Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Lời nói đầu
Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh tế đã nhanh
chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi trong nền kinh tế thế giới.
Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển của xã hội loài người trong
thế kỷ 20, một xu hướng không thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này
dẫn tới những mối quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự
phụ thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu một nước
có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh hay không được quyết
định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu hướng phát triển kinh tế thế giới đúng
lúc và điều chỉnh hướng phát triển của mình.
Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở tầm khu vực
và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện xong Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu
vực nào sau AFTA. Trong khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc
ngày càng phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và văn
hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu vực mậu dịch tự
do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN – China Free Trade Area) có thể
là một câu trả lời về một trong những định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo
của ASEAN.
Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển và đang ở
những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang phải đối mặt với những
cơ hội và thách thức trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập
một hiệp định thương mại tự do và tăng cường quan hệ song phương là một quyết
định sáng suốt của hai bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của
cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế của hai bên. Hơn nữa,
điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực
và cho phép ASEAN và Trung Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương
mại quốc tế. Bên cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức lớn
đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của ASEAN trong đó
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 1 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ hội và thách thức của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là một trong những vấn đề có tính thời sự và có
ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là
Việt Nam, có thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự
do này.
Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam” với mong muốn đề tài
này sẽ góp phần làm sáng tỏ những mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do
được thiết lập giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công
vào khu vực này.
Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao gồm phương
pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu, có sự tổng hợp, phân tích
và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính:
Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực mậu dịch tự
do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành khu vực này, đồng thời khái
quát hoá những nội dung cơ bản nhất của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Trung Quốc (FAACCEC).
Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước thành viên.
Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến nghị để
thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và tiến hành tổng hợp, phân tích, so sánh,
khoá luận đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quan về
những cơ hội và thách thức đối với các nước thành viên, đặc biệt là đối với Việt Nam,
một khi Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc được thành lập, từ đó đưa ra
một số đề xuất để tăng cường sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do
này.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 2 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về thời gian, kiến
thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của của các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hướng dẫn và chỉ
bảo tận tình cho em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm
ơn đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa phương (Bộ
Ngoại giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Trung tâm thông tin tư liệu
thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu
Trung Quốc đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Hà nội, tháng 12/ 2003
Sinh viên
Đinh Thị Việt Thu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 3 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Chương 1: Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung
Quốc (ACFTA)
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA) trên toàn
cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong nửa cuối
những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã được toàn cầu hoá
mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự sáp nhập và mua lại
(M&As) xuyên biên giới và thông qua các kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng
với cuộc cách mạng công nghệ thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết lập
ở các lĩnh vực như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ
giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính sách thương
mại quốc tế.
Mục đích và nội dung của các thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA) cũng đã
thay đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA) và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu những năm 1990, cuộc thảo luận
kinh tế về những quan điểm thuận và chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh
giá mang tính lý thuyết và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thương mại của J. Viner [1]
và các tác động méo mó của thương mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý tưởng
chủ nghĩa khu vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm 1990.
Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc giữa các
nước thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu dịch tự do (FTA – Free
Trade Area) với một số thành viên của Hội đồng thương mại tự do Châu Âu (EFTA),
với các nước Đông Âu và các nước ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là
những nước tương đối nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nước này đã
đàm phán và ký kết một số FTA với cả những nước trong khu vực cũng như những
nước cách xa về địa lý. Bị kích thích bởi các bước phát triển này, trong suốt những
năm 80, Mỹ đã tích cực theo đuổi khả năng thành lập khu vực mậu dịch tự do với các
nước khác ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Bước đi đầu tiên của nước này là
việc đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike
Mansfield - đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã đưa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập
Khu vực mậu dịch tự do Mỹ – Nhật Bản. Năm 1989, báo cáo cuối cùng về “Sáng kiến
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 4 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
ASEAN – Mỹ” đã được cùng nghiên cứu và đưa ra kêu gọi thành lập khu vực mậu
dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây hơn, năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị thành
lập khu vực mậu dịch tự do P5 (Pacific 5 – nhóm 5 nước ở Thái Bình Dương, bao
gồm Australia, Chile, New Zealand, Singapore và Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình
thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã được Mỹ đẩy mạnh. Ngoài những FTA với
Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003, Mỹ đã ký FTA với Singapore,
Chile và các hiệp định khung về thương mại và đầu tư với Thái Lan, Philippines và
Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003, Mỹ cũng bắt đầu thương thảo để ký FTA với Liên hiệp
quan thuế miền nam châu Phi (gồm các nước Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia
và Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng ký kết FTA với Colombia
và Bahrain (xem bảng 1).
Bảng 1: Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nước
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
Singapore Mehico Chile Mỹ EC/ EU *
New Zealand,
Nhật Bản,
EFTA
Mỹ và Canada
(NAFTA), EU,
EFTA, Chile,
Israel, Các nước
thuộc khối tam
giác phía bắc
(El Salvador,
Honduras,
Nicaragoa),
Dominica,
Nicaragoa,
Costa Rica,
Bolivia, G3.
Canada, Mehico,
Trung Mỹ (Costa Rica,
El Salvador, Honduras,
Guatamela, Nicaragoa),
Venezuela, Columbia,
Equdor, MERCOSUR,
Peru, Bolivia
Canada và
Mehico
(NAFTA),
Israel, Jordan
Malta, Cyprus,
Andora, Thổ Nhĩ
Kỳ, Thuỵ Sỹ,
Liechtenstein,
Ireland, Norway,
Séc, Hungary, Ba
Lan, Slovak,
Rumania, Bulgaria,
Lithuania, Estonia,
Latvia, Faeroes,
Slovenia, Mehico,
Chile, Palestine,
Tunisia, Israel,
Jordan
Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt đầu đàm phán
Mỹ, Mehico,
Canada,
Australia
Singapore
Mỹ, EU, EFTA,
Hàn Quốc, Panama,
Cuba, MERCOSUR
Chile, FTAA,
Singapore
MERCOSUR,
Các nước khối
Andean (Bolivia, Columbia,
Peru,
Venezuela)
Các khu mậu dịch tự do đang ở giai đoạn đề xuất
Chile, EU, Hàn Nhật, New Nhật, Singapore,
Pacific 5
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 5 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Quốc, Pacific 5 Zealand Pacific 5
Nguồn: Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI), 2001, />policy/trade-policy/epa/html.
Theo Sách trắng về thương mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc tiến thương
mại Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250 hiệp định mậu dịch tự do
(FTA) song phương và khu vực đã được thông báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130
hiệp định được thông báo sau tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực
và 70 FTA khác đã có hiệu lực mặc dù chưa được thông báo cho WTO. Dự kiến đến
cuối năm 2005, sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực có hiệu
lực [2]. Chính tổng giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi cũng phải thừa nhận xu
thế đàm phán hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực đã trở nên phổ biến,
và nghi ngại rằng xu thế này có thể phá vỡ các hoạt động đa phương trong khuôn khổ
WTO [3].
