Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên ở trung tâm giáo dục quốc phòng hà nội 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 130 trang )

BÔ GIÂO DUC VÀ DÀO TAO
TRÜÔOVG DAI HOC SU* PHAM HÀ N Ô I2








C8 C3 80

VÜMANHHÀ

QUÀN LŸ GIÂO DyC KY LUÂT QUÂN DQI
CHO SINH VIÊN à TRUNG TÂM GIÂO DUC
QUÔC PHÔNG HÀ NÔI 2
Chuyên ngành: Quân lÿ giâo duc
Ma so: 60 14 01 14
LUÂN VAN THAC SÏ QUÂN LŸ GIÂO DUC
Ngu if i hirôtig dan khoa hoc: TS VITHÂILANG

HÀ NÔI, 2015


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm trân trọng và chân thành tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn
sâu sắc tới Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2, Phòng Sau đại học, các cơ
quan liên quan đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, nghiên cứu khoa học để
nâng cao trình độ nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao.


Xin được bày tỏ lòng cảm ơn, biết ơn sâu sắc tới các thày cô, các nhà
khoa học đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng
như trong nghiên cứu khoa học. Đặc biệt xin được trân trọng cảm ơn Tiến sĩ
Vi Thái Lang đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn tới Ban Giám đốc, các cán bộ, giảng viên, nhân
viên, sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2; bạn bè, đồng nghiệp, gia đình
và người thân đã tận tình giúp đỡ, động viên khích lệ tôi trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Mặc dù trong quá trình học tập, tìm tòi, nghiên cứu bản thân rất nỗ lực
và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì
vậy, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các nhà giáo
và đồng nghiệp để luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.

Tác giả

Vũ Mạnh Hà


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài : “Quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho
sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 ” đến thời điểm hiện tại cũng chưa có
công trình nghiên cứu nào về vấn đề này, nên không có sự trùng lặp với các
đề tài khác. Mọi kết quả, số liệu khảo sát điều tra thu thập được là hoàn toàn
chính xác, khách quan.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc. Việc hoàn thành luận văn là sự nỗ lực rất lớn của bản thân.


Tác giả

Vũ Mạnh Hà


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐÀU
NỘI DUNG
Chương 1: c ơ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỶ LUẬT
QUÂN ĐỘI CHO SINH VIÊN HỌC GDQP VÀ AN
1.1.
1.2.
1.3.

1

6

Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Một số khái niệm cơ bản
Đặc điểm tâm lý của sinh viên học GDQP và AN ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2
1.4.
Quan điểm, mục tiêu giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên
1.5.
Nội dung quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên
Chương 2: THựC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI
CHO SINH VIÊN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2


37

2.1.

Khái quát quá trình xây dựng, phát triển Trung tâm GDQP Hà
Nội 2
2.2.
Thực trạng quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên ở
Trung tâm GDQP Hà Nội 2
2.3.
Những yếu tố tác động ảnh hưởng đến quản lý giáo dục kỷ luật
quân đội cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
2.4.
Đánh giá chung về thực trạng quản lý giáo dục kỷ luật quân đội
cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2
Chương 3: YÊU CÀU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỶ LUẬT
QUÂN ĐỘI CHO SINH VIÊN Ở TRUNG TÂM GDQP HÀ NỘI 2

37

3.1.

71

Những yêu càu mang tính nguyên tắc trong đề xuất các biện
pháp
3.2.
Một số biện pháp quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên
ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay
3.3.

Khảo nghiệm tính càn thiết và tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

6
9
18
21
31

43
58
64
71

74
96
106
110
114


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

STT

VIẾT TẮT

VIẾT ĐẦY ĐỦ


1

AN

An ninh

2

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

3

GDQP

Giáo dục quốc phòng

4

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

5

KTX

Ký túc xá


6

Nxb

Nhà xuất bản

7

QĐNDVN

Quân đội nhân dân Việt Nam

8

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC S ơ ĐÒ, BẢNG TRONG LUẬN VĂN


TT

7



Nội dung


Trang

Sơ đồ 1.1

Quy trình của hoạt động sản xuất vật chất

10

Sơ đồ 1.2

Quy trình của hoạt động quản lý

10

Bảng 2.1

Đánh giá của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Trung tâm
về thực trạng giáo dục kỷ luật quân đội trong học tập, rèn luyện
Đánh giá của sinh viên về thực trạng giáo dục kỷ luật quân đội
trong học tập, rèn luyện
Đánh giá của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Trung tâm
về thực trạng giáo dục kỷ luật quân đội ừong hoạt động tập thể,
cá nhân và lao động

