cầu với
mục đích: theo dõi tiến trình phục hồi và phát hiện bất cứ dấu hiệu nào của việc tái phát
tính dễ bị tổn thương trong các nền kinh tế ASEAN. Kết quả của tiến trình giám sát
được thông báo cho các bộ trưởng tài chính hai năm một lần.
2, Xét duyệt công bằng (Peer review), cung cấp một diễn đàn trong đó các Bộ trưởng tài
chính ASEAN có thể trao đổi các quan điểm và thông tin về những phát triển tại các nền

13


kinh tế trong nước, bao gồm các cả biện pháp chính sách đã được thực hiện và tiến
trình cải cách cơ cấu. Sự xét duyệt tạo ra một cơ hội cân nhắc các hành động tập thể

hoặc đơn phương nhằm phản ứng trước những mối đe doạ tiềm năng đối với một nền
kinh tế thành viên bất kỳ.

 ASP có vai trò như một cơ chế cảnh báo sớm.
Các nhà lãnh đạo ASEAN cũng vach ra lộ trình hội nhập tài chính ASEAN nhằm hiện
thực hoá Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) nhằm thiết lập một thị trường thống nhất và một
nền tảng sản xuất được đặc trưng bằng sự luân chuyển tự do hàng hoá, dịch vụ, đầu tư và các
luồng vốn. AEC sẽ tạo điều kiện cho sự thuyên chuyển các nhà kinh doanh, lao động có kỹ năng
và các nhân tài trong khu vực.
Ngoài ra, ASEAN cũng hướng đến thành lập một Cộng đồng kinh tế theo như mô hình
cộng đồng kinh tế của EU. Cũng giống như EU, việc thông qua một đồng tiền chung ASEAN khi
đạt đủ các điều kiện thích hợp sẽ là giai đoạn cuối của một Cộng đồng kinh tế ASEAN. Tuân
theo lộ trình này, các cách tiếp cận và các mốc phát triển được xác định là:
1, Phát triển thị trường vốn
2, Tự do hoá tài khoản đầu tư
3, Tự do hoá các dịch vụ tài chính
4, Hợp tác tiền tệ ASEAN.

2.1.7. Các hợp tác kinh tế khác :
− Viễn thông và công nghệ thông tin
− Phát triển khu vực
− Quyền sở hữu trí tuệ
− Khoáng sản và dịch vụ năng lượng
− Doanh nghiệp vừa và nhỏ
− Tiêu chuẩn và thống nhất tiêu chuẩn
− Du lịch
− Giao thông vận tải

14



2.2. Quan hệ của ASEAN với các quốc gia và tổ chức trên thế giới
2.2.1. ASEAN +3
Với sự ra đời của ASEAN +3, các nước Đông Á, vốn có những khác biệt về lịch sử văn
hoá, trình độ phát triển và chế độ chính trị, đã liên kết với nhau thông qua các thể chế hợp tác.
Hợp tác ASEAN +3 được triển khai qua 2 kênh:
Kênh I là kênh chính thức của các chính phủ ASEAN +3. Ở kênh này, Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN +3 là cơ quan quyền lực cao nhất; tiếp đến là các hội nghị cấp bộ, hội nghị các
quan chức cao cấp.
Kênh II thu hút sự tham gia của giới học giả, các nhà nghiên cứu chiến lược, đại diện
giới doanh nghiệp và xã hội dân sự. Nhiệm vụ của kênh này là tư vấn cho Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN +3 và các hội nghị cấp bộ trong quá trình hoạch định chính sách phát triển của
hợp tác ASEAN +3. Các thể chế chính trong kênh này bao gồm: Nhóm Tầm nhìn Đông Á,
Nhóm nghiên cứu Đông Á, Diễn đàn Đông Á, Hội đồng kinh doanh Đông Á... Thông qua các
thể thể hợp tác này, quan hệ hợp tác đa phương giữa các nước Đông Á đã phát triển nhanh
chóng và toàn diện.
Sự ra đời của ASEAN +3 đã và đang thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương giữa ASEAN
và các nước Đông Bắc Á : Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc.
• Hợp tác ASEAN - Trung Quốc
Quan hệ ASEAN - Trung Quốc chính thức thiết lập từ năm 1991, được thể chế hoá từ
tháng 12/1997. Hằng năm, các nhà lãnh đạo hai bên gặp gỡ thường xuyên, trao đổi về các vấn
đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm.
Nếu trong những năm đầu mới thiết lập quan hệ, hợp tác an ninh là một lĩnh vực nhạy
cảm mà cả ASEAN và Trung Quốc đều né tránh, thì từ năm 1997, hai bên đã quyết định hợp tác
trong lĩnh vực này, trước hết là trong các vấn đề an ninh phi truyền thống. Tại Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc lần thứ III tổ chức ở Singapore (tháng 11/2000), hai bên đã
ký “Tuyên bố chung về hợp tác trong lĩnh vực an ninh phi truyền thống” với mục tiêu tăng