ở khu vực Đông á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực như vậy được ký
kết (tham khảo Phụ lục 1), nhưng điều cần nói là xu hướng này mới chỉ xuất hiện ở
Đông á từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu
khả năng thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa hai nước. Tháng 9/ 1999, Singapore
đã nhất trí với New Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự
do, nước này cũng đưa ra đề nghị tương tự đối với các nước Chile, Mehico và Hàn
Quốc. Tháng 10 năm đó, Singapore đã đưa ra đề nghị thiết lập quan hệ giữa Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với Hiệp định quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa
Australia và New Zealand (CER). Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với
Chile và tháng 12, nước này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản.
Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở cấp chính phủ
mới thật sự có được động lực, và đi tiên phong là Singapore khi nước này đưa ra sáng
kiến đàm phán và nghiên cứu về khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nước khác
trong khu vực. Khái niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông á (EAFTA) đã được
đưa ra thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/ 2000 và
các nước đã đi đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về vấn đề này. Năm 2001,
Singapore và New Zealand đã đạt được thoả thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do
đầu tiên ở Đông á phù hợp với Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu
dịch (GATT). Tháng 11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 6 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
nguyên tắc đối với việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN và
Trung Quốc trong vòng 10 năm.
Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ thực tế đã
cho thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA mang lại cho các quốc gia
là rất lớn:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn bộ các lĩnh
vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên: không chỉ thương mại hàng
hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, … mà cả
các vấn đề khác như du lịch, thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh
truyền hình … (tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ
đem lại nhiều lợi ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, xúc tiến
đầu tư và chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với một nước thứ ba. Hơn
thế nữa, tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng làm tăng sức cạnh tranh của các nhà
xuất khẩu và các tổ chức thương mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ
dàng thành công trong các vòng đàm phán đa phương. Với ý nghĩa như vậy, FTA
chính là cánh cửa để một nước hội nhập thương mại với thế giới, khởi đầu cho quá
trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các nước có nhiều cơ hội để lựa chọn đối tác thích
hợp.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so với WTO,
với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự do hoá tối đa và triệt tiêu
hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là
vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường đầu
tư. Ngoài ra, bản chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương mại,
mà còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại, ví dụ: hợp
tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong việc phát triển công nghệ
thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những
FTA mới được ký kết gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ
thuế quan và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị tắc
nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương hay khu vực.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngược lại với tiến
trình của các vòng đàm phán đa phương, bởi cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào
chứng minh được các Khu vực mậu dịch tự do hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thương
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 7 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
mại trên phạm vi toàn cầu. Nhưng có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do
lớn nhất là EU và NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ
chức này là tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) được nêu rõ ở điều khoản I, nên
khả năng các FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy ra.
Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt đối xử trong
ngoại thương nhưng vẫn có những điều khoản cụ thể cho phép các thành viên tham
gia FTA, với điều kiện phải thông báo về những FTA đó. Điều 24 của GATT quy
định về việc thành lập và hoạt động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi
hàng hoá. Điều 5 của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ) cho phép
lập các FTA về trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho phép ký
kết FTA về trao đổi hàng hoá giữa các thành viên là nước đang phát triển. Các quy
định này có thể không bắt buộc trong các vụ giải quyết tranh chấp nhưng có tác dụng
như là nguyên tắc ứng xử ở một chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vượt xa phạm vi
của những điều khoản này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào
khác được quốc tế thừa nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa đựng hầu hết
các vấn đề vượt xa thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nói cách khác, ở một mức độ
nhất định, các FTA có tính bổ sung cho WTO trong việc tự do hoá thương mại. Chính
vì vậy, giới học giả Nhật cho rằng các FTA nên theo mô hình WTO – cộng, nghĩa là
bao gồm nhiều lĩnh vực hơn và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ
hội đối với việc hợp tác khu vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật Bản), Đại
sứ Singapore tại Nhật Bản cũng nêu rõ: “Tự do hoá thương mại theo WTO không có
được nhiều bước tiến trong những năm gần đây do WTO có quá nhiều thành viên.
Trong bối cảnh như vậy, các hiệp định tự do khu vực và song phương sẽ là cơ chế bổ
sung tốt cho tiến trình đa phương” [3]. Như vậy, FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối
với tự do hoá mậu dịch nhưng là giải pháp khả thi nhất trong một thế giới đa dạng.
Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đường cho toàn cầu hoá khi nó phải
đảm bảo rằng ảnh hưởng do thương mại tăng lên (trade creation) lớn hơn ảnh hưởng
do thương mại giảm đi (trade diversion) [1]. Đến khi đó, FTA sẽ có thể trở thành một
đòn bẩy thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và tự do thương mại toàn cầu và cuối cùng,
chủ nghĩa khu vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu.
Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới các FTA,
mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách kinh tế trong nước đã
đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như là các công cụ chính sách để giới
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 8 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
hạn hay thúc đẩy cải cách trong nước cũng như thu hút FDI hơn là trông chờ có được
các tác động trực tiếp to lớn của giảm thuế quan. Trên thực tế, Mehico đã được hưởng
những tác động tích cực rõ ràng của NAFTA đối với cả việc thu hút FDI và việc giới
hạn cải cách cơ cấu trong nước. Các nước Đông Âu đã cố gắng giới hạn quá trình
chuyển đổi mạnh mẽ các hệ thống kinh tế của họ và một số nước trong số họ đã rất
thành công trong việc thu hút FDI.
Thêm vào nữa, các nước đã bắt đầu cảm nhận được rằng cái giá của việc không
phải là thành viên của bất kỳ thoả thuận khu vực nào là có thật. Giá ở đây gồm sự mất
đi thế đàm phán trong các cuộc đàm phán đa phương, bỏ lỡ các cơ hội hưởng lợi từ
bên ngoài và sự chậm trễ nói chung trong việc sử dụng hiệu quả làn sóng toàn cầu
hoá. Mehico, Chile và Singapore muốn rằng họ trở thành trung tâm mạng lưới FTA và
hưởng lợi ích của sự kết nối. Một nước trung tâm có các lợi thế tiềm năng đối với các
nước khác ở đầu bên kia trong việc hình thành các luồng thương mại và mạng lưới sản
xuất thông qua FDI. Một tài sản quan trọng của các thoả thuận FTA trong bối cảnh
này là một nước (ví dụ Mehico) có thể ký kết một FTA mới (ví dụ với EU) mà không
cần thay đổi bất cứ thoả thuận FTA cũ nào (ví dụ NAFTA).
