Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm than của công ty cổ phần kinh doanh than cẩm phả vinacomin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (535.25 KB, 96 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó
được coi là động lực của sự phát triển không chỉ của mỗi cá nhân, mỗi doanh
nghiệp mà cả nền kinh tế nói chung. Mọi doanh nghiệp khi tham gia nền kinh tế thị
trường đều chịu tác động của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó có quy luật
cạnh tranh. Muốn đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp cần phải tận dụng
mọi nguồn lực của mình, nâng cao hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí, đáp ứng tốt
nhu cầu khách hàng… một cách tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Toàn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế đang mở ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách
thức. Do đó, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn đối với các
doanh nghiệp trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.
Hiện nay ngành than đang là một trong những ngành công nghiệp trọng điểm
của nước ta, bởi vì nó là ngành cung cấp nguyên liệu đầu vào cho hầu hết các ngành
khác, đặc biệt là điện, phân bón, giấy, xi măng – những ngành sử dụng nhiều than
nhất trong sản xuất, do đó nguồn cầu về than trên thị trường hiện đang là rất lớn.
Một lợi thế khác của ngành than là nhận được nhiều sự ưu đãi về thuế và các chính
sách của Chính phủ nên hoạt động của ngành này ít chịu rủi ro do biến cố của thị
trường tiền tệ.
Trước đây tất cả các doanh nghệp trong ngành than đều thuộc thẩm quyền
quản lý của Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam. Các doanh nghiệp này đều
được phân chia cụ thể vùng thị trường cả đầu vào lẫn đầu ra, và chỉ được hoạt động
trong vùng thị trường đó mà không lấn chiếm sang vùng thị trường khác, vì vậy mà
cạnh tranh trong ngành than hầu như là không có. Tuy nhiên trong vài năm gần đây,
ngành than thực hiện cơ chế quản lý mới, giao quyền tự chủ tài chính và tự do kinh
doanh cho các doanh nghiệp, Chính phủ cũng tiến hành định hướng cho các doanh
nghiệp tự tìm thị trường tiêu thụ cho mình nên trên thị trường than Việt Nam đã bắt
đầu xuất hiện sự cạnh tranh. Là một trong những công ty kinh doanh than trên thị
trường than Việt Nam hiện nay, Công ty Cổ phần Kinh doanh Than Cẩm Phả cũng


đang phải đương đầu với những áp lực cạnh tranh từ phía các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường. Muốn đứng vững được trên thị trường thì công ty phải trả lời được
một vấn đề cấp thiết đặt ra đối với công ty đó là làm thế nào để nâng cao năng lực
cạnh tranh sản phẩm than của công ty trên thị trường than Việt Nam.


2

Xuất phát từ việc phải trả lời vấn đề cấp thiết đó, tôi tập trung đi sâu vào
nghiên cứu đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm than của Công ty Cổ
phần Kinh doanh Than Cẩm phả - Vinacomin”. Hy vọng với những giải pháp của
đề tài này sẽ tiếp tục góp phần duy trì và nâng cao kết quả kinh doanh của Công ty
Cổ phần Kinh doanh Than Cẩm phả - Vinacomin.
2. Tổng quan nghiên cứu về đề tài
Tại Việt Nam, hiện có khá nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về năng
lực cạnh tranh và năng lực cạnh tranh sản phẩm được công bố dưới dạng sách, giáo
trình, luận văn và các bài viết đăng trên báo, tạp chí khoa học. Một số công trình
tiêu biểu như:
- Lê Lương Huệ (2011), Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công ty Map Pacific Việt Nam đến năm 2015, Luận văn thạc sỹ, trường Đại học
Lạc Hồng.
- Lưu Thị Thanh Thủy (2008), Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Thép Hòa Phát trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO, Chuyên đề thực
tập, trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
- Trần Quốc Hiếu (2012), Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của
Công ty Cổ phần Tập đoàn Tân Mai đến năm 2020, Luận văn thạc sỹ, trường Đại
học Lạc Hồng.
- Đỗ Thị Phương (2014), Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm phân bón
của công ty TNHH Baconco trên thị trường nội địa, Luận án tiến sĩ, trường Đại học
Thương Mại.

- Đào Thị Minh Châu (2014), Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm cơ khí của công ty TNHH nhà nước một thành viên xuất nhập khẩu sản phẩm
cơ khi, Luận văn tốt nghiệp, trường Đại học Thương Mại.
- Nguyễn Hóa (2003), Phân tích đánh giá khả năng cạnh tranh của một số
ngành công nghiệp chủ yếu của Việt Nam trong quá trình hội nhập, Đề tài khoa
học, trường Đại học Thương Mại.
- Nguyễn Thị Hạnh (2011), Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công
ty Cổ phần Lê Minh Trung, Luận văn tốt nghiệp, trường Đại học Thương Mại.
Tuy nhiên trong lĩnh vực kinh doanh than mới chỉ có rất ít tác giả quan tâm và
mới chỉ giải quyết ở một số khía cạnh trong phạm vi của Công ty Kinh doanh than
Hà Nội như đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho công


3

ty kinh doanh than Hà Nội”, Chuyên đề thực tập, trường Đại học Kinh tế Quốc dân,
tác giả là Vương Đình Phúc (2009). Ngoài ra chưa có công trình nào đề cập đến
việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm than của Công ty Cổ phẩn Kinh doanh
Than Cẩm Phả - Vinacomin. Do đó luận văn với đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh
tranh sản phẩm than của Công ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin”
là một nghiên cứu mới không trùng lặp với các nghiên cứu trước đây. Luận văn thể
hiện được một số điểm mới đó là:
- Đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tranh sản phẩm than đầu tiên tại Công
ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin.
- Đề xuất được một số giải pháp cụ thể phù hợp với bối cảnh thị trường than
Việt Nam hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là phân tích cụ thể năng lực cạnh tranh sản phẩm
than của Công ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin, trên cơ sở phân
tích đó để đề ra các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm than của công

ty một cách có hiệu quả, giúp công ty khai thác tối đa năng lực cạnh tranh sản phẩm
than của mình trong cuộc đua cạnh tranh khốc liệt trên thị trường than Việt Nam
hiện nay.
Mục tiêu cụ thể của đề tài:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh sản phẩm của công ty
kinh doanh.
- Đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh sản phẩm than của Công ty Cổ
phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản
phẩm than của Công ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các vấn đề về năng lực cạnh tranh sản phẩm than của
Công ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin tại thị trường Việt Nam.


