Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại công ty bảo hiểm dầu khí hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.78 KB, 67 trang )

Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

LUẬN VĂN CUỐI KHOÁ
Từ sau khi xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển mạnh mẽ. Cùng với việc mở cửa nền kinh tế, Việt Nam nhanh
chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới đang tiến theo hướng toàn cầu hoá ở
mức độ cao, các quan hệ thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng. Do đó,
hoạt động xuất nhập khảu ngày một gia tăng. Với ý nghĩa bảo hiểm là “tấm lá
chắn của nền kinh tế” thì bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu không chỉ là nhu
cầu mà đã trở thành một tập quán trong hoạt động ngoại thương. Mặt khác,
việc trao đổi buôn bán hàng hoá giữa các quốc gia hiện nay vẫn được vận
chuyển chủ yếu băng đường biển do những ưu thế của nó mang lại. Vì vậy,
việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là một yêu cầu quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh
nghiệp bảo hiểm nói riêng và trong toàn ngành bảo hiểm nói chung. Tuy nhiên
việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này trên thực tế ở các công ty bảo hiểm
Việt Nam còn hạn chế. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để triển khai nghiệp vụ
này một cách có hiểu quả, nâng cao được thị phần của nó trên thị trường bảo
hiểm? Mà một trong những khâu quan trọng, làm tiền đề cho các khâu còn lại
trong quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm và cũng là khâu quyết định đến
doanh thu bảo hiểm, đó chính là công tác khai thác bảo hiểm.
Nhận thức được vấn đề đó nên sau một thời gian thực tập tại PVI Hà Nội,
em đã quyết định chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác
khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn


1

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

đường biển tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Hà Nội ” làm đề tài luận văn cuối
khoá.

Luận văn được kết cấu theo 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu và công
tác khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Chương 2: Tình hình khai thác nghiệp cụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Hà Nội
Chương 3: Một số giải pháp đẩy mạnh công tác khai thác nghiệpvụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại PVI Hà Nội.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

2

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính


NỘI DUNG

Chương 1: Lý luận chung về bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu và công tác khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.1. Những lý luận cơ bản về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
1.1.1.1. Trên thế giới
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử từ lâu đời. Nó ra đời và phát triển
cùng với sự phát triển của hàng hoá và ngoai thương. Khoảng thế kỷ V trước
công nguyên, vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển.
Người ta biết tránh tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán
chuyên chở trên nhiều thuyền khác nhau. Đây có thể là hình thức sơ khai của
bản hiểm hàng hoá. Đến thế kỷ VII thương mại và giao lưu hàng hoá bằng
đường biển giữa các nước phát triển. Nhiều tổn thất lớn xảy ra trên biển vì
khối lượng và giá trị hàng hoá ngày càng gia tăng, cùng với những thiên tai,
tai nạn bất ngờ, cướp biển…đã làm cho giới thương nhân lo lắng. Để khắc
phục những tổn thất có thể xảy ra trong hành trình vận chuyển họ đã đi vay
vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp phải rủi ro gây tổn thất toàn
bộ thì các thương nhân được xoá nợ, còn nếu hành trình may mắn thành công
thì ngoài vốn vay họ còn phải trả cho chủ nợ một khoản tiền lãi với lãi suất rất
cao. Số tiền lãi suất này có thể được coi là hình thức ban dầu cảu phí bảo
hiểm. Năm 1182, ở Lomborde – Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá đã ra

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn


3

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

đời, trong đó người bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội
dung đã ghi trong đơn. T ừ đó, hợp đòng bảo hiểm, người bảo hiểm ra dời và
tồn tại với tư cách như một nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nước Ý, đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải
đã ra đời. Sự phát triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát
triển mạnh mẽ của bảo hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước, hiệp
ước quốc tế liên quan đến thương mại và hàng hải đã lần lượt ra đời như: Mẫu
hợp đòng bảo hiểm của Lloyd’s 1776 và Luật bảo hiểm Anh năm 1906, công
ước Bruxelle 1924, quy tắc Hague Visby 1968, công ước Ham burg 1978,
Incoterms 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000…
Nói về bảo hiểm hàng hải không thể không nói tới nước Anh và
Lloyd’s. Nước Anh là một trong những nước có sự phát triển hiện đại về
thương mại và hàng hải lớn nhất thế giới. Có thể nói lịch sử phát triển của
ngành hàng hải và thương mịa thế giới gắn liền với sự phát triển của nước
Anh, thế kỷ XVII nước Anh đã có nền ngoại thương phát triển với đội tàu
buôn mạnh nhất thế giới và đã trở thành trung tâm thương mại và hàng hải của
thế giới. Do đó, nước Anh cũng là nước sớm có những nguyên tắc, thể lệ hàng
hải và bảo hiểm hàng hải. Năm 1779,các hội viên của Lloyd’s đã thu thập tất
cả các nguyên tắc bảo hiểm hàng hải và quy thành một hợp đồng chung goi là
hợp đồng Lloyd’s. Hợp đồng này đã được Quốc hội Anh thông qua và đươc
sử dụng ở nhiều nước cho đên 1982. Từ ngày 1/1/1982, đơn bảo hiểm hàng

hải mẫu mới đã được hiệp hội bảo hiểm London thông qua và được sử dụng ở
hầu hết các nước trên thế giới hiện nay.
Hiện nay với xu thế toàn cầu hoá, hoạt động ngoại thương phát triển
mạnh mẽ giữa các quôc gia. Vì vậy, bảo hiêm hàng hoá xuất nhập khẩu không
những cần thiết đối với tất cả doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu mà đã
trở thành tập quán thương mại giữa các nước.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