Bảng 2.2

Bảng 2.3

Bảng 2.4


Bảng 2.5

Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 3.1

Bảng 3.2

Bảng 3.3

Bảng 3.4

Đánh giá của sinh viên về thực trạng giáo dục kỷ luật quân đội
trong hoạt động tập thể, cá nhân và lao động (số lượng =300)
Đánh giá của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Trung tâm
về thực trạng giáo dục kỷ luật quân đội trong quan hệ và ứng
xử (số lượng =36)
Đánh giá của sinh viên vê thực trạng giáo dục kỷ luật quân đội
trong quan hệ và ứng xử (số lượng =300)
Thống kê sinh viên vi phạm các quy định từ 2011 - 2014
Đánh giá của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Trung tâm
về sự cần thiết của các biện pháp quản lý giáo dục kỷ luật quân
đội cho sinh viên
Đánh giá của sinh viên về sự cần thiết của các biện pháp quản
lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên
Đánh giá của cán bộ, giảng viên, nhân viên trong Trung tâm
về tính khả thi của các biện pháp quản lý giáo dục kỷ luật quân
đội cho sinh viên
Đánh giá của sinh viên trong Trung tâm về tính khả thi của các

biện pháp quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên

46
47

53

54

56

57
66
96

98

100

102


1

MỞ ĐẦU
l. Lý do chọn đề tài
Như chứng ta đã biết GDQP và AN cho học sinh, sinh viên là một
trong những nội dung của chiến lược đào tạo con người, nhằm đào tạo ra
những con người mới có đủ trình độ năng lực để thực hiện tốt hai nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Chính vì vậy, ngay sau khi

nước nhà thống nhất, ngày 28/4/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ
thị 107-CT/TW về “Tăng cường công tác giáo dục quốc phòng nhân dân,
chuẩn bị cho thể hệ trẻ sẵn sàng làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”. [1]. Nghị
quyết 02-NQ/TW ngày 30/7/1987 của Bộ Chính trị đã quy định đưa nội dung
đường lối quân sự của Đảng và nhiệm vụ quốc phòng vào chương trình học
tập chính thức của các trường đào tạo, bổ túc cán bộ của Đảng và Nhà nước;
đưa nội dung giáo dục quốc phòng vào chương trình chính khoá trong các
trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
Nhiệm vụ GDQP và AN với mục tiêu tổng quát của chiến lược quốc
phòng nước ta, là xây dựng nền quốc phòng toàn dân có lực lượng ngày càng
vững mạnh, thế trận ngày càng vững chắc, đủ sức ngăn chặn, đẩy lùi, đập tan
mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của của kẻ thù, do vậy cần thiết phải đổi
mới công tác quản lý giáo dục quốc phòng và an ninh nói chung và quản lý
hoạt động giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên học GDQP và AN nói riêng
trong tình hình hiện nay.
Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay đang đảm nhiệm giảng dạy môn
học GDQP và AN cho sinh viên 16 trường đại học và cao đẳng (có năm tham
gia giảng dạy cho cả học sinh trung học phổ thông) trên địa bàn thành phố Hà
Nội, tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Nhận thức đứng tầm quan ừọng của
việc tổ chức, quản lý, giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn


2

GDQP và AN nói chung, nâng cao chất lượng quản lý giáo dục kỷ luật quân
đội cho sinh viên học GDQP và AN nói riêng, những năm qua Trung tâm
GDQP Hà Nội 2 đã có nhiều biện pháp phù hợp nhằm quản lý chặt chẽ việc
dạy học cũng như duy trì kỷ luật quân đội, tác phong quân nhân đối với sinh
viên khi đến học tập trung. Nhờ đó mà chất lượng dạy học ở Trung tâm đã có
nhiều tiến bộ trên một số mặt, phong trào học tập sôi nổi, từng bước được