4

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Xuất phát từ yêu cầu về thời gian, kinh phí và quy mô của vấn đề nghiên cứu,
đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những khía cạnh sau:
- Về không gian: đề tài nghiên cứu hoạt động kinh doanh sản phẩm than của
Công ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin và các đối thủ cạnh tranh
cùng kinh doanh sản phẩm than trên thị trường than Việt Nam.
- Về thời gian: số liệu phân tích thực trạng lấy từ năm 2011 đến 2013 và đưa
ra dự báo kiến nghị cho các vấn đề nghiên cứu đến năm 2020.
- Về nội dung:
o Đề tài nghiên cứu những cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của sản
phẩm.

o

Phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm than

của Công ty Cổ phẩn Kinh doanh Than Cẩm Phả - Vinacomin tại thị trường Việt
Nam trong thời gian qua từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh cho sản phẩm than của công ty tại thị trường Việt Nam trong thời gian
tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
5.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Nguồn thứ cấp:
- Thu thập tài liệu, số liệu từ các phòng ban chuyên môn của công ty: phòng
hành chính, phòng tài chính kế toán, phòng kỹ thuật, phòng vật tư…
- Các thông tin từ mạng Internet.
- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh định kỳ của công ty
- Các đề tài nghiên cứ khác có liên quan.
- Số liệu của tổng cục thống kê và các báo cáo của hiệp hội năng lượng Việt
Nam.
Nguồn sơ cấp: Thiết kế phiếu điều tra với dung lượng khoảng 3 trang, số
lượng từ 8 đến 10 câu hỏi xoay quanh hành vi tiêu dùng của khách hàng (đặc biệt là
các tổ chức) về sản phẩm than trong tương quan với đối thủ cạnh tranh. Chọn mẫu
ngẫu nhiên với quy mô là 30 đơn vị. Dữ liệu được thu thập bằng đường gửi thư tới
các khách hàng (đặc biệt là các tổ chức) trong danh sách mẫu.


5

5.2 Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng một số phương pháp: thống kê, so sánh,

tổng hợp từ những tài liệu thu thập được… sau đó dùng phần mềm Excel để xử lý
phân tích dữ liệu. Từ đó đánh giá thực trạng sức cạnh tranh của sản phẩm và đưa ra
nhận định làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp và kiến nghị.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao gồm
ba chương chính sau đây:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích thực trạng tại Công ty Cổ phần Kinh doanh Than Cẩm
phả - Vinacomin.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm than của
Công ty Cổ phần Kinh doanh Than Cẩm phả - Vinacomin.


6

CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Khái niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh
Thuật ngữ “Cạnh tranh” được sử dụng rất phổ biến hiện nay trong nhiều lĩnh
vực như: kinh tế, thương mại, luật, chính trị, quân sự, sinh thái, thể thao; thường
xuyên được nhắc tới trong sách báo chuyên môn, diễn đàn kinh tế cũng như các
phương tiện thông tin đại chúng và được sự quan tâm của nhiều đối tượng, từ nhiều
góc độ khác nhau, dẫn đến có rất nhiều khái niệm khác nhau về “cạnh tranh”, cụ thể
như sau:
Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì cạnh tranh là hành động
ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành
được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần

thưởng hay những thứ khác.
Theo K.Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được lợi nhuận siêu ngạch”. Nghiên cứu sâu về sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa và
cạnh tranh tư bản chủ nghĩa K.Marx đã phát hiện ra quy luật cơ bản của cạnh tranh tư
bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân, và qua đó hình thành
nên hệ thống giá cả thị trường. Quy luật này dựa trên những chênh lệch giữa giá cả chi
phí sản xuất và khả năng có thể bán hàng hóa dưới giá trị của nó nhưng vẫn thu được
lợi nhuận.
Theo Michael Porter thì: Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh
tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình
mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân húa lợi
nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm
đi (1980).
Theo từ điển kinh doanh (xuất bản năm 1992 ở Anh) thì cạnh tranh trong cơ
chế thị trường được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm giành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình”.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (tập 1) Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân,


7

các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm
dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vẫn là điều kiện và yếu tố
kích thích kinh doanh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng
năng suất lao động và sự phát triển của xã hội nói chung. Tóm lại, có thể hiểu Cạnh
tranh là sự ganh đua giữa những cá nhân, tập thể, đơn vị kinh tế có chức năng như
nhau thông qua các hành động, nỗ lực và các biện pháp để giành phần thắng trong

cuộc đua, để thỏa mãn các mục tiêu của mình. Các mục tiêu này có thể là thị phần,
lợi nhuận, hiệu quả, an toàn, danh tiếng...
Tuy nhiên, không phải tất cả các hành vi cạnh tranh đều là lạnh mạnh, hoàn
hảo và nó giúp cho các chủ thế tham gia đạt được tất cả những gì mình mong muốn.
Trên thực tế, đã có nhiều chủ thể đã sử dụng những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh để làm tổn hại đến đối thủ tham gia cạnh tranh với mình. Cạnh tranh không
mang ý nghĩa triệt tiêu lẫn nhau, nhưng kết quả của cạnh tranh mang lại là hoàn
toàn trái ngược.
Giống như bất kỳ sự vật hiện tượng nào khác, cạnh tranh cũng luôn tồn tại hai
mặt của một vấn đề: mặt tích cực và mặt tiêu cực. Ở khía cạnh tích cực, cạnh tranh
là nhân tố quan trọng góp phần phân bổ các nguồn lực có hạn của xã hội một cách
hợp lý, trên cơ sở đó giúp nền kinh tế tạo lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và hoạt
động có hiệu quả. Bên cạnh đó, cạnh tranh góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của khoa
học công nghệ, dẫn đến gia tăng năng suất sản xuất xã hội, sử dụng hiệu quả các
yếu tố sản xuất đầu vào nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu xã hội thông qua các sản
phẩm, dịch vụ chất lượng cao, giá thành hạ, mẫu mã đa dạng…
Ở góc độ tiêu cực, nếu cạnh tranh chỉ nhằm mục đích chạy theo lợi nhuận mà
bất chấp tất cả thì song song với lợi nhuận được tạo ra, có thể xảy ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho xã hội như môi trường sinh thái bị hủy hoại, nguy hại cho sức
khỏe con người, đạo đức xã hội bị xuống cấp, nhân cách con người bị tha hóa. Nếu
xảy ra tình trạng này, nền kinh tế quốc gia sẽ phát triển một cách lệch lạc và không
vì lợi ích của số đông.