Nói tóm lại, chính do những lợi điểm kể trên mà việc mở rộng liên kết, thiết lập
các Khu vực mậu dịch tự do đã trở thành hướng đi được các nước chú trọng nhằm
khai thác tốt nhất lợi thế so sánh của từng quốc gia, tạo ra sân chơi hấp dẫn đầy tiềm
năng đáp ứng lợi ích của tất cả các bên có liên quan.
Tuy vậy, các FTA cũng đặt ra 1 số vấn đề đáng quan tâm:
Thứ nhất, các chính phủ hiện theo đuổi FTA như là 1 công cụ trong chính sách
thương mại gồm nhiều tầng nấc đan xen nhau, gồm cả song phương, khu vực và đa
phương. Đối với từng chính phủ, chính sách này đòi hỏi rất nhiều nguồn lực, kể cả
con người và vật chất, do đó có thể trở thành gánh nặng, nhất là đối với các nước đang
phát triển; còn đối với WTO, quá nhiều FTA mà không có sự điều phối thoả đáng thì
điều này có thể đe dọa sẽ làm đổ vỡ tiến trình Doha. Chính vì vậy, Tổng giám đốc
WTO, Tiến sĩ Sapuchai Panitchpakdhi, đã phải thừa nhận rằng: “FTA là con dao hai
lưỡi và là nguyên nhân làm chậm tiến trình toàn cầu hoá” [4].
Thứ hai, hầu như tất cả các FTA hình thành trong thời gian gần đây đều có nội
dung toàn diện, không chỉ giải quyết các rào cản tại biên giới quốc gia như các FTA
truyền thống mà còn bao trùm các lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ, đặc biệt cả đầu
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 9 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
tư và thương mại điện tử, … là những lĩnh vực chưa có quy định quốc tế chung. Câu
hỏi đặt ra là liệu các cam kết mang tính ràng buộc trong những lĩnh vực mới đó có
thật sự phù hợp và thuận lợi, hay trên thực tế chúng lại đặt ra những rào cản mới cho
các nước bên ngoài và tác động tiêu cực đến tiến trình đàm phán đa phương về các
lĩnh vực này. Ngoài ra, còn phải kể đến những vấn đề truyền thống đặt ra cho FTA nói
chung, nhất là về khả năng tác động giảm bớt thương mại của các nước không tham
gia FTA.
Thứ ba, nhiều nước tham gia FTA dường như chỉ nhằm mục đích tự vệ để tránh
bị gạt ra ngoài, chứ hoàn toàn không theo 1 chiến lược bài bản, khiến tình hình FTA
nói chung trên thế giới ngày càng phức tạp, đặc biệt tại Đông á. Nhật Bản và Malaysia
cách đây không lâu còn rất bàng quan, giờ đã trở thành những nước ráo riết tìm kiếm
FTA song phương, chủ yếu vì lo ngại các nước khác có FTA sẽ chiếm mất thị trường
truyền thống của họ.
Thứ tư, mặc dù các FTA song phương nhìn chung đều mang tính mở cửa hơn
so với WTO, song vẫn không giải quyết được những lĩnh vực hoặc những ngành hàng
nhạy cảm của từng nước. Nông – lâm – ngư nghiệp của Nhật Bản là 1 thí dụ rõ rệt
nhất. Nhật Bản đã chọn Singapore làm đối tác đàm phán FTA đầu tiên vì quốc đảo
Đông Nam á này hầu như không xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, vậy mà xuất
khẩu cá vàng (gold fish) của Singapore vẫn là một vấn đề lớn trong tiến trình đàm
phán giữa 2 nước. Liên quan đến vấn đề này, cũng cần chỉ ra rằng vì các FTA song
phương thường được thiết kế sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của hai nước liên
quan, cho nên chúng rất khó có thể mở cho các nước khác cùng tham gia, trừ khi là
phải xây dựng một hiệp định mới.
Thứ năm, liên quan đến thương mại hàng hoá là lĩnh vực quan trọng nhất song
hầu hết các FTA quy định về xuất xứ trong các hiệp định thường rất khác nhau. Nếu
một nước tham gia nhiều FTA song phương, mà quy tắc xuất xứ của một loại hàng
hoá nào đó lại khác nhau trong từng hiệp định, thì doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng
đó chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn; về phía chính phủ, cơ quan hải quan cũng sẽ vất
vả.
Nói tóm lại, lợi ích của các FTA, ngay cả trong ngắn hạn, luôn gắn liền với
thương mại và đầu tư. Do đó, chừng nào lượng việc làm do đầu tư nước ngoài tạo ra
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 10 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
còn bù được cho những mất mát của các ngành công nghiệp không cạnh tranh được
với hàng nhập khẩu thì tham gia FTA vẫn có thể có ích cho toàn xã hội.
1.1.2. Sức mạnh kinh tế mới của Trung Quốc và sự hấp dẫn của khu vực kinh
tế năng động ASEAN.
Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự hình thành của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc. Tăng trưởng kinh tế đã từng là thành
tích đầy ấn tượng của Trung Quốc và phần lớn các nước ASEAN trong 3 thập kỷ vừa
qua. Cả Trung Quốc và ASEAN đều theo đuổi chiến lược tăng trưởng hướng về xuất
khẩu và đã đạt được các tỷ lệ tăng trưởng cao hơn nhiều tỷ lệ trung bình của thế giới.
Kể từ khi mở cửa ra bên ngoài, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt hơn
10% hàng năm. Vào những năm 90, Trung Quốc tăng trưởng ở mức cao nhất trên thế
giới. Tổng tiết kiệm nội địa và tổng đầu tư trong thập kỷ cuối đạt lần lượt hơn 40% và
34% GDP. Thành tích trong khu vực đối ngoại cũng rất gây ấn tượng, xuất khẩu tăng
ở mức trung bình hàng năm hơn 15%, dự trữ quốc tế của Trung Quốc năm 1997 đạt
hơn mức nhập khẩu tương đương của 12 tháng. Vốn nước ngoài chủ yếu là đầu tư trực
tiếp nước ngoài, đã tăng 275 lần trong giai đoạn từ năm 1983 đến 1986 [5]. Thâm hụt
ngân sách và tỷ lệ lạm phát khá cao trong nửa đầu những năm 90 do sự thịnh vượng
kinh tế, đã dần hạ xuống từ năm 1996. Các yếu tố vĩ mô cơ bản (xem bảng 2), cùng
với việc không quy đổi của đồng tiền đã lý giải tại sao Trung Quốc không bị tác động
trực tiếp của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 giống như các nước
châu á khác.