4

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.1.2. Ở Việt Nam
Thời kỳ đầu, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc
Bộ Tài chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty bảo hiểm Việt Nam Nay là
Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam.
Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu cho công ty bảo hiểm nhân dân Trung Quổctong ttrường hợp mua
theo giá FOB, CF và bán theo giá CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiêm.
Từ năm 1965 – 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm
đối ngoại trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo
Việt có quan hệ tái bảo hiểm với Liên Xô, Ba Lan, Triều Tiên.
Năm 1965, khi bảo hiểm đi vào hoạt động, Bộ tài chính đã ban hành quy
tắc chung về bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển. Và sau đó, để
phù hợp với sự phát triển thương mại và ngành hàng hải của đất nước, Bộ tài

chính đã ban hành quy tắc chung mới – Quy tắc chung 1990 ( QTC 1990)
cùng với Luật hàng hải Việt Nam. Quy tắc chung này là cơ sở pháp lý chủ yếu
điều chỉnh các vấn đề về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
Hiện nay với sự góp mặt của hơn 50 công ty bảo hiêm trong đó 28 công
ty bảo hiểm phi nhân thọ, 11 công ty bảo hiểm nhân thọ, 1 công ty tái bảo
hiểm, 10 công ty môi giới, thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển với sự
cạnh tranh gat gắt giữa các công ty không chỉ trong nước mà còn với cả công
ty nước ngoài. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn là một
nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống nhưng còn nhiều tiềm năng đang chờ các
nhà bảo hiểm khai thác.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

5

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.2. Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển
1.1.2.1. Khái niệm
Bảo hiểm là phương pháp chuyển giao rủi ro được thực hiện qua hợp
đồng bảo hiểm trong đó bên mua bảo hiểm chấp nhận trả phí bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm và cam kết bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm. Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thì

bên mua bảo hiểm có thể là người mua hoặc người bán tuỳ theo điều kiện
thương mại và điều kiện cơ sở giao hàng quy định trong hợp đồng mua bán
mà hai bên đã thoả thuận.
1.1.2.2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển.
Ngành bảo hiểm ra đời do xó sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con
người không thể khống chế được. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có
các khoản bù đắp thiệt hại kịp thời cảu các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi
ro mang tính thảm họa gây ra tổn thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất
nhiều khó khăn về tài chính trong việc khắc phục hạu quả do các rủi ro đó gây
ra. Vì vậy, sự ra đời và việc tham gia bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển trở thành một nhu cầu rất cần thiết và nó có
những tác dụng sau:
Thứ nhất: Giảm bớt rủi roc ho hàng hóa do hạn chế tổn thất nhờ tăng
cường bảo quản kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn
chế tổn thất.
Thứ hai: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền
kinh tế quốc dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi
các đơn vị kinh doanh nhập khẩu hàng hóa theo giá FOB,CF và xuất khẩu
theo giá CIF, CIP sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nứớc và
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

6

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính


nước ngoài. Nhờ có hoạt động bảo hiểm trong nước mà các chủ hàng không
phải mua bảo hiểm ở nứớc ngoài, nói cách khác là không phải xuất khẩu vô
hình.
Thứ ba: khi các công ty có tổn thất hàng hóa xảy ra sẽ được bồi thương
một số tiền nhất định giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh.
Thứ tư: nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở
thành nguyên tắc, thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng
hóa xuất nhập khẩu gặp rủi ro gây ra tổn thất cho các bên tham gia thì sẽ được
công ty bảo hiểm giúp đỡ về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp với tàu hoặc
các đối tượng có liên quan.
1.1.2.3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn ch hàng hóa được
chuyên chơ là rất lớn. Vì vậy vao trò của bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét:
Thứ nhât: hàng hóa xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay
nhiều quốc gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không
trực tiếp áp tải được hàng hóa trong quá trình vận chuyển. Do đó các doanh
nghiệp phải tham gia bảo hiểm cho hàng hóa của mình. Ở đây, vai trò của bảo
hiểm là người bạn đồng hành với người được bảo hiểm.
Thứ hai: vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đói với hàng
hóa do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm,
cháy nổ, mất cắp, cướp biển, bão, lốc, song thần… vượt quá sự kiểm soát của
con người. Hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng
đường biển, đặc biệt là ở những nước quần đảo như: Anh, Singapore, Nhật,
Hồng Kông… Do đó phải tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn


7

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

Thứ ba: Theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về
tổn thất của hàng hóa trong phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn
đường biển, rất nhiều rủi ro các hang tàu loại trừ không chịu trách nhiệm,
ngay cả các công ước quốc tế cũng quy ước mức trách nhiệm rất nhiều cho
người chuyên chở ( Hague, Hague Visby, Hanburg…). Vì vậy, các nhà kinh
doanh phải tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu.
Thư tư: hàng hóa xuất nhập khẩu thường là những hàng hóa có giá trị
cao, những vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt
thiệt hại do các rủi ro có thể xảy ra thì việc tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất
nhập khẩu trở thành một nhu cầu cần thiết.
Thứ năm: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời. Do
đó, việc tham gia bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vạn chuyển bằng đường
biển đã trỏ thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại
thương.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hóa xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò to
lớn trong thương mại quốc tế.