nâng lên, việc duy trì các chế độ nền nếp, quản lý giáo dục kỷ luật quân đội
cho sinh viên đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên chất lượng giáo
dục nói chung và quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên học GDQP
và AN nói riêng có những nội dung còn hạn chế, bất cập. Đáng quan tâm là
chất lượng, hiệu quả công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên
học GDQP và AN còn chưa thực sự được chú trọng, chưa đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ý
thức tổ chức kỷ luật, ý thức tự giác, kỹ năng vốn sống của sinh viên còn hạn
chế, tỷ lệ sinh viên vi phạm kỷ luật ngày càng có chiều hướng gia tăng.
Trong những năm qua, công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho
sinh viên của các trường đại học, cao đẳng được Bộ giáo dục và đào tạo phân
luồng học tập trung môn Giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm GDQP
Hà Nội 2 đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, trong quá trình
quản lý tổ chức và thực hiện còn bộc lộ một số hạn chế bất cập như: Nhận
thức của cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên trong Trung tâm về giáo
dục kỷ luật chưa sâu sắc, đội ngũ cán bộ quản lý sinh viên không chuyên
trách, thường phải kiêm nhiệm làm nhiều công việc khác nhau, sự phối hợp
giữa các phòng, khoa, và các bộ phận chức năng trong Trung tâm có lúc còn
chưa chủ động, hệ thống các văn bản, quy định về quản lý sinh viên chưa
đồng bộ. Các hoạt động tổ chức đoàn thể có lúc còn đơn điệu, chưa thu hút
được đông đảo sinh viên tham gia, vai trò của cán bộ, giảng viên trong công


3

tác quản lý giáo dục chưa thực sự quan tâm và sâu sát trong việc rèn luyện
nền nếp, tác phong trong học tập và sinh hoạt của sinh viên...Trước những
yêu càu của thực trạng đó, đòi hỏi công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội
cho sinh viên càn được quan tâm đứng mức. Đổi mới và nâng cao chất lượng
công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên nhằm giáo dục cho

sinh viên tính tự giác, tích cực trong học tập, tự tu dưỡng rèn luyện, nâng cao
ý thức cảnh giác cách mạng, phẩm chất đạo đức; tác phong nghề nghiệp để
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đây là những vấn đề càn thiết mà
các Trung tâm GDQP và AN đang tìm kiếm biện pháp, giải pháp thực hiện.
Thực trạng trên đặt ra cho những người làm công tác quản lý ở Trung
tâm GDQP Hà Nội 2 và các nhà nghiên cứu cần phải tổng kết, đúc rút kinh
nghiệm, nghiên cứu tìm ra những biện pháp quản lý phù hợp, nhằm nâng cao
chất lượng dạy học nói chung, công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho
sinh viên nói riêng. Do vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Quản lý giáo dục kỷ luật
quân đội cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 ” làm đề tài luận văn
cao học, chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số biện pháp quản lý
giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên nhằm góp phàn nâng cao chất lượng
trong công tác quản lý và đào tạo đáp ứng yêu càu nhiệm vụ của Trung tâm
GDQP Hà Nội 2 trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên.
- Đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân ưu điểm, khuyết điểm quản lý
giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh
viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay nhằm góp phần nâng cao chất


4

lượng dạy học môn GDQP và AN nói chung, nâng cao chất lượng quản lý
giáo dục kỷ luật quân đội nói riêng.
- Khảo nghiệm tính càn thiết và khả thi của các biện pháp.
4. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu

4.1. Đổi tượng nghiên cứu
Thực trạng công tác giáo dục kỷ luật quân đội cho cho sinh viên ở
Trung tâm GDQP Hà Nội 2; từ đó đề xuất 1 số biện pháp quản lý giáo dục kỷ
luật quân đội cho cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
4.2. Phạm vỉ nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng học tập trung chương trình giáo dục quốc phòng
và an ninh ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.Nhỏm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu; để nghiên cứu tác giả đã
thu thập, tổng hợp phân tích các tài liệu liên quan.
Phương pháp khái quát hóa nhận định khách quan: dựa trên những
nhận định, đánh giá, góp ý kiến của các chuyên gia, các nhà giáo.
Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, mô hình hóa, khái quát hóa.
Các tài liệu liên quan phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
gồm: Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng; chỉ thị, nghị định, nghị quyết của
Chính phủ; thông tư, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng
về GDQP và AN; Luật Giáo dục, Luật GDQP và AN, Chiến lược phát triển
giáo dục; Điều lệnh quản lý bộ đội QĐNDVN, Điều lệnh đội ngũ
QĐNDVN...


5

Các giáo trình, sách tham khảo, tài liệu về khoa học quản lý và quản lý
giáo dục; các công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài
đã được công bố và đăng tải ừên các tạp chí, kỷ yếu khoa học, hội thảo...