8

1.1.2 Khái niệm năng lực cạnh tranh
Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm
1990. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là
doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả

thấp hơn các đối thủ khác trong nước và quốc tế. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa
với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập
cho người lao động và chủ doanh nghiệp”. Định nghĩa này cũng được nhắc lại trong
“Sách trắng về năng lực cạnh tranh của Vương Quốc Anh” (1994). Năm 1998, Bộ
Thương mại và Công nghiệp Anh đưa ra định nghĩa “Đối với doanh nghiệp, năng
lực cạnh tranh là khả năng sản xuất đúng sản phẩm, xác định đúng giá cả và vào
đúng thời điểm. Điều đó có nghĩa là đáp ứng nhu cầu khách hàng với hiệu suất và
hiệu quả hơn các doanh nghiệp khác”.
Theo từ điển Thuật ngữ chính sách thương mại (1997), theo đó, năng lực cạnh
tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về
năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như vậy mang tính chất định
tính, khó có thể định lượng.
Theo tác giả Lê Đăng Doanh trong tác phẩm Nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thời hội nhập: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng
khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho doanh nghiệp trong môi
trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”.
Theo tác giả Tôn Thất Nguyễn Thiêm trong tác phẩm Thị trường, chiến lược,
cơ cấu nêu lên tầm quan trọng của việc gia tăng giá trị nội sinh và ngoại sinh của
doanh nghiệp, đây chính là năng lực cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp cố gắng đạt
được, là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện các chiến lược kinh doanh của mình.
Ngoài ra không ít ý kiến đồng nhất năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với
năng lực kinh doanh. Như vậy, cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn
chưa được hiểu thống nhất. Từ những quan điểm trên, có thể đưa ra khái niệm năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp như sau: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở
rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tốt sản xuất nhằm
đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là toàn bộ những khả năng, năng lực
mà doanh nghiệp đó có thể duy trì vị trí của nó trên thị trường cạnh tranh một cách



9

lâu dài. Các doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh phải có những vị trí
nhất định, chiếm lĩnh những phần thị trường nhất định. Đây là điều kiện duy nhất
duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong thị trường. Để tồn tại, doanh nghiệp phải
luôn vận động, thích nghi và vượt trội hơn đối thủ. Chỉ có những doanh nghiệp có
khả năng cạnh tranh mới tồn tại lâu dài trên thị trường. Vì vậy trong môi trường
cạnh tranh doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, chỉ
có như vậy mới có chỗ đứng trên thị trường.
1.1.3 Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
(1) Năng lực cạnh tranh cấp quốc gia
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về năng lực cạnh tranh cấp quốc gia:
Theo Asia Development Outlook 2003, năng lực cạnh tranh quốc gia là khả
năng cạnh tranh của một nước để sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được
thử thách của thị trường quốc tế. Đồng thời, duy trì và mở rộng được thu nhập thực
tế của công dân nước đó. Mặt khác, năng lực cạnh tranh quốc gia phản ánh khả
năng của một nước để tạo ra việc sản xuất sản phẩm, phân phối sản phẩm và dịch
vụ trong thương mại quốc tế, trong khi kiếm được thu nhập tăng lên từ nguồn lực
của nó.
Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), thì “năng lực cạnh tranh của một quốc
gia là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì ở mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các thể chế và chính sách bền vững tương đối và các đặc
trưng kinh tế khác”. Như vậy năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu rằng là
việc xây dựng một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bổ có hiệu
quả các nguồn lực và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững. Năng lực của một nền
kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững cần thu hút được đầu tư, đảm bảo kinh tế xã
hội, nâng cao đời sống của người dân. Nói tới khả năng cạnh tranh của một nền
kinh tế của một quốc gia phải xem xét trên 3 mặt: khả năng cạnh tranh của từng
ngành, từng mặt hàng và loại hình dịch vụ; khả năng cạnh tranh của các doanh

nghiệp; khả năng cạnh tranh của cả quốc gia. Ba mặt trên gắn bó mật thiết với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau, không thể thiếu mặt nào.
(2) Năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh ngành (hay doanh nghiệp) là thể hiện thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi
của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của


10

doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là các
yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các tiêu chí về
công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt
mà cần đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động trong cùng một
lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu
bên trong doanh nghiệp được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách
tương ứng với các đối tác cạnh tranh.
Đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, nhờ có cạnh tranh mà
các doanh nghiệp này đã không ngừng nỗ lực, phấn đấu vươn lên trong mọi lĩnh
vực, từ việc giảm thiểu chi phí cho đến thực hiện các mục tiêu chung. Chính điều
này đã là động lực giúp doanh nghiệp vươn lên trong quá trình tồn tại. Tuy nhiên
trên thực tế, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả
những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và
có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp phải nhận biết được điều
này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất
những đòi hỏi của khách hàng. Những điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh
nghiệp được biểu hiện thông qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp
như marketing, tài chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, hệ thống thông tin…
(3) Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 317, tháng 10 năm 2004 của Tiến sỹ

Nguyễn Văn Thanh: “Năng lực cạnh tranh cấp sản phẩm được hiểu là khả năng sản
phẩm có được nhằm duy trì được vị thế của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh
tranh”. Năng lực cạnh tranh sản phẩm là khả năng đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng hơn hẳn so với những sản phẩm hàng hóa cùng loại. Hay có thể hiểu là khả
năng mà sản phẩm đó bán được nhiều và nhanh chóng trên thị trường có sản phẩm
tương tự. Khả năng đó được phản ánh qua các tiêu chí: giá cả, chất lượng, mẫu mã,
kiểu dáng cũng như sự độc đáo…
Một hàng hóa, dịch vụ được coi là có sức mạnh cạnh tranh cao khi chúng có
chất lượng vượt trội so với các hàng hóa cùng loại, cùng một mặt bằng giá hoặc có
chất lượng vượt trội độc đáo riêng có. Mặt khác giá bán của hàng hóa cũng có ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm chủ yếu do chi phí sản xuất quyết định.
Nếu mặt bằng chất lượng như nhau thì chỉ có doanh nghiệp quản lý tốt, sử dụng
công nghệ tiên tiến, lao động có tay nghề và khả năng sáng tạo cao… mới có thể
làm cho chi phí sản xauats trong đơn vị sản phẩm thấp, từ đó kéo giá xuống làm cho


11

sản phẩm có sức cạnh tranh. Ngoài ra, hình thức nhãn mác hấp dẫn, hợp thị hiếu,
quy cách sản phẩm thuận tiện cho tiêu dùng… cũng làm tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm. Tuy nhiên, do sự chi phối bởi lợi nhuận thu về từ sản xuất và bán hàng hóa,
dịch vụ nên chủ hàng hóa có thể coi chất lượng và chi phí chỉ là phương tiện để họ
đạt tới giá trị thặng dư, nên nếu không có sự kiểm tra, kiểm soát của người tiêu
dùng và sự bảo hộ của Nhà nước cho các quyền sở hữu thành quả lao động, cố gắng
hoặc tài năng dưới hình thức quyền sở hữu nhãn mác, bằng phát minh sáng chế…
thì trong thời đại khoa học tiên tiến như hiện nay, các chủ thể kinh tế có thể cạnh
tranh không chính đáng bằng ăn cắp công nghệ, sao chép “nhái” mẫu mã của người
khác.
Mối quan hệ giữa các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Giữa các cấp độ của năng lực cạnh tranh này tuy đứng độc lập nhưng có mối