1.1.3. Nội dung chủ yếu của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá vận
chuyển bằng đường biển
1.1.3.1. Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình

xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
a. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyên bằng đường
biển
- Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thưòng được thực hiện thông qua hợp
đồng giữa người mua và người bán với nội dung về: số lượng, phẩm chất, ký

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

8

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

mã hiệu, quy cách đóng gói, giá cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tàu và trả cước
phí, phí bao hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán…
- Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở
hữu hàng hoá từ người bán sang người mua.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc
gia, phải chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch…tuỳ theo quy định và
thông lệ của mỗi nước. Đồng thời để vận chuyển ra hoặc vào qua biên giới
phải mua bảo hiểm theo tập quán thương mại quốc tế. Người tham gia bảo
hiểm có thể là người mua hàng (người nhập khẩu) hay người bán hàng (người
xuất khẩu) phụ thuộc vào điieù kiện giao hàng như thế nào. Hợp đồng bảo
hiểm thể hiện quan hệ giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm đối với
hàng hoá được bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm thì phải chuyển
nhượng lại cho người mua hàng, để khi hàng về đến nước nhập, nếu bị tổn

thất có thể khiếu nại đòi người bảo hiểm bồi thường.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng các phương
tiện khác nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện, trong đó có tàu
biển. Người vận chuyển hàng hoá đồng thời cũng là người trực tiếp giao hàng
cho người mua. Vì vậy, người chuyên chở là bên trung gian phải có trách
nhiệm bảo vệ, chăm soc hàng hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lượng khi
nhân của người bán cho đến khi giao cho người mua hàng.
Qúa trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó
có bốn bên chủ yếu là: người bán (bên xuát khẩu), người mua (bên nhập
khẩu), người vận chuyển và người bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ
ràng trách nhiệm của các bên liên quan và khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng
hoá các bên liên quan phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
b. Trách nhiệm của các bên liên quan.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

9

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua ba
loại hợp đồng:
- Hợp đồng mua bán
- Hợp đồng vận chuyển
- Hợp đồng bảo hiểm

Ba loại hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các
bên liên quan và trách nhiệm này phụ thuộc vào điều kiện giao hàng của hợp
đồng mua bán. Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERMS 2000”
(International Commercial Tearms) có 13 điều kiện giao hàng được phân chia
thành bốn nhóm E, F, C, D có sự khác nhau như sau: thứ nhất là nhóm E- quy
ước người bán đặt hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua ngay tại
xưởng của người bán (điều kiện E – giao tại xưởng); thứ hai là nhóm F – quy
ước người bán được yêu cầu giao hàng hoá cho một người chuyên chở do
người mua chỉ định ( nhóm điieù kiên: FCA, FAS, FOB); thứ ba là nhóm C –
quy ước người bán phải có trách nhiệm thuê phương tiện vận tải nhưng không
chịu rủi ro về mất mát hoặc hư hại đối với hàng hoá hoặc các phí tổn phát
dinh thêm do các tình huống xảy ra sau khi đã gửi hàng hoá và bốc hàng lên
tàu ( nhóm điều kiện: CFR, CIF, CPT, CIP); thứ tư là nhóm D – quy ước
người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi ro cần thiết để đưa hàng hoá tới địa
điểm quy định ( nhóm điều kiện: DAF, DES, DEQ, DDU, DDP). Trong đó
thông dụng hơn cả là điều kiện FOB, CFR và CIF.
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng điều
kiện cụ thể mà có thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những điều
kiện giao hàng mà người bán không có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và
mua bảo hiểm cho hàng hoá. Như vậy, tuy bán được hàng nhưng nhưng dịch
vụ vận chuyển và bảo hiểm sẽ do người mua đảm nhận (điều kiện FOB). Có
trường hợp giao hàng theo điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu được hàng hoá,
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

10

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp


Học viện Tài chính

người bán còn có trách nhiệm thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng
hoá (điều kiện CIF). Thực tế, các tập đoàn kinh tế hoạt động trên nhiều lĩnh
vực sản xuất, vận chuyển, bảo hiểm… khi giao hàng theo điều kiện nhóm C
và D, bên cạnh việc bán hàng còn dành cho họ dịch vụ vân chuyển và bảo
hiểm cho số hàng đó. Vì vậy, nếu nhập khẩu hàng theo điều kiện FOB hay
điều kiện CFR thì sẽ giữ được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm hay chỉ dịch
vụ bảo hiểm. Ngược lại, nếu bán hàng theo điieù kiện CIF thì người bán là
người giành được dịch vụ vận chuyển và bảo hiểm. Điều đó có vai trò to lớn
trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành vận tải đường biển và
bảo hiểm của quốc gia đó. Nói chung, trách nhiệm của các bên liên quan được
phân định như sau:
- Trách nhiệm của người bán (bên xuất khẩu): phải chuẩn bị hàng hoá
theo đúng hợp đồng trong mua bán ngoại thương về số lượng, chất lương, quy
cách, loại hàng, bao bì đóng gói… và tập kết hàng đến cảng tới ngày nhận,
thông báo tàu đến nhận chuyên chở, giao hàng cho tàu khi qua lan can an toàn
mới hết trách nhiệm về những rủi ro tai nạn đối với hàng hoá. Ngoài ra, người
bán phải làm các thủ tục hải quan, kiểm dịch, lấy giấy chứng nhận kiểm định
phẩm chất, đóng gói bao bì phải chịu được điều kiện vận chuyển bốc dỡ thông
thường. Cuối cùng, người bán phải lấy được vận tải đơn sạch. Nếu bán hàng
theo điều kiện CIF người bán còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho lô hàng
hoá sau đó ký hậu vào đơn bảo hiểm để chuyển nhượng quyền lợi bảo hiểm
cho người mua.
- Trách nhiệm của người mua ( bên nhập khẩu): nhận hàng của người
chuyên chở theo đúng số lượng, chất lượng…đã ghi trong hợp đồng vận
chuyển và hợp đồng mua bán ngọi thương, lấy giấy chứng nhận kiểm đếm,
biên bản kết toán giao nhận hàng với chủ tàu, biên bản hàng hoá hư hỏng đổ
vỡ do tàu gây nên ( nếu có), nếu có sai lệch về số lượng hàng nhận được khác