Bảng 2: Một vài chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc
Đơn vị: %
Tỷ lệ tăng
trưởng
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998*
GDP thực 3.84 9.19 14.24 13.49 12.66 10.55 9.54 8.80 7.80
Lạm phát 3.06 3.54 6.34 14.60 24.20 16.90 8.30 2.80 -0.90
Xuất khẩu 19.20 14.36 18.07 8.76 35.56 24.91 17.93 20.91
Nhập khẩu -13.28 18.47 28.32 34.06 10.38 15.52 19.52 3.73
*: cho đến tháng 11/ 1998
Nguồn: J.Lim, “Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc và hệ luỵ của nó đối với ASEAN” – Báo
cáo nghiên cứu của Hệ thống các trung tâm nghiên cứu APEC của Philippines (PASCN), 2001.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 11 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Từ bảng trên có thể thấy tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc tăng khá đều
qua các năm, bình quân đạt 7 – 8%/ năm, đặc biệt vào năm 1997 – 1998, trong khi các
nước Châu á đang điêu đứng vì khủng hoảng thì Trung Quốc vẫn duy trì được tốc độ
tăng trưởng cao và ổn định. Xuất khẩu và nhập khẩu đều có sự tăng trưởng theo
hướng cán cân thương mại ngày càng nghiêng về phía xuất khẩu. Cùng với sự tăng
trưởng cao của GDP và ngoại thương, tốc độ lạm phát cũng được điều tiết khá hiệu
quả, giảm dần qua các năm, cho thấy chính sách quản lý vĩ mô của Trung Quốc rất
tốt. Tính chung trong cả giai đoạn kể từ khi bắt đầu thực hiện chính sách cải cách và
mở cửa vào năm 1978 đến năm 2001, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Trung
Quốc là 9.3%/ năm, và tăng trưởng thương mại đạt 15%/ năm. Nói cách khác, trong
23 năm qua, GDP và ngoại thương của Trung Quốc đã tăng tương ứng 8 và 25 lần [6].
Dự trữ ngoại tệ năm 2001 vượt 250 tỷ USD, đứng thứ hai trên thế giới. Cơ cấu ngành
nghề biến đổi nhanh: tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn 15% trong GDP, dịch vụ đã lên tới
33.6%; dự trữ lương thực, dầu thô tăng đáng kể [7]. Hiện nay, Trung Quốc đã trở
thành nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới tính theo tỷ giá hối đoái chính thức, và lớn thứ 2
nếu tính theo sức mua [6]. Nhờ kinh tế tăng trưởng nhanh, Trung Quốc đã giảm mạnh
được số người sống dưới ngưỡng nghèo đói. Đồng thời, Trung Quốc đã không chỉ
phát triển được nền kinh tế của mình mà còn có nhiều đóng góp đối với các nền kinh
tế Châu á. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á 1997, Trung Quốc
đã không phá giá đồng NDT và do vậy đã giúp các nước bị ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tránh được tình trạng phá giá để cạnh tranh, phần nào giúp các nước
nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng.
Bước sang năm 2002, một năm sau khi Trung Quốc chính thức gia nhập WTO,
mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều nhân tố bất lợi cho sự phát triển nhưng nền
kinh tế Trung Quốc vẫn có một năm đầy sức sống với những thay đổi tích cực của đầu
tư, tiêu dùng và xuất khẩu (xem biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Tốc độ tăng trưởng các chỉ số kinh tế vĩ mô của Trung Quốc năm 2002
Đơn vị: %
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 12 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
1.1
8.0
8.7
17.6
30.0
S¶n lîng
l¬ng thùc
GDP FDI XuÊt khÈu Dù tr÷
ngo¹i tÖ
Nguồn: Cục Thống kê Trung Quốc (NBS) [8].
Từ biểu đồ trên có thể thấy, mức tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 đạt
8%, cao hơn so với mức dự báo đầu năm là 7% và mức tăng 7.3% của năm 2001. Đặc
điểm của sự tăng trưởng kinh tế Trung Quốc năm 2002 là mức tăng trưởng GDP theo
quý khá đều đặn: quý I tăng 7.6%; quý II tăng 8%; quý III tăng 8.1%. Tổng GDP
trong cả năm đạt 10,000 tỷ NDT, tương đương 1,248 tỷ USD [8].
Cùng với sự tăng trưởng của GDP, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc
năm 2002 cũng tăng gấp khoảng 30 lần so với cách đây 24 năm, khi nước này bắt đầu
cải cách và mở cửa. Năm 1978, kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc đạt 20.6 tỷ
USD, đứng thứ 32 trong danh sách ngoại thương toàn cầu. Năm 2001, với 509.8 tỷ
USD, Trung Quốc trở thành nước buôn bán lớn thứ 6 trên thế giới. Sau một năm gia
nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc năm 2002 tăng 22.3% so với năm
trước, đạt 325.57 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngưỡng 300 tỷ USD. Tổng kim ngạch
ngoại thương năm 2002 đạt 620.79 tỷ USD, tăng 17.6%, xếp hàng thứ 5 thế giới;
trong đó thặng dư mậu dịch là 30.35 tỷ USD, tăng 34.6 %, mức cao nhất trong 4 năm
qua [9].
Thu hút vốn FDI tăng bình quân 14.2%/ năm, liên tục 9 năm liền đứng hàng
đầu các nước đang phát triển, đã có 400 trên tổng số 500 công ty hàng đầu thế giới đặt
cơ sở tại Trung Quốc [7]. Trong những năm 1980, FDI vào Trung Quốc chỉ là 2 – 3 tỷ
USD/ năm. FDI chỉ bắt đầu tăng mạnh từ những năm 1992 – 1993, Trung Quốc trở
thành nước tiếp nhận FDI lớn nhất trong số các nước đang phát triển (tham khảo Phụ
lục 3). Năm 2002, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8.7%, lần đầu tiên vượt Mỹ, đạt
mức kỷ lục 52.7 tỷ USD, Trung Quốc trở thành nước tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 13 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
ngoài nhiều nhất thế giới. Tính trung bình cả giai đoạn, Trung Quốc thu hút khoảng
45 tỷ USD vốn/ năm, đứng đầu trong các nước đang phát triển và đứng thứ hai thế
giới, chỉ sau Mỹ [6].
Sự tăng trưởng liên tục của xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đem lại
cho Trung Quốc một nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào. Tính đến cuối năm 2002, dự trữ
ngoại hối của Trung Quốc đạt 274 tỷ USD, tương đương tổng giá trị nhập khẩu của cả
nước trong 10 tháng, tăng xấp xỉ 30% so với mức 212.1 tỷ USD vào cuối năm 2001
[8]. Tính trung bình trong thời gian 5 năm (1997 – 2002), dự trữ ngoại tệ của Trung
Quốc đã tăng 104.7%, từ 139.9 tỷ USD lên tới 286.4 tỷ USD, đưa nước này trở thành
nước có mức dự trữ ngoại tệ lớn thứ hai trên thế giới, sau Nhật Bản [10]. Nguồn dữ
trữ ngoại tệ lớn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với một quốc gia đang phát triển
như Trung Quốc, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi tỷ giá hối đoái của đồng NDT
trên thị trường thế giới rất thấp và không thể chuyển đổi thành vàng được.