quan hệ mật thiết với nhau, bổ trợ cho nhau. Cạnh tranh sản phẩm là cấp cơ bản
nhất thể hiện năng lực cạnh tranh về sản phẩm của một doanh nghiệp hay của một
quốc gia, là yếu tố cơ bản và cốt lõi tạo nên năng lực cạnh tranh ngành và năng lực
cạnh tranh quốc gia. Ngược lại năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ tạo điều kiện nâng
cao năng lực cạnh tranh ngành, và chính năng lực cạnh tranh ngành cao sẽ tạo động
lực phát triển sản phẩm, dịch vụ hay nói cách khác là nâng cao năng lực cạnh tranh
sản phẩm.
1.1.4 Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh tồn tại như một quy luật kinh tế khách
quan và do vậy việc nâng cao năng lực cạnh tranh để cạnh tranh trên thị trường luôn
được đặt ra đối với các doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu
rộng như hiện nay. Cạnh tranh ngày càng gay gắt khi trên thị trường ngày càng xuất
hiện nhiều các đối thủ cạnh tranh nước ngoài với tiềm lực mạnh về tài chính, công
nghệ, quản lý và có sức mạnh thị trường. Nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh
nghiệp là một đòi hỏi cấp bách để doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh một cách lành
mạnh và hợp pháp trên thương trường. Bởi vì nâng cao năng lực cạnh tranh có ý
nghĩa quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi lẽ suy cho cùng, mục đích
cuối cùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là mang lại càng nhiều lợi
nhuận, khi đó việc nâng cao năng lực cạnh tranh tại doanh nghiệp được xem như là
một chiến lược không thể thiếu trong định hướng phát triển và nó góp phần vào việc
hoàn thành mục tiêu của doanh nghiệp.


12

Ngoài việc nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ nhằm mục đích là đem lại
lợi ích cho doanh nghiệp, mà còn góp phần vào sự tăng trưởng của ngành và cả
quốc gia.
1.2 Phân định các nội dung cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của
doanh nghiệp.

1.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là toàn bộ những lợi thế của sản phẩm đó
như: chất lượng, giá cả, dịch vụ kèm theo và các chính sách kinh doanh của doanh
nghiệp đối với sản phẩm mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của sản phẩm trên thị
trường cạnh tranh.
Sản phẩm của doanh nghiệp tồn tại trong thị trường cạnh tranh phải có những
vị trí nhất định, phải chiếm lĩnh được một thị phần nhất định. Đây là điều kiện duy
nhất bảo đảm sự tồn tại của doanh nghiệp trong thị trường. Để tồn tại, doanh nghiệp
luôn phải vận động, thích nghi và có những chính sách về sản phẩm vượt trội hơn
so với đối thủ. Do hầu hết các thị trường được quốc tế hóa cho nên sản phẩm của
doanh nghiệp không những chỉ phải cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp
trong nước mà còn phải cạnh tranh với sản phẩm của các doanh nghiệp, đối thủ
cạnh tranh.
Hiện nay, còn nhiều quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh sản phẩm
của doanh nghiệp. Có quan niệm gắn năng lực cạnh tranh sản phẩm với ưu thế của
sản phẩm mà doanh nghiệp tung ra thị trường, nhưng có một số doanh nghiệp lại
gắn năng lực cạnh tranh sản phẩm với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có
thể nói năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp thể hiện sự so sánh với sản
phẩm của các đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng
để thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp.
1.2.2 Các công cụ cơ bản nâng cao cạnh tranh của sản phẩm
1.2.2.1 Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Đây là một công cụ cạnh tranh quan trọng trong các doanh nghiệp trên thị
trường hiện nay. Vì người tiêu dùng thường quan tâm đến chất lượng khi lựa chọn
một sản phẩm nào đó, họ sẵn sang trả giá cao hơn để có được một sản phẩm có chất
lượng tốt hơn. Chất lượng sản phẩm biểu hiện sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng
về sản phẩm, khi chất lượng sản phẩm ngày càng cao tức là mức độ thoả mãn nhu
cầu ngày càng lớn dẫn đến sự thích thú tiêu dùng sản phẩm ở khách hàng tăng lên,



13

do đó làm tăng khả năng thắng thế trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Thông
thường cạnh tranh về sản phẩm thường thể hiện chủ yếu qua những mặt sau:
Cạnh tranh về trình độ của sản phẩm: chất lượng của sản phẩm, tính hữu
dụng của sản phẩm, bao bì. Tùy theo những sản phẩm khác nhau để chúng ta có thể
lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau để có tính chất quyết định trình độ của sản
phẩm.
- Cạnh tranh về chất lượng: tùy theo từng sản phẩm khác nhau với các đặc
điểm khác nhau để ta lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm khác nhau.
Nếu tạo ra nhiều lợi thế cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành
thắng lợi cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh về bao bì: cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh
nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm cho phù hợp. Cơ cấu thường thay đổi
theo sự thay đổi của thị trường, đặc biệt là những cơ cấu có xu hướng phù hợp với
nhu cầu của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm: doanh nghiệp sử dụng công cụ
này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng.
- Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm: sử dụng biện pháp
này doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra một sản phẩm
mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
1.2.2.2 Cạnh tranh về giá
Giá bán là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sản phẩm mà người bán có thể dự
tính nhận được từ người mua thông qua sự trao đổi giữa các sản phẩm đó trên thị
trường. Giá bán là một công cụ cạnh tranh chủ yếu của các doanh nghiệp vì nó có
tác động lớn đến cạnh tranh khi doanh nghiệp bước vào một thị trường mới, hoặc
khi muốn tiêu diệt đối thủ cạnh tranh khác. Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng
trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch về giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh
tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối
thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so

với đối thủ cạnh tranh. Vì lẽ đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm
được lòng tin của người tiêu dùng và cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp
có vị trí cạnh tranh ngày càng cao.


14

Cạnh tranh về giá bán thường được thể hiện qua các chính sách định giá sau:
- Chính sách giá thấp: là chính sách định giá thấp hơn thị trường để thu hút
khách hàng về phía mình. Chính sách này đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực
vốn lớn, phải tính toán chắc chắn và đầy đủ mọi tình huống rủi ro có thể xảy ra đối
với doanh nghiệp khi áp dụng chính sách giá này.
- Chính sách giá cao: là chính sách định giá cao hơn giá thị trường hàng hoá.
Chính sách này áp dụng cho các doanh nghiệp có sản phẩm độc quyền hay dịch vụ
độc quyền không bị cạnh tranh.
- Chính sách giá phân biệt: Chính sách giá phân biệt của doanh nghiệp được
thể hiện là với cùng một loại sản phẩm nhưng có nhiều mức giá khác nhau và mức
giá đó được phân biệt theo các tiêu thức khác nhau.
- Chính sách phá giá: giá bán thấp hơn giá thị trường thậm chí thấp hơn giá
thành. Việc bán phá giá chỉ nên thực hiện trong một thời gian nhất định vì nó chỉ có
thể loại bỏ được đối thủ cạnh tranh nhỏ mà khó loại bỏ được đối thủ lớn.
1.2.2.3 Cạnh tranh về phân phối và bán hàng
Ngày nay có nhiều doanh nghiệp quan tâm đến hoạt động phân phối như một
biến số marketing tạo lợi thế cạnh tranh dài hạn cho doanh nghiệp trên thị trường.
Hoạt động phân phối giải quyết vấn đề hàng hoá dịch vụ được đưa như thế nào đến
người tiêu dùng. Nhờ có mạng lưới kênh phân phối sẽ khắc phục được những khác
biệt về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng.
Khi doanh nghiệp có một hệ thống phân phối hàng hoá tốt, tạo sự thuận tiện nhanh
chóng cho người tiêu dùng thì sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
mình trên thị trường rất nhiều. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần đẩy mạnh các