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

11

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

với hợp đồng mua bán nhưng đúng với hợp đống vận chuyển thì người mua
bảo lưu quyển khiếu nại đối với người bán, nếu phẩm chất hay số lượng hàng
hoá nhận được có sai lệch với vận tải đơn thì người mua căn cứ vào biên bản
trên bảo lưu quyền khiếu nại với chủ phương tiện chuyên chở. Ngoài ra, người
mua còn có trách nhiệm mua bảo hiểm cho hàng hoá nếu mua hàng theo giá
CF và mua bảo hiểm và thuê tàu trả cước phí vận chuyển nếu mua hàng theo
giá FOB hay nhận lại chứng từ bảo hiểm do người bán chuyển nhượng nếu
mua hàng theo giá CIF.
- Trách nhiệm của người vận chuyển: chuẩn bị phương tiện chuyên chở
theo yêu cầu kỹ thuật thương mại và kỹ thuật hàng hải, giao nhận hàng đúng
quy định theo hợp đồng vận chuyển. Theo tập quán thương mại quốc tế thì tàu
chở hàng bắt buộc phải tham gia bảo hiểm than tàu và P and I. Người vận
chuyển còn có trách nhiệm cấp vận đơn cho người hửi hàng. Vận đơn (Bill of
Loading) là một chứng từ vận chuyển hàng hoá trên biển do người vận chuyển
cấp cho người gửi hàng nhằm nói lên mối quan hệ pháp lý giữa người vận
chuyển, người gửi hàng và người nhận hàng. Có nhiều loại vận đơn, nhưng ở
đâychỉ quan tâm đến hai loại cơ bản là vận đơn hoàn hảo (Clean B/L) hay còn
gọi là vận đơn sạch và vận đơn không ho0àn hảo (Unclean B/L). Người vận
chuyển phải chịu trách nhiệm với những rủi ro xảy ra đối với hàng hoá theo

quy định và phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc cho lô hàng chuyên chở
trong hành trình từ cảng đi đến cảng đích.
- Trách nhiệm của người bảo hiểm: có trách nhiệm với những rủi ro
được bảo hiểm gây ra cho lô hàng hoá tham gia bảo hiểm, người bảo hiểm
cũng có trách nhiệm kiểm tra các chứng từ liên quan đến hàng hoá, hành trình
vận chuyển và bản than tàu chuyên chở. Khi xảy ra tổn thất thuộc phạm vi
trách nhiệm của bảo hiểm, người bảo hiểm có trách nhiệm tiến hành giám
định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba nếu họ gây ra tổn thất này.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

12

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

1.1.3.2. Các loại rủi ro và tổn thất trong quá trình vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển.
a. Các loại rủi ro
Do đặc điểm của quá trình vận chuyển mà hàng hoá xuất nhập khẩu
thường bị đe doạ bởi rất nhiều rủi ro. Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển người ta chia rủi ro thành 4 loại:
rủi ro thông thường, rủi ro phụ, rủi ro riêng, rủi ro loại trừ.


Rủi ro thông thường: là nguồn đe doạ chủ yếu và lớn nhất đối với


hành trình hàng hải, nó bao gồm hai nhóm rủi ro:
-

Nhóm các rủi ro chính gồm các rủi ro cơ bản nhất: mắc cạn, chìm

đắm, cháy nổ, đâm va.
-

Nhóm rủi ro thông thường khác gồm các rủi ro: tàu mất tích; ném

hàng xuống biển; nước biển, nước sông, nước hồ chảy vào tàu, sà lan,
container hoặc nơi chứa hàng.


Rủi ro phụ: là những rủi ro không phải là những rủi ro của biên

hay rủi ro trên biển và người muabảo hiểm muốn được bảo hiểm rủi ro phải
mua bảo hiểm có phạm vi rộng nhất (điều kiện bảo hiểm A hoặc điều kiện bảo
hiểm mọi rủi ro trong ICC 1963), bao gồm một số rủi ro đối với hàng hoá
như: cướp biển; trộm cắp, giao thiếu hàng, không giao hàng; nước mưa, nước
ngọt, đọng hơi nước, hấp hơi nóng; va đập vào hàng hoá khác; vỡ, cong, bẹp;
rỉ; lây hại, lây bẩn, hư hại do móc cẩu, chuột bọ và côn trùng, các rủi ro phụ
khác.


Rủi ro riêng: là rủi ro chỉ được bảo hiểm khi có thoả thuận giữa

người bảo hiểm và người được bảo hiểm theo những điều kiện riêng khi người

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn


13

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

được bảo hiểm có yêu cầu. Rủi ro riêng bao gồm rủi ro chiến tranh và rủi ro
đình công.


Rủi ro loại trừ: là những loại rủi ro không được bảo hiểm trong

bất cứ trường hợp nào. Rủi ro loại trừ trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường bao gồm:
-

Hành động xấu, cố ý của người được bảo hiểm

-

Chậm trễ hành trình và những hậu quả trực tiếp của việc chậm trễ (kể

cả việc chậm trễ là do một rủi ro được bảo hiểm gây nên).
-

Tàu, sà lan không đủ khả năng đi biển hoặc không thích hợp với việc


vận chuyển hàng hoá
-

Bao bì không đảm bảo, đóng gói sai quy cách

-

Chuẩn bị hàng hoá không đầy đủ hoặc do việc xếp hàng hoá hỏng lên

-

Rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng, giảm thể tích thông

tàu.
thường, hao mòn tự nhiên
-

Chủ tàu không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính.

b. Tổn thất và các chi phí
Trong bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, tổn thất là một thuật ngữ dùng để
chỉ tình trạng mất mát, hư hại hay giảm giá trị, giá trị sử dụng của hàng hoá
được bảo hiểm do sự tác động của rủi ro.
 Nếu căn cứ vào quy mô, mức độ của tổn thất người ta chia tổn thất
thành tổn thất toàn bộ và tổn thất bộ phận.
- Tổn thất toàn bộ là sự mất mát, hư hỏng hoàn toàn hàng hoá được bảo
hiểm. Tổn thất toàn bộ được chia thành 2 loại là tổn thất toàn bộ thực tế và tổn
thất toàn bộ ước tính.