Bên cạnh đó, nợ nước ngoài của Trung Quốc tiếp tục giảm. Tính đến cuối
tháng 6/ 2002, số dư nợ đứng ở mức 160 tỷ USD. Số tiền gửi tiết kiệm của cư dân vào
cuối tháng 10/ 2002 đạt 9,200 tỷ NDT (tương đương 1,100 tỷ USD). Tiền gửi của cư
dân tăng do thu nhập tăng nhanh: mức GDP bình quân theo đầu người của Trung
Quốc tăng từ 787 USD năm 1999 lên 853 USD năm 2000 và đạt 961 USD năm 2002
(tăng 6%) [8].
Cùng với Trung Quốc, các nước ASEAN cũng bắt đầu thực hiện việc nới lỏng
chính sách và các biện pháp tự do hoá trong những năm 1990. ASEAN là tổ chức đầu
tiên tại Đông á thực hiện các FTA khu vực, đầu tiên là dưới hình thức PTA rồi sau đó
là khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) để đáp lại các thách thức của các thị
trường đang được toàn cầu hoá nhanh chóng. Tuy khá toàn diện hơn so với PTA, song
bản chất tự nguyện của AFTA tiếp tục gạt ra ngoài những khu vực nhạy cảm về chính
trị như nông nghiệp và ô tô. Không có bước tiến hay mục tiêu cụ thể nào được đề ra
để đạt được ranh giới thời gian 15 năm của AFTA. So với những FTA khu vực khác,
như thoả thuận dày hơn 1000 trang của NAFTA, AFTA chỉ có 15 trang. Một số những
người chỉ trích ban đầu hoài nghi chủ trương “Nhất trí trước, đàm phán sau” (AFTA –
Agree first, Talk after) sẽ có hiệu quả; chỉ có ít người hy vọng vào thành công của
AFTA.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, AFTA đã chứng tỏ rằng, tuy khởi đầu uể oải,
song nó đã có thể và sẵn sàng thích nghi với nền kinh tế thế giới đang thay đổi liên tục
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 14 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
cũng như những tình huống nội bộ. AFTA trước tiên đã thay đổi tốc độ sau hai diễn
biến quan trọng bên ngoài: việc ký kết Thoả thuận chung về thuế quan và các vòng
đàm phán mậu dịch Uragoay năm 1993 và Tuyên bố Bogor năm 1994 về cam kết tự
do hoá thương mại và đầu tư của các nước thành viên APEC, lần lượt vào năm 2010
và 2020, cho các nền kinh tế phát triển và đang phát triển. ASEAN đã đẩy nhanh mục
tiêu thành lập AFTA từ ngày 1/ 1/ 2005 sang ngày 1/ 1/ 2003. Sự thay đổi tiếp theo là
sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Bất chấp những động cơ chính trị
mạnh mẽ đòi đảo ngược tiến trình tự do hoá, năm 1998, tổ chức đang phải vất vả để
đối phó với hậu khủng hoảng về kinh tế này vẫn thông qua một loạt biện pháp táo bạo,
trong đó có thoả thuận của 6 nước đầu tiên ký AFTA đẩy sớm lên một năm nhiều
khoản cắt giảm thuế quan trước đó đã được hoạch định vào năm 2003. Hơn nữa, 5
nước ASEAN gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan cùng ký
kết Hiệp định công nghệ thông tin (ITA) và vì thế có kế hoạch giảm thuế MFN đối
với một số mặt hàng có sự tăng trưởng nhanh nhất trong tổng thương mại của họ. Như
vậy, bức thông điệp của ASEAN gửi tới thế giới đầy quyết tâm và rõ ràng: họ muốn
thương mại tự do cả trong hoàn cảnh thuận lợi và khó khăn.
Sự quyết tâm đó của ASEAN đã đem lại những kết quả đáng kể. Mức thuế
quan trung bình giữa các nước ASEAN được giảm từ 111.4% năm 1993 xuống còn
3.2% năm 1998 [11]. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài ASEAN thu hút trong giai đoạn
này đạt 132 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài vào ASEAN năm 2000 đã tăng 30% so với
năm 1999, từ 21.8 tỷ USD lên 28.4 tỷ USD [12] (tham khảo thêm Phụ lục 3).
Cùng với triển vọng về đầu tư bước đầu được cải thiện, thương mại của
ASEAN năm 2000 cũng tăng 19.9% với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 423.6 tỷ USD
so với 353.3 tỷ USD của năm 1999; tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 22.8%, đạt 360.1
tỷ USD so với 293.1 tỷ USD của năm 1999 (xem bảng 3). Xuất khẩu trong nội bộ
ASEAN tăng 27%, đạt 97.8 tỷ USD năm 2000 [11].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 15 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Bảng 3: Tổng giá trị ngoại thương của ASEAN (1999 – 2000)
Đơn vị: triệu USD
Nước (*)
Xuất khẩu Nhập khẩu
1999 2000
Sự thay đổi
Giá trị %
1999 2000
Sự thay đổi
Giá trị %
Bruney 2,240.7 2,169.1 -71.6 -3.2 1,720.4 1,067.6 -652.8 -37.9
Indonesia 48,665.5 62,124.0 13,458.5 27.7 24,003.3 33,514.8 9,511.5 39.6
Malaysia 84,287.9 98,154.5 13,866.6 16.5 63,677.8 79,647.5 15,969.7 25.1
Myanmar 738.0 1,193.8 455.8 61.8 1,883.0 2,219.4 336.4 17.9
Philippines 35,036.9 38,078.2 3,041.3 8.7 30,742.5 31,387.4 644.9 2.1
Singapore 114,625.1 138,352.5 23,727.4 20.7 110,998.0 134,680.1 23,682.1 21.3
Thái Lan 56,110.9 69,254.1 13,143.2 23.4 48,318.0 61,905.8 13,587.8 28.1
Việt Nam 11,541.0 14,308.0 2,767.0 24.0 11,742.0 15,635.0 3,893.0 33.2
Tổng 353,346.0 423,634.0 70,288.0 19.9 293,085.0 360,057.6 66,972.6 22.9
(*): Thiếu số liệu của Campuchia và Lào
Nguồn: Hội nghị lần thứ 15 của Hội đồng AFTA về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN, tháng 9/
2001 (bản tiếng anh), Ban thư ký ASEAN (www.aseansec.org).
Mặc dù năm 2000 thương mại của ASEAN tăng trưởng rất khả quan so với thời
kỳ khủng hoảng năm 1997 song bước sang năm 2001, do ảnh hưởng của khủng hoảng
kinh tế ở Mỹ và EU cũng như sự suy thoái của cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản,
xuất khẩu của ASEAN năm 2001 giảm xuống còn 366.8 tỷ USD [13].