15



cường năng lực, thúc đẩy ổn định và phát triển, bảo vệ hoà bình và an ninh trong khu vực. Ở
giai đoạn hiện nay, những ưu tiên trong lĩnh vực này tập trung chủ yếu vào chống buôn bán
ma tuý, buôn bán người, cướp biển, hoạt động khủng bố, buôn lậu vũ khí, rửa tiền, tội phạm
kinh tế quốc tế.
Trong hợp tác kinh tế, hoạt động quan trọng nhất của ASEAN và Trung Quốc từ 2002 tới
nay là triển khai xây dựng Khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, thực hiện Hiệp định
khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN- Trung Quốc, ký kết Hiệp định về mậu dịch hàng
hoá và Hiệp định về cơ chế giải quyết tranh chấp của Hiệp định khung.
Với tư cách một khối, trong năm 2006, tổng kim ngạch buôn bán ASEAN - Trung Quốc
đạt 160,8 tỉ USD, mức cao nhất từ trước tới nay và tăng 23% so với mức 2005. Trong năm
2007, kim ngạch buôn bán giữa hai bên ước đạt 170 tỉ USD.
Về đầu tư, nguồn FDI từ Trung Quốc vào ASEAN ngày càng tăng. Chỉ tính riêng năm
2004, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc vào các nền kinh tế ASEAN tăng 283,86% so với năm
2003; năm 2006 lên tới 1,3 tỉ USD. Đầu tư trực tiếp của ASEAN sang Trung Quốc tiếp tục gia
tăng. Trong 9 tháng đầu năm 2004, đã có 1.825 dự án đầu tư trực tiếp của ASEAN vào Trung
Quốc.
Hợp tác ASEAN và Trung Quốc trong các tổ chức hợp tác đa phương ngày càng chặt chẽ.
Trong Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), ASEAN và Trung Quốc có chung lập trường về phương
hướng và nhịp độ phát triển của tiến trình; Trung Quốc kiên quyết ủng hộ ASEAN nắm vai trò
lãnh đạo tại tổ chức này. Hợp tác ASEAN - Trung Quốc trong tiến trình ASEM cũng đạt được
những thành tựu rõ rệt.
Hai bên cùng hợp sức thúc đẩy hợp tác ASEAN +3 nói riêng và hợp tác Đông Á nói
chung. Với sự ủng hộ mạnh mẽ của Trung Quốc, ASEAN duy trì vai trò lãnh đạo trong tiến
trình ASEAN +3 và Thượng đỉnh Đông Á.