- Tổn thất bộ phận là sự mất mát, hư hỏng, giảm giá trị một phần hàng
hoá được bảo hiểm.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

14

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

 Nếu căn cứ vào tính chất liên quan về quyển lợi và trách nhiệm của các
bên với tổn thất thì tổn thất được chia thành tổn thất riêng và tổn thất chung.
- Tổn thất riêng là tổn thất chỉ gây thiệt hại cho riêng quyền lợi của một
hoặc một số chủ hàng trên tàu và chỉ liên quan đến quyền lợi của những chủ
hàng, những người bảo hiểm cho chủ hàng đó mà thôi. Tổn thất riêng có thể là
tổn thất bộ phận hoặc tổn thất toàn bộ của chủ hàng riêng biệt. Người bảo
hiểm không những bồi thường giá trị thiệt hại vật chất của tổn thất riêng mà
còn cả những chi phí liên quan đến tổn thất riêng nhằm hạn chế tổn thất gọi là
chi phí tổn thất riêng. Chi phí tổn thất riêng là những chi phí phát sinh tại cảng
đi và cảng dọc đường sau khi hàng hoá đã bị tổn thất nhằm giảm thiểu mức độ
tổn thất, nó bao gồm các chi phí phân loại, đóng gói lại hàng hoá, chi phí thay
lại bao bì, chi phí sấy khô hàng hoá ướt…
- Tổn thất chung: tổn thất chung gây ra bởi hoặc do hậu quả của hành
động tổn thất chung, đó là sự hi sinh một số ít quyền lợi của chủ hàng và chủ
tàu nhằm cứu vãn an toàn cho tất cả các quyền lợi chung trên hành trình khi
có nguy cơ đe doạ. Hành động tổn thất chung là hành động tự nguyện, có chủ
ý của con người nhằm đem lại an toàn chung cho toàn bộ hành trình. Hành

động tổn thất chung thường xảy ra trong các tình huống: tàu có nguy cơ bị
đắm, gặp hoả hoạn trên tàu, tàu mắc cạn, tàu bị cướp…
Trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển,
tổn thất và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ trong đó rủi ro là nguyên nhân còn
tổn thất là hậu quả. Còn chi phí là các khoản tiển mà người bảo hiểm đã chi ra
hoặc phải đóng góp liên quan đến việc đề phòng hạn chế tổn thất cho hàng
hoá, bốc dỡ lưu kho tại cảng lãnh nạn, khiếu nại người thứ ba, cứu hộ, giám
định tổn thất… Người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm về những tổn thất và
những chi phí phát sinh do hậu quả của những rủi ro được bảo hiểm gây ra.
1.1.3.3. Các điều kiện bảo hiểm
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

15

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

Điều kiện bảo hiểm hàng hoá là những quy định phạm vi trách nhiệm
của người bảo hiểm trước rủi ro, tổn thất của hàng hoá được bảo hiểm. Hàng
hoá mua bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm nào thì chỉ những rủi ro tổn thất
xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm của điều kiện đó thì mới phát sinh trách nhiệm
bồi thường của người bảo hiểm.
Trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng, hầu hết các nước trên thế
giới đều vận dụng những bộ điều khoản do Uỷ ban kỹ thuật và điều khoản –
Học hội bảo hiểm London soạn thảo. Hiện nay, hai bộ điều khoản đang được

áp dụng rộng rãi trên thế giới là bộ điều khoản ban hành vào các năm 1963
(ICC1963) và năm 1982 (ICC1982).
Để phù hợp với điều kiện thực tế, tổ chức này đã soạn thảo và ban hành
bộ điều khoản mới là ICC 2009. Tuy nhiên, trên thực tế bộ điều khoản này chỉ
phát triển và cụ thể hóa một số điều kiện còn về cơ bản nội dung các điều
khoản vẫn như trong ICC 1982. Vì vậy cho đến nay thì bộ điều khoản được sử
dụng rộng rãi nhất vẫn là ICC 1982.
Điều kiện bảo hiểm ICC 1982
Bộ điều khoản này được áp dụng từ ngày 01/01/1982, bao gồm 5 điều
kiện bảo hiểm là: Điều kiện bảo hiểm A, điều kiện bảo hiểm B, điều kiện bảo
hiểm C, điều kiện bảo hiểm chiến tranh và điều kiện bảo hiểm đình công.
 Điều kiện bảo hiểm A
Theo điều kiện bảo hiểm này, người bảo hiểm chịu trách nhiệm về mọi
rủi ro gây ra mất mát hư hỏng cho hàng hoá được bảo hiểm trừ khi do những
rủi ro loại trừ gây ra. Những rủi ro loại trừ trong điều kiện bảo hiểm A bao
gồm loại trừ chung và loại trừ riêng bao gồm hai rủi ro chiến tranh và đình
công.
 Loại trừ chung bao gồm:
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

16

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

- Hành động xấu, cố ý của người được bảo hiểm.