Năm 2002, mặc dù kinh tế thế giới phục hồi chậm chạp nhưng các nền kinh tế
ASEAN vẫn đạt mức tăng trưởng khá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng phát triển
Châu á (ADB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tăng trưởng kinh tế của toàn khu vực
Đông Nam á là 4.1%, tăng khoảng 2 lần so với mức tăng 2% của năm 2001 và gần đạt
mức tăng 4.6% của năm 2000 [8] (xem biểu đồ 2).
Cùng với sự tăng trưởng của GDP, năm 2002, tổng kim ngạch xuất khẩu của
các nước ASEAN cũng tăng 2.9%, đạt trên 381 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu
tăng 2.5%, đạt trên 325 tỷ USD. Riêng quý I/ 2003, tổng xuất khẩu tăng gần 15.7% so
với cùng kỳ năm 2002, đạt 86.76 tỷ USD [14].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 16 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Biểu đồ 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2002 của các nước ASEAN
Đơn vị: %
2.8
4.1
4.0
5.1
5.5
2.4
3.7
7.1
3.0
3.6
0 1 2 3 4 5 6 7 8
ThÕ giíi
ASEAN
Malaysia
Th¸i Lan
Campuchia
Singapore
Philippine
ViÖt Nam
Bruney
Indonesia
Nguồn: ADB; IMF World Economic Outlook, 2002.
Thương mại nội khối ASEAN cũng có xu hướng tăng. Tuy xuất khẩu nội khối
trong 3 quý đầu năm 2002 giảm 1.5% và nhập khẩu nội khối tăng 3% [13] song sự
tăng trưởng mạnh của thương mại nội khối trong quý 4 đã làm thay đổi cả diện mạo
của ngoại thương ASEAN năm 2002. Xuất khẩu nội khối trong cả năm tăng 2.2%, đạt
86.34 triệu USD và nhập khẩu nội khối tăng 8.1%, đạt 73.12 triệu USD [14].
Trong các đối tác thương mại của ASEAN, Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc
(bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc là các thị trường xuất khẩu lớn nhất của
ASEAN. Về nhập khẩu thì Nhật Bản là nước nhập nhiều nhất từ ASEAN, sau đó đến
Mỹ, EU, Trung Quốc (bao gồm cả Hồng Kông) và Hàn Quốc. Trong 3 quý đầu năm
2002, xuất khẩu của ASEAN sang Mỹ, EU và Nhật Bản giảm đi trong khi xuất khẩu
sang Trung Quốc và Hàn Quốc lại tăng lên rất cao, lần lượt là 18.7% và 3.3% [13],
cho thấy vai trò của Trung Quốc nói riêng và Đông á nói chung đối với ngoại thương
của ASEAN ngày càng được nâng cao.
1.1.3. Những thành tựu hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc
1.1.3.1. Hợp tác về thương mại:
Trung Quốc coi việc củng cố quan hệ hợp tác thương mại và kinh tế là một
kênh quan trọng cho việc duy trì hoà bình và an ninh trong khu vực. Do vậy, Trung
Quốc đã và đang tích cực tham gia vào tất cả các hình thức hợp tác kinh tế khu vực và
nỗ lực nhằm mở những hướng hợp tác khu vực mới với các nước ASEAN. Gần đây,
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 17 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
ASEAN và Trung Quốc đã dành được tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện các
chương trình hợp tác trên các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là thương mại quốc tế, một
động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế của cả hai bên.
Bảng 4: Thương mại song phương giữa ASEAN và Trung Quốc
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
Tổng
kim
ngạch
thương
mại
Xuất
khẩu
của
Trung
Quốc
sang
ASEAN
Nhập
khẩu
của
Trung
Quốc
từ
ASEAN
Tốc độ tăng trưởng (%)
Tổng Kim
ngạch
thương
mại
Xuất
khẩu
sang
ASEAN
Nhập
khẩu
từ
ASEAN
Thị phần của
ASEAN
trong
thương mại
của Trung
Quốc
Thị phần
của Trung
Quốc trong
thương mại
của ASEAN
1991 7.96 4.14 3.82 19.6 10.6 29.3 5.8 2.1
1992 8.47 4.26 4.21 6.4 3.0 9.9
1993 10.68 4.68 6.00 2.1 9.8 42.5
1994 13.21 6.38 6.83 23.5 36.2 13.6
1995 18.44 9.04 9.40 39.4 41.6 37.4
1996 20.40 9.70 10.70 4.6 -0.5 9.8
1997 24.36 12.03 12.33 19.4 24.0 15.2
1998 23.48 10.92 12.56 -6.2 -13.6 1.2
1999 27.04 12.17 14.87 14.9 11.1 18.2
2000 39.52 17.34 22.19 46.2 42.5 49.2 8.3 3.9
2001 41.61 18.39 23.22 5.3 6.0 4.7
Nguồn: Tổng cục Hải quan Trung Quốc [16].
Bảng 4 cho thấy bình quân hàng năm từ năm 1995 đến nay, kim ngạch ngoại
thương của Trung Quốc và ASEAN tăng 15%/ năm. Khối ASEAN đã trở thành đối
tác thương mại lớn thứ 5 của Trung Quốc (sau Nhật Bản, Mỹ, EU và Hàn Quốc)
(tham khảo thêm Phụ lục 4) và Trung Quốc đã trở thành thị trường lớn thứ 6 của khối
ASEAN [15]. Vào năm 2000, thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc đạt con số kỷ
lục là 39.5 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng là 45,3%.
Sang năm 2001, trong bối cảnh kinh tế thế giới tăng trưởng chậm, thương mại
giữa hai bên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng. Thương mại song phương tăng
5.3%, đạt 41.6 tỷ USD; trong đó xuất khẩu của Trung Quốc sang ASEAN tăng từ 4.1
tỷ USD năm 1991 tới 18.4 tỷ USD năm 2001 và nhập khẩu của Trung Quốc từ
ASEAN tăng từ 3.8 tỷ USD lên 23.2 tỷ USD trong cùng thời gian đó [16] (tham khảo
thêm Phụ lục 5). Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch thương mại song phương, cơ
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 18 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
cấu thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã được cải thiện từng bước với tỷ trọng
các sản phẩm mới và công nghệ cao tăng dần. Năm 2001, Trung Quốc đã xuất khẩu
4.7 tỷ USD sản phẩm công nghệ cao sang ASEAN và nhập 797 triệu USD sản phẩm
công nghệ cao từ ASEAN [15].
Năm 2002, theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu giữa Trung Quốc với ASEAN đã đạt 54.77 tỷ USD, tăng 31.7% so với năm
2001, chiếm 8.8 % tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc (tỷ lệ này năm 1991
chỉ đạt 5.85%) [17]. Cũng trong năm này, Trung Quốc đã tuyên bố thi hành Kế hoạch
giảm nợ cho Châu á, theo đó sẽ giảm hoặc xoá nợ cho 6 nước Châu á, trong đó có
Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam. Điều này là minh chứng rõ ràng cho cơ sở
và tiềm năng của sự hợp tác trong tương lai.