• Hợp tác ASEAN - Nhật Bản
ASEAN và Nhật Bản thiết lập quan hệ không chính thức từ năm 1973. Năm 1977, hai bên
đã chính thức hoá quan hệ với việc thiết lập Diễn đàn ASEAN - Nhật Bản.
16



Với việc thiết lập hợp tác ASEAN +3, quan hệ ASEAN - Nhật Bản có nhiều hứa hẹn, tuy
nhiên, cho tới trước năm 2002, quan hệ hai bên chưa thực sự có bước đột phá mới, chủ yếu
chỉ tập trung vào hợp tác kinh tế và phát triển.
Từ đầu năm 2002, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Nhật Bản (tháng 11/2003), hai bên
đã ra Tuyên bố chung về quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) với mục
tiêu cung cấp thị trường rộng lớn hơn cho các nền kinh tế ASEAN và Nhật Bản.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Nhật Bản kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan hệ
(tháng 12/2003), hai bên đã ra “Tuyên bố Tokyo về quan hệ đối tác năng động và bền vững
ASEAN - Nhật Bản trong thế kỷ XXI”. Đây là văn kiện rất quan trọng trong lịch sử quan hệ giữa
hai bên, là nền tảng pháp lý để phát triển một cách toàn diện quan hệ giữa ASEAN - Nhật Bản
trong thế kỷ XXI. Trong văn kiện, hai bên chủ trương thúc đẩy hợp tác kinh tế, chính trị- an
ninh, hợp tác song phương, đa phương trong các tổ chức khu vực và quốc tế. ASEAN và Nhật
Bản đã đề ra 7 chiến lược hành động chung, gồm:
− Đẩy mạnh AJCEP.
− Hợp tác về tài chính, tiền tệ.
− Củng cố nền tảng cho phát triển kinh tế và sự thịnh vượng.
− Tăng cường hợp tác và quan hệ đối tác về chính trị và an ninh.
− Tạo thuận lợi, thúc đẩy giao lưu giữa nhân dân các nước và phát triển nguồn nhân lực.
− Tăng cường hợp tác về văn hoá và các quan hệ công cộng, làm sâu sắc hơn hợp tác
Đông Á vì một cộng đồng Đông Á.
− Hợp tác để giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu.
Về chính trị, trong các cuộc gặp gỡ cấp cao, hai bên đã trao đổi quan điểm, thảo luận về
những vấn đề cùng quan tâm. Trong Tuyên bố chung ở Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Nhật
Bản lần thứ 10 (tháng 1/2007), hai bên đã bày tỏ quan điểm kêu gọi CHDCND Triều Tiên dỡ bỏ
vũ khí hạt nhân cũng như các chương trình hạt nhân, thực hiện Nghị quyết 1695 và 1718 của
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về vấn đề này.
Trong lĩnh vực an ninh, hai bên xúc tiến các hoạt động hợp tác trong vấn đề an ninh phi
truyền thống. Tháng 10/2004, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Nhật Bản, hai bên đã ký

Tuyên bố chung về hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố. Đây là văn kiện hợp tác an ninh đầu
tiên giữa hai bên.
17


Trong lĩnh vực kinh tế, ASEAN và Nhật Bản tập trung triển khai kế hoạch AJCEP. Quan
hệ mậu dịch và đầu tư giữa hai bên tăng lên nhanh chóng. Trong năm 2005, tổng kim ngạch
buôn bán giữa ASEAN và Nhật Bản tăng 7,9%. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN cũng
tăng từ 3,12 tỉ USD năm 2004 lên 3,16 tỉ USD vào năm 2005. Nhật Bản tiếp tục là nguồn cung
cấp FDI lớn thứ ba cho ASEAN.
Trong lĩnh vực phát triển, ASEAN tiếp tục là ưu tiên trong các hoạt động ODA của Nhật
Bản. Để hỗ trợ cho tiến trình hội nhập ASEAN, chính phủ Nhật Bản đã ủng hộ Quỹ Phát triển
ASEAN 7,5 tỉ Yên (70 triệu USD) thông qua Quỹ phát triển ASEAN và các quỹ hợp tác ASEAN Nhật Bản.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, tại Hội nghị Cebu, Nhật Bản đưa ra Sáng kiến giao lưu
thanh niên trên quy mô lớn với tổng kinh phí lên tới 315 triệu USD. Sáng kiến này được thực
hiện trong vòng 5 năm với dự kiến mỗi năm có 6000 thanh niên từ ASEAN tới thăm Nhật Bản.
Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản còn đề xuất sáng kiến “Con tàu thanh niên Đông Á” nhằm kỷ
niệm 40 năm ngày thành lập ASEAN.