- Chậm trễ hành trình và những hậu quả trực tiếp của việc chậm trễ (kể
cả việc chậm trễ là do một rủi ro được bảo hiểm gây nên).
- Tàu, sà lan không đủ khả năng đi biển hoặc không thích hợp với việc
vận chuyển hàng hoá.
- Bao bì không đảm bảo, đóng gói sai quy cách.
- Chuẩn bị hàng hoá không đầy đủ hoặc do việc xếp hàng hoá hỏng lên
tàu.
- Rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng, giảm thể tích thông
thường, hao mòn tự nhiên.
- Chủ tàu không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài chính.
 Loại trừ riêng bao gồm:
- Chiến tranh
- Đình công.
 Điều kiện bảo hiểm B
Với điều kiện này, loại trừ bảo hiểm như điều kiện bảo hiểm A, người
bảo hiểm chịu trách nhiệm đối với:


Những mất mát, hư hỏng xảy ra cho đối tượng bảo hiểm

có thể quy hợp lý cho các nguyên nhân:
- Cháy hoặc nổ;
- Tàu, sà lan bị mắc cạn, chìm đắm hoặc lật úp;
- Đâm va vào bất kỳ vật thể gì trừ nước
- Phương tiện vận chuyển trên bộ bị đổ hoặc trật bánh;
- Dỡ hàng tại cảng có nguy hiểm;
- Động đất, núi lửa phun, sét đánh.
 Những mất mát, hư hại xảy ra cho đối tượng bảo hiểm do nguyên
nhân:
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn


17

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

- Hy sinh tổn thất chung;
- Ném hàng xuống biển hoặc nước cuốn trôi khỏi tàu;
- Nước biển, nước song, nước hồ xâm nhập vào tàu, sà lan, hầm hàng,
phương tiện vận chuyển, container hoặc nơi chứa hàng.
 Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào rơi ra khỏi tàu hoặc rơi ra
trong quá trình đang xếp hàng lên tàu, dỡ hàng ra khỏi tàu hoặc sà lan.


Điều kiện bảo hiểm C

Đây là điều kiện bảo hiểm có phạm vi trách nhiệm hẹp nhất. Theo điều
kiện bảo hiểm này người bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với:


Những mất mát hư hỏng xảy ra cho đối tượng bảo hiểm có

thể quy hợp lý cho các nguyên nhân:
-

Cháy hoặc nổ;


-

Tàu hay sà lan bị mắc cạn, chìm đắm hoặc lật úp;

-

Đâm va vào bất kỳ vật thể gì trừ nước;

-

Phương tiện vận chuyển trên bộ bị lật đổ hoặc trật bánh;

-

Dỡ hàng tại cảng có nguy hiểm.



Những mất mát hư hại xảy ra cho đối tượng bảo hiểm do

các nguyên nhân:
-

Hy sinh tổn thất chung;

-

Ném hàng xuống biển.


Ngoài ba điều kiện bảo hiểm A, B, C còn có thêm điều kiện chiến tranh
và điều kiện đình công. Tuy nhiên, hai điều kiện này ít được người tham gia
bảo hiểm mua, một phần vì phí bảo hiểm cao, một phần vì khả năng, xác suất
xảy ra rủi ro thấp hơn các điều kiện bảo hiểm khác.
1.1.3.4. Đối tượng bảo hiểm và phạm vi bảo hiểm
a. Đối tượng bảo hiểm

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

18

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

Cũng như các nghiệp vụ khác, việc xác định đúng đối tượng bảo hiểm sẽ
cho phép giải quyết bồi thường một cách thuận lợi, nhanh chóng. Trong hoạt
động xuất nhập khẩu thì hàng hoá có nhiều khả năng gặp rủi ro cho nên các
thương gia phải mua bảo hiểm cho hàng hoá vận chuyển bằng đường biển.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển có
đối tượng bảo hiểm là hàng hoá được vận chuyển bằng tàu biển hoặc kết hợp
cả các phương tiện vận chuyển khác trong liên hiệp vận chuyển (vận chuyển
đa phương thức).
b. Phạm vi bảo hiểm
Phạm vi bảo hiểm là giới hạn rủi ro được bảo hiểm và cũng là giới hạn
trách nhiệm của người bảo hiểm. Hàng hoá được bảo hiểm theo điều kiện nào
thì chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới được bồi thường.

Phạm vi trách nhiệm càng rộng thì những rủi ro được bảo hiểm càng nhiều và
kéo theo mức phí lớn.
Căn cứ vào các điều khoản bảo hiểm ICC 1982, để phù hợp với tình
hình thực tế tại Việt Nam đối với quá trình bốc dỡ vận chuyển hàng hoá ở các
cảng Việt Nam, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung về bảo hiểm hàng
hoá vận chuyển bằng đường biển gọi tắt là QTC 1990. Quy tắc này được xây
dựng trên cơ sở điều khoản ICC 1982. Theo quy tắc này người mua bảo hiểm
có thể lựa chọn một trong ba điều kiện bảo hiểm A, B, C để bảo hiểm cho
hàng hoá của mình. Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm A tương tự như
ICC 1982, riêng điều kiện bảo hiểm B, C trách nhiệm của người bảo hiểm
cộng thêm trách nhiệm đối với hàng hoá chở trên tàu bị mất tích.
1.1.3.5. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
a. Giá trị bảo hiểm
Giá trị bảo hiểm là giá tri thực tế của lô hàng, giá này có thể là chỉ giá
hàng hoá (FOB); cũng có thể gồm cả giá hàng hoá, cước phí vận chuyển, phí
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