hoạt động bổ trợ bán hàng như tiếp thị, quảng cáo… để thu hút khách hàng.
Một số nội dung chính khi áp dụng công cụ cạnh tranh này:
Khả năng đa dạng hóa các kênh và chọn được kênh chủ lực: ngày nay các
doanh nghiệp thường có một cơ cấu sản phẩm rất đa dạng. Thích ứng với mỗi sản
phẩm đó có các biện pháp cũng như các kênh phân phối khác nhau. Việc phân định
đâu là kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quyết định trong việc tối thiểu hóa chi phí
dành cho tiêu thụ sản phẩm.
Tìm được những người điều kiện đủ mạnh: đối với các doanh nghiệp sử
dụng các đại lý độc quyền thì phải xem xét đến sức mạnh của các doanh nghiệp


15

thương mại làm đại lý cho doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có
vốn lớn và đủ sức chi phối được lực lượng bán hàng trong kênh trên thị trường.
- Có hệ thống bán hàng phong phú. Đặc biệt là hệ thống các kho, các trung
tâm bán hàng. Các trung tâm này phải có được cơ sở vật chất hiện đại.
- Có rất nhiều biện pháp để kết dính các kênh lại với nhau. Đặc biệt những
biện pháp quản lý người bán và điều khiển người bán đó.
- Có những khả năng hợp tác giữa người bán trên thị trường, đặc biệt là trong
các thị trường lớn.
- Có các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý.
o Tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất trong khi thanh toán.
o Có chính sách tài chính và tiền tệ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc mua bán với khách hàng.
o Có hệ thống thanh toán nhanh, hợp lý, đồng thời đảm bảo công tác
quản lý của doanh nghiệp.
o Có phương tiện bán hàng hiện đại tạo ưu thế cho khách hàng, đồng
thời cũng nắm được phản hồi của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác.
o Bảo đảm lợi ích của người bán và người mua. Thường xuyên cung

cấp các dịch vụ sau bán khi bán đặc biệt là những sản phẩm có thời hạn bảo hành.
1.2.2.4 Cạnh tranh về thời cơ thị trường
Doanh nghiệp nào dự báo được thời cơ thị trường và nắm được thời cơ thị
trường sẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Thời cơ thị trường thường xuất hiện do các
yếu tố sau:
Do sự thay đổi của môi trường công nghệ.
Do sự thay đổi của yếu tố dân cư, điều kiện tự nhiên.
Do các quan hệ tạo lập được của từng doanh nghiệp.
Cạnh tranh về thời cơ thị trường thể hiện ở chỗ doanh nghiệp dự báo được
những thay đổi của thị trường. Từ đó có các chính sách khai thác thị trường hợp lý
và sớm hơn các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, cạnh tranh về thời cơ thị trường
cũng còn thể hiện ở chỗ doanh nghiệp tìm ra được những lợi thế kinh doanh sớm và
đi vào khai thác thị trường và một loạt sản phẩm của doanh nghiệp cũng sẽ sớm bị
lão hóa. Yêu cầu này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thích ứng nhanh với những thay
đổi đó.


16

1.2.3 Các tiêu chí để đánh giá năng lực cạnh tranh sản phẩm
1.2.3.1 Nhóm tiêu chí chung
 Doanh thu, lợi nhuận của công ty trên thị trường
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hóa hoặc dịch vụ.
Lợi nhuận là khoản tiền thu về sau khi đã trừ đi chi phí. Bởi vậy mà doanh thu và
lợi nhuận có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh. Căn cứ vào
chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có thể đánh giá
được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng tốt hay xấu.
Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được hiệu quả hay
không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu đó. Nếu doanh thu
và chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng tốc độ tăng của doanh

thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được
đánh giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý yếu tốc chi phí.
 Thị phần và tốc độ tăng thị phần
Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh nghiệp chiếm giữ trong tổng
dung lượng thị trường.Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của
doanh nghiệp càng rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá
mức động hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp
có một mảng thị trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh
nghiệp một vị trí ưu thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị
trường nhỏ hẹp thì chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị
chèn ép bởi các đối thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể
đánh giá sơ bộ khả năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
1.2.3.2 Nhóm tiêu chí các yếu tố thuộc nội tại sản phẩm
 Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu tổng hợp bao gồm các chỉ tiêu: chỉ tiêu
kinh tế như chi phí sản xuất, chi phí đảm bảo chất lượng, chi phí môi trường và các
chỉ tiêu kỹ thuật như công dụng, thẩm mỹ, tiện dụng… Phần lớn các tiêu chuẩn này
được so sánh với các tiêu chuẩn của ngành, của quốc gia và của quốc tế. Chất lượng
góp phần làm tăng uy tín và danh tiếng cho doanh nghiệp điều này có tác động lớn
đến quyết định mua hàng của khách hàng. Chất lượng còn giúp nâng cao vị thế của


17

doanh nghiệp trên thương trường đây chính là cơ sở cho việc mở rộng thị trường
phát triển lâu dài với doanh nghiệp.
Nâng cao chất lượng là một giải pháp quan trọng thúc đẩy việc tăng khả năng
tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận từ đó góp phần vào việc phát triển
doanh nghiệp, là cơ sở để doanh nghiệp tự khẳng định mình, vươn ra thị trường
quốc tế.

 Mẫu mã, kiểu dáng và sự đa dạng của sản phẩm
Mẫu mã của sản phẩm phù hợp với sở thích của người tiêu dùng sẽ tạo ra được
lợi thế cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Thực tế cho thấy rằng nếu sản phẩm
có cùng chất lượng giá cả thì những sản phẩm nào có mẫu mã đẹp sẽ được tiêu thụ
nhiều hơn. Để có mẫu mã đẹp phù hợp các doanh nghiệp cần đầu tư cho các nghiên
cứu thị trường tìm hiểu thị hiếu và nhu cầu của khách hàng. Hiện nay thu nhập của
người dân ngày càng được cải thiện nhu cầu của họ về mẫu mã, kiếu dáng và sự đa
dạng của sản phẩm ngày càng tăng lên do đó các doanh nghiệp cần phải thực sự chú
ý tới điều này.
 Nhãn hiệu sản phẩm
Trong nền kinh tế thị trường yếu tố nổi bật nhất để đánh giá khả năng cạnh
tranh, uy tín của doanh nghiệp đó là nhãn hiệu sản phẩm. Một nhãn hiệu sản phẩm
hay và ấn tượng góp phần không nhỏ vào sự thành công của sản phẩm, nó giúp
phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh và là công cụ để doanh
nghiệp định vị sản phẩm trên thị trường mục tiêu. Khi thiết kế nhãn hiệu doanh
nghiệp phải xem xét đến các thành phần gồm: đặt tên sản phẩm, xây dựng biểu
tượng (logo), khẩu hiệu và hình ảnh cho nhãn hiệu. Đồng thời phải có chiến lược về
nhãn hiệu đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
 Nét nổi trội và khác biệt của sản phẩm
Hiện nay các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh rất gay gắt. Do đó
nếu sản phẩm không có gì khác biệt và nổi trội thì rất khó có thể cạnh tranh trên thị
trường. Vì vậy nét nổi trội và sự khác biệt của sản phẩm là một tiêu chí để đánh giá
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị
sử dụng cho người tiêu dùng hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm,
lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ.
 Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm
Khi đánh giá khả năng cạnh tranh của một sản phẩm không thể không nhắc
đến một nhân tố đó là các dịch vụ hỗ trợ sản phẩm. Trong thời đại ngày nay thì sản