• Hợp tác ASEAN - Hàn Quốc
Quan hệ ASEAN - Hàn Quốc được chính thức thiết lập vào năm 1989. Sau hai năm hợp
tác với tư cách là một đối tác chức năng của ASEAN, tháng 7/1991, Hàn Quốc trở thành đối tác
đối thoại của ASEAN. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN không chính thức lần thứ IV (năm
2000) tổ chức ở Singapore, hai bên đã xác định các lĩnh vực ưu tiên hợp tác như công nghệ
thông tin, đào tạo nguồn nhân lực, trao đổi văn hoá, viện trợ y tế và phát triển hạ lưu sông
Mekong. ASEAN và Hàn Quốc đã thành lập Quỹ đặc biệt ASEAN - Hàn Quốc (SCF), Quỹ các dự
án hợp tác hướng tới tương lai (FOCPE). Quan hệ ASEAN - Hàn Quốc đã có bước tiến đột phá
vào năm 2004, nhân kỷ niệm 15 năm ngày thiết lập quan hệ giữa hai bên. Tại Hội nghị thượng
đỉnh ASEAN - Hàn Quốc lần thứ 8 (tháng 10/2004), các nhà lãnh đạo hai bên đã ký Tuyên bố
chung về quan hệ đối tác hợp tác toàn diện trong thế kỷ XXI. Trong bản tuyên bố, hai bên đã đề

ra phương hướng hợp tác trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế và phát triển, đặc biệt
là thoả thuận xây dựng Khu mậu dịch tự do ASEAN- Hàn Quốc.

18


Trong lĩnh vực chính trị, các Hội nghị thượng đỉnh ASEAN- Hàn Quốc được tổ chức
thường kỳ. Ngoài ra, lãnh đạo hai bên thường xuyên gặp gỡ tại các Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN +3 và Thượng đỉnh Đông Á; trao đổi quan điểm về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng
quan tâm.
Trong lĩnh vực an ninh, Hàn Quốc hợp tác chặt chẽ với ASEAN thông qua Hội nghị cấp
bộ ASEAN +3 về Tội phạm xuyên quốc gia và Hội nghị các quan chức cao cấp về tội phạm xuyên
quốc gia ASEAN +3 và trong khuôn khổ ARF.
Trong lĩnh vực kinh tế, các hoạt động hợp tác diễn ra rất sôi động. Tại Hội nghị thượng
đỉnh lần thứ 9 tổ chức ở Kuala Lumpur (năm 2005), các nhà lãnh đạo ASEAN và Hàn Quốc đã
ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện. Hiện nay, ASEAN và Hàn Quốc là các đối tác
kinh tế quan trọng của nhau. Trong năm 2003, ASEAN xuất khẩu sang Hàn Quốc 17,1 tỉ USD,
chiếm 4% tổng buôn bán quốc tế của ASEAN, nhập khẩu 15,1 tỉ USD (chiếm 4,2 %). Quan hệ
mậu dịch song phương ASEAN - Hàn Quốc tăng từ 31,5 tỉ USD vào năm 2002 lên 32,2 tỉ USD
vào năm 2003. Vốn đầu tư trực tiếp từ Hàn Quốc chiếm 3% tổng FDI vào ASEAN trong giai
đoạn 1995-2003.
Hợp tác phát triển ASEAN - Hàn Quốc cũng thu được những kết quả thiết thực. Cho tới
nay, một số dự án phát triển được thực hiện với sự hỗ trợ của SCF và FOCPE. Tại Hội nghị cấp
cao ASEAN - Hàn Quốc lần thứ 10 vừa qua, chính phủ Hàn Quốc cam kết tăng gấp đôi ODA
cho ASEAN trong năm 2009.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, các chương trình giao lưu nhân dân, trao đổi chuyên
gia trong lĩnh vực văn hoá, y tế, nghiên cứu được tổ chức thường xuyên. Hàn Quốc đã đề xuất
việc thành lập Trung tâm ASEAN- Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hơn nữa sự hiểu biết và nhận
thức về nhau giữa hai bên.
2.2.2. ASEAN - EU