Trong 6 tháng đầu năm 2003, theo số liệu thống kê của Bộ thương mại Trung
Quốc (MOC) công bố ngày 17/ 8/ 2003, kim ngạch buôn bán giữa ASEAN và Trung
Quốc đạt 34.24 tỷ USD, tăng 45.3% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó xuất khẩu từ
ASEAN sang Trung Quốc đạt 20.47 tỷ USD, tăng 55.5% và xuất khẩu của Trung
Quốc sang ASEAN đạt 13.77 tỷ USD, tăng 32.4%. Cũng theo dự kiến của MOC, kim
ngạch buôn bán ASEAN - Trung Quốc cả năm nay sẽ đạt hơn 70 tỷ USD [18].
1.1.3.2. Hợp tác về đầu tư:
i. Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc:
Biểu đồ 3: Đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2001
Đơn vị: Tỷ USD
0.9
2.7
10.0
18.6
26.2
31.8
34.2
42.2
32.9
28.0
30.0
0.0
5.0
10.0
15.0
20.0
25.0
30.0
35.0
40.0
45.0
Tû
USD
91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01
N¨m
Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 19 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Từ biểu đồ 3 có thể thấy ASEAN là một nguồn quan trọng cung cấp FDI cho
Trung Quốc. Từ năm 1991 đến 2000, đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc tăng trung
bình 28%/ năm. Năm 1991, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc chỉ là 90 triệu USD
trong khi con số này đạt 4.2 tỷ USD năm 1998. Do cuộc khủng hoảng kinh tế, đầu tư
của ASEAN ở Trung Quốc giảm xuống 3.3 tỷ USD và 2.8 tỷ USD vào năm 1999 và
2000 [16].
Nhờ vào sự phục hồi kinh tế, đầu tư của ASEAN ở Trung Quốc ngày một tăng.
Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC), vào
cuối năm 2001, tổng đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc bao gồm 17.972 dự án với
giá trị cam kết là 53.5 tỷ USD (chiếm 7.2% tổng FDI vào Trung Quốc), và giá trị giải
ngân là 26.2 tỷ USD (6.1% tổng FDI của Trung Quốc) [16] (tham khảo Phụ lục 6).
Tính đến cuối năm 2002, các nước ASEAN đã có 19,731 dự án đầu tư tại Trung Quốc
với tổng giá trị 58.09 tỷ USD [18].
Bảng 5: Đầu tư của từng nước ASEAN vào Trung Quốc
(tính đến cuối năm 2000)
Nước Số dự án
Giá trị cam kết
(triệu USD)
Giá trị thực hiện
(triệu USD)
Singapore 9,122 35,381 16,992
Malaysia 2,031 4,936 2,203
Indonesia 760 1,591 837
Thái Lan 2,880 4,971 1,994
Philippine 1,369 2,564 1,029
Việt Nam 373 375 86
Myanma 146 194 34
Campuchia 24 22 7
Bruney 14 36 4
Lào 14 25 5
FDI từ ASEAN
(đến hết năm 2000)
16,733 50,095 23,191
FDI từ ASEAN
(đến hết năm 2001)
17,972 53,468 26,175
Tổng FDI vào Trung
Quốc (đến hết 2001)
390,025 745,391 395,223
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 20 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16].
Bảng trên cho thấy trong số các nước ASEAN, Singapore là nước đầu tư vào
Trung Quốc lớn nhất, chiếm tới gần 65% tổng FDI của cả ASEAN vào Trung Quốc
với số vốn FDI đạt 16.9 tỉ USD đến hết năm 2000, sau đó là Malaysia và Thái Lan
nhưng số FDI của hai nước này vào Trung Quốc kém hơn nhiều so với Singapore.
Các nước ASEAN còn lại có kim ngạch đầu tư vào Trung Quốc còn nhỏ, đặc biệt là
đầu tư của Campuchia, Myanmar, Lào,Việt Nam và Brunei hầu như không đáng kể.
Theo Bộ Thương mại Trung Quốc (MOC), trong thời gian từ đầu năm 2003
đến nay, một số nước thành viên ASEAN như Singapore, Malaysia, Thái Lan,
Indonesia và Philippines đã đầu tư vào 982 dự án ở Trung Quốc với tổng giá trị cam
kết là 2.82 tỷ USD [18].
ii. Đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN:
Về phía Trung Quốc, mặc dù đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN vẫn ở mức
thấp, chỉ đạt 135.8 tỷ USD năm 1999, chiếm gần 1% tổng FDI tại ASEAN (xem biểu
đồ 4), nhưng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN trong những năm gần đây đã tăng
nhanh với tốc độ trung bình 60%/ năm [19].
Biểu đồ 4: Tỷ lệ FDI từ Trung Quốc trong tổng FDI vào ASEAN
Đơn vị: %
0.45%
0.41%
0.15%
1.66%
0.92%
1995 1996 1997 1998 1999
Nguồn: Statistics of Foreign Direct Investment in ASEAN (Extended Data Set); ASEAN
Secretariat; World Investment Report 2001.
Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC),
tổng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN vào cuối năm 2001 bao gồm 740 dự án trị
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 21 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
giá 1.1 tỷ USD [16] và tính đến tháng 9/ 2002, Trung Quốc đã đầu tư vào 769 dự án ở
các nước ASEAN với tổng giá trị 690 triệu USD [17]. Trong thời gian 6 tháng đầu
năm 2003, Trung Quốc đã đầu tư vào 822 dự án của các nước ASEAN với tổng giá trị
cam kết là 1.37 tỷ USD [18].
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 22 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Trong số các nước ASEAN, nước tiếp nhận đầu tư nhiều nhất từ Trung Quốc là
Thái Lan (87.980 triệu USD), sau đó đến Campuchia, Singapore và Indonesia (xem
bảng 6). Đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam, Lào và Philippines còn rất thấp so với
các nước trong khu vực, đặc biệt là Philippines với 14.600 triệu USD; tuy vậy, nếu so
với tổng FDI vào mỗi nước thì FDI của Trung Quốc lại chiếm tỷ trọng khá cao.
Bảng 6: Đầu tư của Trung Quốc vào từng nước ASEAN
(Tính đến cuối năm 2000)
Đơn vị: triệu USD
Nước Số dự án Tổng đầu tư
Đầu tư từ
Trung Quốc
Tổng 692 892.800 458.660
Việt Nam 41 48.770 31.000
Lào 15 44.040 29.370
Campuchia 50 110.830 85.000
Myanmar 30 146.380 48.580
Thái Lan 219 201.050 87.980
Malaysia 92 69.340 33.900
Singapore 161 78.350 68.620
Indonesia 50 159.070 59.620
Philippines 34 34.980 14.600
Nguồn: Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC) [16].