18

phẩm đó sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Trong quá trình bán hàng thì khâu
quan trọng nhất đó là chào mời khách hàng thể hiện qua việc tôn trọng khách hàng.
Việc tiếp theo là doanh nghiệp cần tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất khi thanh
toán, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ vận chuyển, bảo hành, lắp đặt sửa
chữa… nhằm tạo sự tin tưởng và uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.
1.2.3.3 Nhóm tiêu chí các yếu tố bổ trợ cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm
 Giá cả sản phẩm
Ngày này để thu hút được khách hàng các doanh nghiệp thường xem xét hạ giá
thành sản phẩm. Tuy nhiên doanh nghiệp cần lưu ý giá thành ảnh hưởng trực tiếp
đến lợi nhuận. Một sản phẩm có mức giá thành thấp nghĩa là nó đã chủ động về giá,
sản phẩm đó có khả năng cạnh tranh cao, có vị thế trên thị trường đó là một yếu tố
quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài chỉ tiêu mức giá
người ta còn đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm thông qua sự linh hoạt của
giá bán với sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài.
 Phân phối sản phẩm
Thực tế cho thấy rằng, khách hàng bao giờ cũng muốn mua hàng ở những nơi
mà hình thức mua bán, hình thức thanh toán và vận chuyển tiện lợi nhất. Có mạng
lưới hệ thống kênh phân phối tốt giúp phần làm cho sản phẩm của doanh nghiệp
tiếp cận đúng nơi có nhu cầu một cách kịp thời yếu tố thời gian là một công cụ cạnh
tranh có hiệu quả của bất kỳ doanh nghiệp nào.
Để đánh giá năng lực cạnh tranh của sản phẩm thông qua hệ thống kênh phân
phối thường người ta hay đề cập đến số lượng kênh phân phối, địa điểm đặt các
kênh phân phối, mức độ trung thành của các trung gian phân phối với công ty và
khả năng liên kết giữa các kênh phân phối với nhau.
 Xúc tiến hỗn hợp
Xúc tiến hỗn hợp chính là hoạt động truyền thông tin sản phẩm đến khách
hàng thuyết phục họ mua hàng bằng nhiều cách khác nhau. Xúc tiến hỗn hợp gồm
có 5 công cụ đó là: quảng cáo, khuyến mại, bán hàng cá nhân, Marketing trực tiếp

và quan hệ công chúng.
Quảng cáo: Quảng cáo là một cách thức truyền tin nhằm gửi các thông điệp
của nhà sản xuất đến khách hàng nhằm định hướng và kích thích tiêu thụ hàng hóa
dịch vụ, nhờ quảng cáo mà khối lượng hàng hoá tiêu thụ được của doanh nghiệp
tăng lên… Quảng cáo được thực hiện thông qua các phương tiện chủ yếu như: báo


19

chí, radio, truyền hình, quảng cáo ngoài trời. thư trực tiếp, email, quảng cáo qua
Internet, quảng cáo qua các phương tiện vận tải...
Khuyến mại: là những khích lệ có tính ngắn hạn nhằm khuyến khích người
tiêu dùng hoặc trung gian dùng thử hoặc mua nhiều hơn nhờ cung cấp những lợi ích
bổ sung cho khách hàng. Các biện pháp khuyến mại chủ yếu là giảm giá, quà tặng,
trò chơi.
Quan hệ công chúng (PR) và tuyên truyền: bao gồm các hoạt động nhằm
xây dựng và duy trì các mối quan hệ tốt đẹp với các tầng lớp công chúng nhằm
tranh thủ sự ủng hộ của họ để nâng cao uy tín và thanh thế của doanh nghiệp trên
thị trường.
Bán hàng cá nhân: là hoạt động truyền thông trực tiếp nhằm giới thiệu,
thuyết phục khách hàng qua tiếp xúc trực tiếp giữa đội ngủ bán hàng và khách hàng
mục tiêu.
Marketing trực tiếp: Marketing trực tiếp là phương thức truyền thông trực
tiếp mà doanh nghiệp sử dụng để tiếp cận khách hàng mục tiêu dưới các hình thức
như thư chào hàng, phiếu đặt hàng, mua hàng, gửi phiếu thông qua thư tín, phone,
email, fax… mong muốn nhận được sự đáp ứng kịp thời. Hoạt động này giúp các
doanh nghiệp khá nhiều trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm.
 Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn

hàng, nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của
các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận… Nhưng để đạt được các mục
tiêu đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo được vị
thế của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy tín của
doanh nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì và phát
triển hoạt động kinh doanh, có hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp ứng đầy đủ
yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy tín của
doanh nghiệp đó là “con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó phải có
một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân viên giỏi
về tay nghề và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và nhiệt
tình trong công việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng.


20

Ngoài các tiêu chí kể trên thì còn rất nhiều tiêu chí khác có thể dùng để đánh
giá năng lực cạnh tranh cho sản phẩm như: vị thế tài chính của doanh nghiệp, năng
lực tổ chức và quản lý, năng lực nghiên cứu và phát triển…
1.3 Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh
nghiệp có thể phân ra làm 2 loại bao gồm các yếu tố bên ngoài và các yếu tố bên
trong.
1.3.1 Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
1.3.1.1 Các điều kiện yếu tố môi trường kinh tế xã hội
Phân tích các các yêu tố môi trường kinh tế xã hội sẽ giúp doanh nghiệp trả lời
câu hỏi: Doanh nghiệp đang trực diện với những gì? Nhằm giúp doanh nghiệp có
những quyết định phù hợp. Hay nói cách khác, mục đích của việc nghiên cứu môi
trường vĩ mô là nhằm phát triển một danh mục có giới hạn những cơ hội mang lại
lợi ích cho doanh nghiệp, cũng như các mối đe dọa của môi trường mà doanh
nghiệp cần phải né tránh. Các yếu tố môi trường kinh tế xã hội gồm có:

 Môi trường kinh tế
Các yếu tố kinh tế là những nhân tố quan trọng nhất của môi trường hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Nền kinh tế phát triển với tốc độ cao sẽ kéo theo sự
tăng thu nhập cũng như là khả năng thanh toán của người dân do vậy sức mua của
nhân dân cũng tăng lên. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ kéo theo sự
tăng lên một cách nhanh chóng số lượng các doanh nghiệp tham gia thị trường, và
như vậy mức độ cạnh tranh sẽ lại trở nên gay gắt. Trái lại, khi nền kinh tế đang
trong giai đoạn suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng làm cho giá cả sẽ tăng, sức mua của
người dân bị giảm sút, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để giữ khách hàng do đó
sự cạnh tranh trên thị trường cũng sẽ khốc liệt hơn.
Lãi suất ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Với mức lãi suất đi vay cao, chi
phí sản xuất của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên do phải trả lãi tiền vay lớn, do vậy
sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ bị giảm đi đặc biệt là đối với các đối thủ
có tiềm lực mạnh về tài chính. Các nhân tố lạm phát, tỷ giá hối đoái, các quan hệ
hợp tác kinh tế quốc tế… cũng ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh, sức
cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như là mức độ cạnh tranh trên thị trường.
 Môi trường văn hóa xã hội – nhân khẩu


21

Các giá trị văn hóa xã hội tạo nên nền tảng của xã hội, sở thích, thái độ mua
sắm của khách hàng. Bất kỳ sự thay đổi nào của các giá trị này đều ảnh hưởng đến
hiệu quả chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân khẩu bao gồm các yếu tố
như: dân số, cấu trúc tuổi, phân bố địa lý, phân phối thu nhập… tạo nên quy mô thị
trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải phân
tích chúng để tận dụng các cơ hội và giảm các nguy cơ.
 Môi trường khoa học công nghệ
Tiến bộ khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp áp dụng các thiết
bị hiện đại để sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, thu thập xử lý thông tin về

các đối thủ và thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay khi công cụ cạnh tranh chuyển từ
giá sang chất lượng thì các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao mới có sức cạnh
tranh cao. Sự ra đời của hàng vạn phát minh mới tạo cơ hội phát triển sản phẩm mới
nhưng cũng là mối đe dọa một khi các sản phẩm đang sản xuất rất nhanh trở nên lỗi
thời. Đây là tiền đề mà các doanh nghiệp cần quan tâm để ổn định và nâng cao sức
cạnh tranh của mình.
Trình độ khoa học công nghệ quyết định đến 2 yếu tố cơ bản nhất, tạo nên sức
cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đó là: chất lượng và giá bán. Khoa học
công nghệ còn tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, khi trình độ khoa học
công nghệ thấp thì giá và chất lượng có ý nghĩa ngang bằng nhau trong cạnh tranh.
 Môi trường chính trị và pháp luật
Thể chế chính trị, hệ thống luật pháp rõ ràng, mở rộng và ổn định sẽ là cơ sở
đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh, cạnh
tranh lành mạnh và có hiệu quả. Ngược lại sẽ thành rào cản đối với họ. Chẳng hạn,
luật cạnh tranh và chống độc quyền, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều
kiện cạnh tranh, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc loại
thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay các chính sách của Nhà nước về xuất nhập
khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp sản xuất trong nước so với các doanh nghiệp sản xuất ở nước
ngoài. Do vậy doanh nghiệp cần phải quan tâm tới các chính sách của Nhà nước,
luật cạnh tranh, luật lao động hay luật bảo vệ môi trường…
 Môi trường tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất nước, vị trí địa lý
về việc phân bố vị trí địa lý của các tổ chức kinh doanh. Vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo
điều kiện khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường, giảm các chi phí thương


22

mại phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Với nhân tố tự nhiên là điều kiện tài nguyên

thiên nhiên, nếu tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp chủ động trong công tác cung ứng các yếu tố đầu vào, sản xuất hàng
hóa vật chất đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.3.1.2 Các yếu tố môi trường ngành
Các yếu tố môi trường ngành tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất và hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp. Phân tích các yếu tố môi trường ngành giúp
doanh nghiệp xác định được vị thế cạnh tranh trong ngành mà doanh nghiệp đang
hoạt động. Từ đó, đưa ra những chiến lược hợp lý nâng cao sức cạnh tranh cho
chính bản thân doanh nghiệp. Các yếu tố môi trường ngành gồm có:
 Đối thủ cạnh tranh
Doanh nghiệp luôn phải đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh. Vấn đề
quan trọng ở đây là không được coi thường bất kỳ đối thủ nào, nhưng cũng không
nên coi đối thủ là kẻ thù. Có thể nói rằng khi doanh nghiệp này với các doanh
nghiệp khác mới bắt đầu bước chân vào thị trường thì họ là những đồng nghiệp,
những đối tác để gây dựng thị trường, để hình thành nên một khu vực cung cấp
hàng hóa và dịch vụ cho khách hàng. Nhưng khi đó người khách hàng đầu tiên bước
vào khu vực thị trường này, thì họ sẽ trở thành đối thủ của nhau, họ tìm cách để lôi
kéo khách hàng về phía mình.
Trong những thời điểm và những giai đoạn khác nhau thường có những đối
thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị
trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, các doanh nghiệp thường thực
hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ
sung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản
phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt nổi trội hơn trên thị trường, doanh
nghiệp nên đề phòng và lường trước các đối tác làm ăn, các bạn hàng, bởi vì họ có
thể trở thành những đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn.
Nếu ở trong một thị trường kinh doanh nhất định, doanh nghiệp vượt trội lên
các đối thủ về chất lượng sản phẩm, về giá cả và chất lượng phục vụ thì doanh
nghiệp đó có khả năng cạnh tranh và sẽ có điều kiện để tiến xa hơn so với các đối

thủ.
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong các lực lượng tạo nên sức ép cạnh
tranh lớn đối với các doanh nghiệp cùng ngành. Các sản phẩm thay thế nó sẽ có ưu


23

thế hơn và sẽ dần thu hẹp thị trường của sản phẩm bị thay thế. Để khắc phục tình
trạng thị trường bị thu hẹp các doanh nghiệp phải luôn hướng tới những sản phẩm
mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã hay nói cách khác doanh
nghiệp phải luôn hướng tới khách hàng để tìm độ thỏa dụng mới.
 Khách hàng
Khách hàng là những người đang mua và sẽ mua hàng của doanh nghiệp. Đối
với doanh nghiệp khách hàng là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đối với sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tính chất quyết định của khách hàng thể
hiện ở các mặt sau:
Khách hàng quyết định hàng hóa của doanh nghiệp được bán theo giá nào;
phương thức bán hàng và phương thức phục vụ khách hàng do khách hàng lựa
chọn, vì trong nền kinh tế thị trường người mua có quyền lựa chọn theo ý thích của
mình và đồng quyết định phương thức phục vụ của người bán. Điều này cho thấy
tính chất quyết định của khách hàng làm cho thị trường chuyển từ thị trường người
bán sang thị trường người mua, khách hàng trở thành thượng đế. Do vậy doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố khách hàng, khách hàng có thể ganh đua
với doanh nghiệp bằng cách yêu cầu chất lượng sản phẩm cao hơn, hoặc ép giảm
giá xuống, mặt khác khách hàng còn làm cho các đối thủ cạnh tranh chống chọi lại
nhau và dẫn đến làm tổn hao đến làm tổn hao đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Nhóm khách hàng thường gây áp lực với doanh nghiệp là những nhóm khách hàng
tập trung và mua với khối lượng lớn.
Bên cạnh đó sự yêu cầu của khách hàng cũng sẽ gây áp lực làm tụt giảm khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này thể hiện ở chỗ nếu doanh nghiệp