Năm 1972, EU đã thiết lập quan hệ đối thoại với ASEAN, đến năm 1977 quan hệ đối thoại
giữa 2 bên đã được chính thức hóa.
Tháng 11/2007 hội nghị cấp cao đầu tiên giữa ASEAN và EU đã được tổ chức nhân dịp 30
năm quan hệ đối thoại ASEAN-EU đã đưa ra “Tuyên bố chung của hội nghị cấp cao ASEAN - EU”

19


gồm 27 khoản cam kết hợp trên các lĩnh vực từ an ninh, chính trị, cho đến thoả thuận mậu
dịch tự do giữa 2 khu vực. Tại hội nghị, ASEAN và EU cũng đã thông qua "Kế hoạch hành động
nhằm thực thi Tuyên bố Nuremberg về quan hệ đối tác tăng cường EU - ASEAN".

Về chính trị, trong hội nghị bộ trưởng ASEAN-EU ngày 14/3/2007 tại Nuremberg EU đã
cam kết giúp đỡ ASEAN trong việc xây dựng Hiến chương chung cho ASEAN cũng như hiến
pháp cho hiệp hội, đồng thời hỗ trợ ASEAN trong tham vọng xây dựng thị trường chung vào
năm 2015. Ngoài ra ASEAN và EU còn thực hiện chương trình ASEAN - EU về hỗ trợ hội nhập
khu vực
Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù đã có mối quan hệ kinh tế khá dài, nhưng thương mại
giữa ASEAN và EU hiện nay vẫn còn khá khiêm tốn. Trong tổng thương mại của ASEAN thì EU
chiếm 11,5-16%, EU là thị trường lớn thứ 2 của ASEAN ( sau Trung Quốc ). Trong khi đó vai
trò của ASEAN trong tổng thương mại của EU chỉ chiếm từ 1-3%. ASEAN là đối tác lớn thứ 5
của EU ( sau Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Liên Bang Nga).
Tổng thương mại hàng hóa giữa 2 khối đã giảm trong những năm vừa qua. Lý do chính là
vì cả hai khối đều dành ưu tiên của mình để phát triển thương mại trong khối hơn là thương
mại ngoài khối. Trong khi EU giai đoạn 1977-2009 mở rộng số thành viên của mình từ 9 thành
viên thành 27 thành viên, thương mại nội khối EU tăng từ 51% lên 66% thì thương mại nội
khối của ASEAN chỉ tăng từ 17% lên 26%.
Hiện nay trong ASEAN Singapore là đối tác lớn nhất của EU, với quan hệ kinh tế được
thiết lập từ lâu và trình độ phát triển khá cân bằng , thêm vào đó là trình độ kinh tế của các
nước còn lại trong ASEAN còn kém khá xa Singapore nên Singapore đã trở thành đối tác chính

của EU trong tiến trình ASEAN liên kết với EU.