Theo đà phát triển của kinh tế, cùng với việc nâng cao năng lực kinh doanh của
của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ về tài chính tiền tệ và chính sách của nhà nước
Trung Quốc, sẽ ngày càng có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư ra bên ngoài.
Theo dự tính của Uỷ ban phát triển mậu dịch Liên hợp quốc (UNCTAD), các doanh
nghiệp Trung Quốc đã trở thành một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất
trong các nước đang phát triển. Các nước ASEAN với vị trí địa lý láng giềng, với lịch
sử và văn hoá gần gũi với Trung Quốc, chắc chắn sẽ trở thành một trong những khu
vực chủ yếu đón nhận đầu tư từ các doanh nghiệp Trung Quốc.
1.1.3.3. Hợp tác Tiểu vùng Mekong
ASEAN và Trung Quốc đã và đang hợp tác chặt chẽ trong các chương trình và
dự án phát triển Mekong trong các khuôn khổ khác nhau như phát triển tiểu vùng
Mekong mở rộng (GMS), Hợp tác phát triển lưu vực Mekong ASEAN (AMBDC) và
Uỷ hội sông Mekong (MRC), trong đó phát triển tiểu vùng Mekong mở rộng là nội
dung hợp tác then chốt giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm giúp các bên đối tác khai
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 23 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
thác những tiềm năng kinh tế đa dạng của mình và phát triển kinh tế - xã hội trên cơ
sở bình đẳng, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi .
Trong 10 năm vừa qua, hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong đã đạt được nhiều
kết quả quan trọng. Đã có gần 100 [15] dự án về cơ sở hạ tầng được thực thi trong các
lĩnh vực then chốt như giao thông, năng lượng, viễn thông, môi trường, du lịch, phát
triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy phát triển thương mại và đầu
tư.
Năm 2001, tại hội nghị bộ trưởng lần thứ 10, các nước Tiểu vùng Mekong đã
thông qua chiến lược khung cho 10 năm tới của Chương trình hợp tác kinh tế Tiểu
vùng Mekong. Các nhà lãnh đạo hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mekong cũng đã xác nhận
lại kế hoạch hành động chiến lược bao gồm 11 chương trình chính trong các lĩnh vực
như các hành lang giao thông chính, các mạng lưới viễn thông, các mạng lưới điện,
đầu tư, thương mại và du lịch.
Tháng 11 năm 2002 đã diễn ra cuộc họp thượng đỉnh đầu tiên về việc tiếp tục
phát triển hợp tác Tiểu vùng Mekong. Tại cuộc họp này, Trung Quốc đã trình bày báo
cáo về việc tham gia của Trung Quốc vào việc phát triển lưu vực sông Mekong, trong
đó nêu khái quát các kế hoạch và dự án chủ yếu khai thác bồn địa Mekong của Trung
Quốc. Hợp tác tiểu vùng Mekong được đẩy mạnh sẽ có lợi cho các nước hữu quan
phát huy ưu thế riêng, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển nhanh, có lợi cho tiến trình
nhất thể hoá và rút ngắn khoảng cách giữa các nước ASEAN, thúc đẩy kinh tế Đông á
tăng trưởng liên tục.
1.1.3.4. Hợp tác tài chính tiền tệ:
Sau khủng hoảng tài chính Châu á năm 1997, các nước trong khu vực đã đánh
giá rất cao vai trò của hợp tác tài chính tiền tệ. Trong khuôn khổ 10 + 3 (ASEAN +
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), Trung Quốc và các nước ASEAN đã tiến hành
hàng loạt các biện pháp cụ thể để tăng cường hợp tác.
Trung Quốc đã tích cực thực hiện Sáng kiến Chiang - Mai và ký kết các hiệp
định song biên về hoán đổi tiền với Thái Lan và Malaysia. Từ năm 2001, Chính phủ
Trung Quốc đã tổ chức một số hội nghị mang tính kỹ thuật đối với các Ngân hàng
Trung ương của các nước 10 + 3 tại Bắc Kinh và Thượng Hải.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 24 -
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
1.1.3.5. Nông nghiệp:
Trong các năm qua, hợp tác nông nghiệp Trung Quốc - ASEAN đã có những
tiến triển tốt. Nhiều lớp đào tạo, hội thảo và hội nghị về công nghệ trong nông nghiệp
và đào tạo cán bộ đã được tổ chức tại Trung Quốc và các nước ASEAN. Ngày 2/ 11/
2002, Bản ghi nhớ về nông nghiệp Trung Quốc – ASEAN đã được ký kết. Bản ghi
nhớ đã tập trung vào hợp tác nông nghiệp trung hạn và dài hạn trong những lĩnh vực
như lúa lai, nghề cá và thủy sản, công nghệ sinh học, sản phẩm và máy nông nghiệp.
1.1.3.6. Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tạo nền tảng cho hợp
tác chung giữa ASEAN và Trung Quốc trong các lĩnh vực khác. Phát triển nguồn
nhân lực sẽ đem lại sự hiểu biết sâu sắc hơn giữa ASEAN và Trung Quốc thông qua
trao đổi và liên kết giữa các chuyên gia, quan chức. Năm 2001, Trung Quốc đưa ra đề
nghị 14 dự án [20] hợp tác trong các lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực. Hầu hết các
dự án này đã bắt đầu được thực hiện và đã cho kết quả khả quan. Năm 2002, Trung
Quốc đưa ra tiếp 7 đề nghị nữa [20]. Tất cả các đề nghị này đã được thông qua tại
cuộc gặp lần thứ 4 của Uỷ ban hợp tác chung ASEAN - Trung Quốc và hiện đang
được thực hiện.
1.1.3.7. Công nghệ thông tin và liên lạc (ICT)
Trong nền kinh tế tri thức, ICT đóng vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sản lượng
cao giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. ASEAN và Trung Quốc cho rằng hợp tác trong
lĩnh vực ICT cần được coi là một công cụ để rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế.
Một số dự án đã được xây dựng nhằm thúc đẩy trao đổi thông tin về xây dựng viễn
thông, luật lệ và quy định mạng, bảo mật thông tin. Bên cạnh đó, Trung Quốc luôn
ủng hộ và tham gia vào chương trình phát triển ASEAN điện tử (e-ASEAN). Trong
những năm tới, Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng cường hợp tác trong việc đào tạo công
nghệ thông tin cho nguồn nhân lực của các nước ASEAN và tích cực tham gia vào
việc phát triển những cơ sở hạ tầng cần thiết để hỗ trợ cho công nghệ thông tin ở các
nước ASEAN.
1.1.3.8. Giao thông vận tải:
Năm 2001, tại một loạt các hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 1, Cựu Thủ tướng
Trung Quốc Chu Dung Cơ đã đề nghị thành lập một cơ chế cho các cuộc gặp cấp bộ
trưởng giao thông vận tải để tăng cường liên lạc và điều phối.
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 25 -