19

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

bảo hiểm và các chi phí liên quan khác (CIF). Ở Việt Nam hiện nay, giá trị
bảo hiểm thường áp dụng điều kiện giá CIF tức là giá trị bảo hiểm của hàng
hoá được bảo hiểm bao gồm giá tiền hàng ghi trên hoá đơn bán hàng (hoặc giá
hàng thực tế tại nơi gửi hàng nếu không có hoá đơn), cộng chi phí vận chuyển

và phí bảo hiểm.
b. Số tiền bảo hiểm
Việc xác định số tiền bảo hiểm là rất quan trọng bởi dựa vào số tiền bảo
hiểm mà người bảo hiểm có trách nhiêm tương ứng đối với những rủi ro, tổn
thất xảy ra trong quá trình chuyên chở và hơn nữa là phí bảo hiểm được tính
trên số tiền này.
Số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên cơ sở thoả thuận căn cứ vào giá
trị hàng hoá và ghi vào trong hợp đồng bảo hiểm.
Trên thực tế, số tiền bảo hiểm thường được ấn định bằng với giá trị bảo
hiểm và như thế gọi là “bảo hiểm ngang giá trị”. Nếu số tiền bảo hiểm của
hàng hoá thấp hơn giá trị bảo hiểm thì người bảo hiểm sẽ bồi thường những
mất mát, hư hỏng và các chi phí trong phạm vi bảo hiểm theo tỷ lệ giữa số tiền
bảo hiểm và giá trị bảo hiểm. Nếu số tiền bảo hiểm của hàng hoá cao hơn giá
trị bảo hiểm thì phần cao hơn đó không được thừa nhận.
Trừ khi có thỏa thuận khác, trong số tiền bảo hiểm khai báo, người được
bảo hiểm có thể tính gộp cả tiền lãi ước tính. Tuy nhiên tiền lãi này không
được vượt quá 10% giá trị bảo hiểm. Thông thường số tiền bảo hiểm được
tính bằng 110% giá CIF.
c. Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà người tham gia bảo hiểm phải trả cho
nhà bảo hiểm để nhận được bồi thường khi có các tổn thất xảy ra do các rủi ro

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

20

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp


Học viện Tài chính

được bảo hiểm gây nên. Thực chất phí bảo hiểm chính là giá cả của sản phẩm
bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở xác suất rủi ro gây ra tổn thất
hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo trang trải bồi thường và có
lãi. Để đơn giản, phí bảo hiểm được xác định trên cơ sở số tiền bảo hiểm và tỷ
lệ phí bảo hiểm.
1.1.3.6. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển là sự thoả thuận bằng văn bản giữa người mua bảo hiểm và người bảo
hiểm, theo đó người mua bảo hiểm phải trả phí bảo hiểm còn người bảo hiểm
phải bồi thường cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra
trong suốt cuộc hành trình. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm hàng hoá được áp
dụng trong thực tế là: hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao.
a. Hợp đồng bảo hiểm chuyến ( Insurance certificate)
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là loại hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến
hàng vận chuyển từ địa điểm này đến địa điểm khác. Hợp đồng bảo hiểm
chuyến là hợp đồng bảo hiểm giành cho khách hàng có nhu cầu bảo hiểm
hàng hoá không thưòng xuyên. Với loại hình hợp đồng bảo hiểm này, người
bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với tổn thất cảu hàng hoá trong phạm vi
một chyến hàng theo các điều khoản lựa chọn hoặc tuỳ theo quy định trong
hợp đồng vận chuyển. Đây là loại hợp đồng “tường minh” nhất bởi lẽ những
thông tin về đối tượng bảo hiểm như: tên hàng, số lượng, đặc điểm nhận biết,
giá trị bảo hiểm, phí bảo hiểm … cũng như những thông tin về phương tiện
vận chuyển, hành trình như: tên tàu, chủ tàu, cảng xếp hàng, ngày xếp hàng…
đều được thể hiện rõ trong hợp đồng bảo hiểm.
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn


21

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

b. Hợp đồng bảo hiểm bao ( Open policy)
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm cho nhiều chuyến hàng
của cùng một chủ hàng trong một thời gian nhất định (thường là một năm).
Hợp đồng bảo hiểm bao thường được áp dụng cho những chủ hàng có lượng
hàng hoá nhập (xuất) lớn, chở bằng nhiều chuyến trong năm. Khác với hợp
đồng bảo hiểm chuyến, khi giao kết hợp đồng bảo hiểm bao có nhiều thông tin
liên quan đến hợp đồng mà người bảo hiểm chưa được biết trước. Vì vậy hợp
đồng bảo hiểm bao được coi là một dạng hợp đồng “nguyên tắc” trong đó các
bên thoả thuận các điều khoản làm cơ sở cho việc tính giá trị bảo hiểm, phí
bảo hiểm tương ững với những điều kiện bảo hiểm, phương thức thanh toán
phí, cam kết về phương tiện vận chuyển… Với mỗi chuyến hàng bên mua bảo
hiểm phải có nghĩa vụ cung cấp những thông tin mà bên bảo hiểm yêu cầu và
theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm, bên bảo hiểm phải cấp giấy chứng nhận
bảo hiểm cho từng lô hàng mà bên mua bảo hiểm nhập (xuất). Hợp đồng bảo
hiểm bao phù hợp với những đối tượng khách hàng có khối lượng hàng hoá
nhập, xuất lớn trong năm. Hợp đồng bảo hiểm bao được ký kết và thực hiện
trên tinh thần thiện chí.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi cho cả người bảo hiểm và người được bảo
hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo thu được khoản phí bảo hiểm trong thời hạn
bảo hiểm. Người được bảo hiểm nhờ tiết kiệm chi phí giao kết hợp đồng nên

có thể giảm chi phí, đồng thời hàng hoá vẫn được nhà bảo hiểm chấp nhận
bảo hiểm ngay cả khi đã xếp lên tàu vận chuyển rồi mà chưa kịp thông báo
bảo hiểm. Trên thực tế kinh doanh, do mạng lại nhiều lợi ích và ưu thế hơn so
với hợp đồng bảo hiểm chuyến nên hợp đồng bảo hiểm bao luôn được các
doanh nghiệp bảo hiểm khuyến khích áp dụng.
c. Tính hiệu lực của hợp đồng.