không theo đuổi kịp những thay đổi trong nhu cầu của khách hàng thì họ sẽ có xu
hướng chuyển dịch sang những doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó có thể đáp
ứng đầy đủ nhu cầu của họ. Hiện tượng này dẫn đến lượng khách hàng sẽ giảm đi
và ngày một thưa dần nếu doanh nghiệp không kịp thời đáp ứng nhu cầu của họ. Và
như vậy sức cạnh tranh sẽ giảm sút. Điều đó chứng tỏ yếu tố khách hàng có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự tồn tại, vận hành và phát triển của doanh nghiệp.
 Nhà cung cấp
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng, nó đảm bỏa cho
hoạt động kinh doanh của donah nghiệp được tiến hành ổn định theo kế hoạch đã
định trước. Vấn đề đặt ra là yêu cầu của việc cung cấp phải đầy đủ về số lượng, kịp
thời về thời gian, đảm bảo về chất lượng và ổn định về giá cả. Mỗi sự sai lệch trong


24

quan hệ với nhà cung cấp đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, điều đó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm tính độc quyền và sức ép từ phía các nhà cung cấp, các doanh nghiệp
phải biết tìm đến các nguồn lực tin cậy, ổn định và giá cả hợp lý với phương châm
là đa dạng hóa các nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “không bỏ tiền vào một
ống”. Mặt khác trong quan hệ này doanh nghiệp nên tìm cho mình một nhà cung
cấp chính có đầy đủ sự tin cậy, nhưng phải luôn tránh sự lệ thuộc, cần phải xây
dựng kế hoạch cung ứng cho mình. Như vậy doanh nghiệp cần phải thiết lập mối
quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp để họ cung cấp đầy đủ về số lượng.
 Giới công chúng
Giới công chúng trực tiếp là một nhóm bất kỳ tỏ ra quan tâm thực sự hay có
thể quan tâm đến những tổ chức có ảnh hưởng đến những khả năng đạt tới những
mục tiêu đã đề ra. Doanh nghiệp thường hoạt động trong môi trường bao gồm
những giới công chúng cơ bản sau đây: giới tài chính, giới truyền thông đại chúng,
các nhóm công dân hành động… Như vậy, các doanh nghiệp cần để ý đến các thành

viên này để có thể tranh thủ được sự ủng hộ của họ nhằm góp phần nâng cao danh
tiếng và uy tín của doanh nghiệp.
 Trung gian Marketing
Các trung gian Marketing bao gồm các tổ chức dịch vụ, các doanh nghiệp khác
nhau và các cá nhân hỗ trợ cho doanh nghiệp tổ chức tốt việc đưa sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ của mình tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Các trung gian Marketing
sẽ thực hiện một loạt các hoạt động như: vận chuyển, lưu kho dự trữ, làm tăng giá
trị và phân phối hàng hóa một cách nhanh chóng, an toàn và hiệu quả góp phần làm
tăng uy tín và danh tiếng cho sản phẩm, tác động không nhỏ đến khả năng tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó việc lựa chọn và làm việc với các trung gian là
một công việc không đơn giản, nó sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp nâng cao hiệu quả
tiêu thụ sản phẩm, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và tiền qua đó nâng
cao được trình độ chuyên môn hóa.
1.3.2 Các yếu tố bên trong doanh nghiệp
 Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp
Tổ chức quản lý tốt trước hết là áp dụng phương pháp quản lý hiện đại đã
được doanh nghiệp của nhiều nước áp dụng thành công như phương pháp quản lý
theo tình huống, quản lý theo tiếp cận quá trình và tiếp cận hệ thống, quản lý theo


25

chất lượng như ISO 9000… Bản thân doanh nghiệp phải tự tìm kiếm và đào tạo cán
bộ quản lý cho chính mình. Muốn có được đội ngũ cán bộ quản lý tài giỏi và trung
thành, ngoài yếu tố chính sách đãi ngộ, doanh nghiệp phải định hình rõ triết ký dùng
người, phải trao quyền chủ động cho cán bộ và phải thiết lập được cơ cấu tổ chức
đủ độ linh hoạt, thích nghi cao với sự thay đổi.
 Nguồn nhân lực
Nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng tạo trong
mọi tổ chức. Trình độ nguồn nhân lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh

đạo, trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, trình độ tư tưởng văn hóa của
mọi thành viên trong doanh nghiệp. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản
phẩm có hàm lượng chất xám cao, thể hiện trong kết cấu kỹ thuật của sản phẩm,
mẫu mã, chất lượng… và từ đó uy tín, danh tiếng của sản phẩm sẽ ngày càng tăng,
doanh nghiệp sẽ tạo được vị trí vững chắc của mình trên thương trường và trong
lòng công chúng, hướng tới sự phát triển bền vững.
 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Trình độ máy móc, thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ tới khả năng
cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có hệ thống trang thiết bị
máy móc, công nghệ hiện đại thì các sản phẩm của doanh nghiệp nhất định sẽ được
bảo toàn về chất lượng khi đến tay người tiêu dùng. Có hệ thống máy móc hiện đại
sẽ thúc đẩy nhanh tiêu thụ hàng hóa, tăng nhanh vòng quay về vốn, giảm bớt được
khâu kiểm tra về chất lượng hàng hóa có được bảo đảm hay không. Nếu xét về công
nghệ máy móc có ảnh hưởng đến giá thành cảu sản phẩm và như vậy sẽ ảnh hưởng
đến giá bán của doanh nghiệp. Ngày nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp đang trở thành cuộc cạnh tranh về
trí tuệ, về trình độ công nghệ. Công nghệ tiên tiến không những đảm bảo năng suất
lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ mà còn có thể xác lập tiêu chuẩn
mới cho từng ngành sản xuất kỹ thuật. Mặt khác khi mà việc bảo vệ môi trường như
hiện nay đang trở thành một vấn đề của toàn cầu thì doanh nghiệp nào có trình độ
công nghệ cao thiết bị máy móc nhất định sẽ dành được ưu thế trong cạnh tranh.
 Khả năng tài chính
Vốn là tiền đề vật chất cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Bất
cứ hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xem xét tính toán
đến tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm lực lớn về tài
chính sẽ rất thuận lợi trong việc huy động vốn đầu tư, trong mua sắm đổi mới công


×