20


Biểu đồ thương mại của EU với các nước ASEAN ( đơn vị : tỷ USD )

Thâm hụt thương mại trong cán cân thương mại EU-ASEAN ngày càng nghiêng về phía
ASEAN đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoàng tài chính 1997. Việc mất cân bằng này là do 2
nguyên nhân:
1, EU là một trong những thị trường xuất khẩu chính của ASEAN trong khi ASEAN lại
chưa phải là một đối tác lớn thương mại lớn của EU.
2, Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997, trong khi xuất khẩu từ EU vào ASEAN bị ảnh
hưởng nghiêm trọng thì xuất khẩu từ ASEAN sang EU vẫn không bị ảnh hưởng nhiều.
Điều này được thể hiện khá rõ ràng trong biểu đồ dưới đây :

21


Biểu đồ kim ngạch xuất-nhập khẩu của EU đối với ASEAN (đơn vị : tỷ USD)

Hiện nay trong hợp tác kinh tế đối với EU, ASEAN không chỉ là thị trường tiềm năng
đang mở rộng và phát triển nhanh mà còn là cánh cổng để EU tiếp cận với các thị trường Đông
Á khác. Còn đối với ASEAN, sẽ là vô cùng quan trọng để tăng cường quan hệ với EU, một trong
những thị trường xuất khẩu cũng như đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Chính vì thế,
cho đến nay EU và ASEAN vẫn đang tiếp tục nỗ lực theo đuổi FTA region-to-region giữa 2 khu
vực. Hội đồng kinh tế EU-ASEAN được ra đời tại Brunei ngày 4/5/2007, là cơ quan chuẩn bị cho
sự ra đời FTA giữa 2 khối, Thông qua việc xây dựng lộ trình và giải quyết các vấn đề còn gây trở
ngại.
Về hợp tác phát triển, EU đã giúp đỡ ASEAN trong việc phát triển nguồn nhân lực trao

đổi khoa học công nghệ, phát triển xã hội, ưu tiên các lĩnh vực môi trường và nông lâm
nghiệp.

22


3. AFTA – ASEAN Free Trade Area
3.1. Sự ra đời của AFTA
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi trường
chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN đứng trước những thách
thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của
toàn Hiệp hội, những thách thức đó là :
− Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN ngày
càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc
tế.
− Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như EU,
NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá ASEAN
khi thâm nhập vào những thị trường này.
− Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng rãi
cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên thiên
nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các nước Đông
Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa
phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.

Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992 , theo sáng kiến của Thái lan, Hội
nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Singapore đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu
dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA ). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế
ASEAN ở một tầm mức mới.


3.2. Mục tiêu của AFTA
− Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan trong nội
bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ khiến cho các Doanh
nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị
trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà
sản suất có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội
khối.
23


− Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị trường
thống nhất, rộng lớn hơn.
− Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt
là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới.

3.3. Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT-AFTA)
3.3.1. Các Quy định chung của Hiệp định CEPT:
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN cũng trong
năm 1992, đã

ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Common Effective

Preferential Tariff – CEPT).

CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về giảm thuế
quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về
định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và
hoàn thành vào 1/1/2003.
Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực hiện
Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không tách rời

dưới đây :
1, Vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế quan xuống 0-5%,
theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới, nhưng thời hạn tối đa là
trong vòng 10 năm.
2, Vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB - Non-Tariff Barriers) : hạn ngạch, cấp giấy
phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ.
3, Vấn đề hài hoà các thủ tục Hải quan.

3.3.2. Các Nội dung và Quy định cụ thể :
1, Vấn đề giảm thuế quan

24


Bước 1 : Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan của
mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT:
− Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (IL).
− Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL).
− Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SEL)
− Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL)

Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian thực hiện
Hiệp định)
Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm thuế hàng
năm

2, Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế quan khác (NTBs)

Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được
tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi thuế

quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép,...) và các hàng rào
phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng,...)
Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và do đó, được quy
định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng nhượng
bộ từ các nước thành viên khác.
Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức
tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau:
• Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong
CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó.
• Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản
phẩm được hưởng ưu đãi.
• Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản
phẩm thuộc CEPT.

25


×