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

22

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển bắt đầu có hiệu lực từ khi hàng rời kho hay nơi chứa hàng taị địa điểm
ghi trong hợp đồng bảo hiểm để bắt đầu vận chuyển, tiếp tục có hiệu lực trong
suốt quá trình vận chuyển bình thường và kết thúc tại một trong các thời điểm
sau tuỳ vào thời điểm nào đến trước:
-

Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng đã

thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm.
-


Khi giao hàng vào kho hay bất kỳ nơi chứa hàng nào khác

mà người được bảo hiểm chọn dùng làm nơi chia hay phân phối hàng hoặc nơi
chứa hàng ngoài quá trình vận chuyển bình thường.
-

Khi hết hạn 60 ngày kể từ ngày hoàn thành việc dỡ hàng

tại cảng đến.
-

Khi hàng được giao vào bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào

khác với nơi nhận do nhầm lẫn.
1.1.2.7. Công tác giám định – bồi thường tổn thất
a. Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định của các
công ty bảo hiểm hoặc của các công ty giám định được người bảo hiểm uỷ
quyền, nhằm xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất làm cơ sỏ cho việc
bồi thường. Giám định tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị tổn thất, hư
hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt, giảm phẩm chất ở cảng đến hoặc trên đường hành trình
và do người được bảo hiểm yêu cầu. Những tổn thất do mất hàng, giao thiếu
hàng hoặc không giao hàng thì không phải giám định và cũng không thể giám
định được. Do đó, người được bảo hiểm phải có nghĩa vụ đưa ra những bằng
chứng chứng minh về nguyên nhân và mức độ của những tổn thất này. Sau khi
giám định, người giám định sẽ cấp chứng thư giám định. Chứng thư giám

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

23


Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

định gồm hai loại: biên bản giám định và giấy chứng nhận giám định được gửi
cho người được bảo hiểm trong vòng 30 ngày.
Người được bảo hiểm có thể tham gia ý kiến với giám định viên để
thống nhất về tỷ lệ tổn thất hàng hoá. Trong trường hợp đôi bên không nhất trí
được thì có thể mời một bên trung gian làm giám định viên độc lập. Biên bản
giám định là hcứng thư quan trọng trong việc đòi bồi thường, vì vậy khi hàng
đến cảng có tổn thất phải yêu cầu giám định ngay (không muộn hơn 60 ngày
kể từ ngày dỡ hàng khỏi tàu). Cơ quan giám định phải là cơ quan được chỉ
định trong hợp đồng hoặc được người bảo hiểm uỷ quyền.
b. Bồi thường tổn thất
Các công ty bảo hiểm Việt Nam tính toán và bồi thưòng tổn thất trên cơ
sở các nguyên tắc sau:
-

Bồi thường bằng tiền chứ không phải hiện vật, đồng tiền

bồi thường là đồng tiền đã được thoả thuận trong hợp đồng, nếu không có
thoả thuận thì nộp phí đồng tiền nào thì bồi thường bằng đồng tiền đó.
-

Khi hàng hoá được bảo hiểm bị tổn thất bộ phận, thì số


tiền bồi thường được xác định bằng tổng giá trị hàng hoá khi còn nguyên vẹn
trừ đi tổng giá trị hàng hoá còn lại sau khi đã bị tổn thất tại nơi nhận hàng trên
cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
-

Trên nguyên tắc thì trách nhiệm của người bảo hiểm chỉ

giới hạn trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Tuy nhiên, khi cộng tiền tổn thất các
chi phí: cứu hộ, giám định, đánh giá và bán lại hàng hoá bị tổn thất, chi phí
đòi người thứ ba, tiền đóng góp vào tổn thất chung thì dù có vượt quá số tiến
bảo hiểm thì người bảo hiểm vẫn bồi thường dựa trên quy định trong điều
khoản đã thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm ( đây là điểm khác biệt của bảo
hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển với các loại bảo hiểm khác).

Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

24

Lớp CQ44/03.01


Luận văn tôt nghiệp

Học viện Tài chính

- Khi thanh toán tiền bồi thường, người được bảo hiểm có thể khấu trừ
những khoản thu nhập của người được bảo hiểm trong việc bán hàng và đòi
người thứ ba.

1.2. Lý luận về công tác khai thác trong bảo hiểm hàng hoá

xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
1.2.1. Vai trò của công tác khai thác trong bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Khai thác là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai mọi nghiệp vụ bảo
hiểm, nó có vai trò vô cùng quan trọng, là tiền đề cho các khâu còn lại trong
quy trình khai thác nghiệp vụ ấy. Hơn nữa bảo hiểm là loại sản phẩm vô hình,
do đó khai thác càng có ý nghĩa quan trọng bởi đây là bước để sản phẩm tiếp
cận với khách hàng, tạo cảm nhận ban đầu về chất lượng sản phẩm từ đó mà
ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của khách hàng xem có mua hay không
mua sản phẩm. Khai thác không chỉ có ý nghĩa đối với người bán bảo hiểm
mà còn có ý nghĩa đối với người mua và đối với nền kinh tế. Cụ thể đối với
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển,
công tác khai thác có ý nghĩa như sau:
Đứng trên góc độ của nhà bảo hiểm thì khâu khai thác là khâu quan
trọng vì nó mạng lại doanh thu cho công ty. Mặc dù chưa phải là lợi nhuận và
chưa phản ánh toàn diện hiệu quả kinh doanh nhưng đó là một yếu tố quan
trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh trong mọi thời kỳ. Đồng
thời qua đó có thể đánh giá về khả năng thu hút khách hàng, hiệu quả hoạt
động của bộ phận khai thác để có biện pháp điều chỉnh cho phù hợp kịp thời.
Bên cạnh đó, về cơ bản hoạt động bảo hiểm luôn phải dựa trên nguyên tắc số
đông bù số ít trong đó doanh thu đủ lớn là yêu cầu quan trọng để có thể thực
Sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Nhàn

25

Lớp CQ44/03.01


×