5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra: điều tra bằng phiếu câu hỏi với cán bộ, giảng
viên, nhân viên và sinh viên học GDQP và AN tại Trung tâm.
Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát các sinh hoạt, hoạt động của
sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 cũng như công tác quản lý giáo dục
kỷ luật quân đội của các cán bộ quản lý sinh viên nhằm thu thập các tư liệu.
Phương pháp phỏng vấn: Tiến hành trao đổi trực tiếp với các sinh viên
ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2, các cán bộ quản lý sinh viên và các phòng,
khoa, các bộ phận có liên quan.
5.3. Phương pháp thống kê
Xử lý số liệu, kết quả nghiên cứu.
Nhận định đánh giá chính xác, khách quan kết quả nghiên cứu.
6. Giả thuyết khoa học
Để nâng cao chất lượng dạy học môn GDQP và AN cho sinh viên ở
Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay phụ thuộc vào sự tác động tổng hợp của
nhiều yếu tố, trong đó công tác quản lý sinh viên nói chung và quản lý giáo
dục kỷ luật quân đội cho sinh viên có vai trò hết sức quan trọng. Nếu nội dung
này được coi trọng đứng mức, thực hiện đồng bộ; phân tích đánh giá đứng
thực trạng công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên hiện nay,
tìm ra được nguyên nhân tồn tại; đề xuất một số biện pháp quản lý giáo dục
kỷ luật quân đội cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 phù họp, hiệu
quả thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo môn học GDQP và
AN, góp phàn giáo dục con người phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ giáo dục đào tạo trong tình hình hiện nay.


6

Chương 1
C ơ SỞ LÝ LUẬN VÈ QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI

CHO SINH VIÊN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Vấn đề kỷ luật nói chung đã được đề cập từ rất lâu cùng với sự tồn tại
phát triển của xã hội loài người. Trong bất cứ một cộng đồng nào, một xã hội
nào, dù lớn hay nhỏ, cũng càn phải có kỷ luật hay qui luật để bảo đảm lợi ích
cho cộng đồng và từng cá nhân.
Kỷ luật là những quy định cho một tập thể nào đó để tập thể làm việc
có hiệu quả. Tính chất của kỷ luật là bắt buộc, nếu có ai đó không tuân theo
thì sẽ bị phạt. Kỷ luật là những quy định, quy ước của một cộng đồng (tập
thể) về những hành vi cần tuân theo nhằm đảm bảo sự phối hợp, hành động
thống nhất, chặt chẽ của mọi người.
Kỷ luật là sự rèn luyện đặc biệt về tinh thần và tính cách nhằm tạo ra sự
tự chủ, phục từng. Kỷ luật giúp đào tạo con người, nhờ có kỷ luật năng lực
con người được tập trung để hướng đến một mục tiêu, nhờ đó để đi tới chỗ
thành công.
Kỷ luật hay qui luật là những phép tắc đặt ra để ngăn ngừa sự phóng
túng, có thể làm hại cho bản thân hay cho người khác. Kỷ luật đem lại cho
chứng ta nhiều lợi ích cả tinh thần lẫn vật chất. ích lợi tinh thần là giúp ta
hoàn thiện con người mình. Kỷ luật là khuôn mẫu và thước đo để rèn luyện
con người. Một đời sống có kỷ luật ví như một tòa nhà có họa đồ kích
thước...


7

Ở Việt Nam kỷ luật cũng đã có từ rất lâu, kỷ luật luôn gắn liền với công
cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Trong phạm vi nghiên cứu của
luận văn tác giả chỉ đi sâu vào lược sử kỷ luật trong quân đội nhân dân Việt
Nam. Như chứng ta đã biết Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách

mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ; trung thành với Tổ quốc; gắn
bó máu thịt với nhân dân lao động các dân tộc anh em trên đất nước Việt
Nam; đoàn kết với bạn bè quốc tế; tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng,
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Sinh thời
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề kỷ luật trong quân đội, một
quân đội mà không có kỷ luật thì không thể lớn mạnh và trưởng thành được.
Hơn 70 năm xây dựng quân đội cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
và kỷ luật trong quân đội đã trở thành di sản tư tưởng, lý luận quý báu, là một
trong những nguyên tắc căn bản xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, bảo
đảm sự lãnh đạo, chỉ huy tập trung, thống nhất của Đảng, của cấp trên; phát
huy tinh thần dân chủ sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ ừong quân đội, đồng thời
giúp cho toàn quân nâng cao ý chí chiến đấu, đề cao tinh thần làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết, vượt qua mọi khó
khăn, gian khổ, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước, xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Một nét đặc trưng tiêu biểu của kỷ luật quân đội đó là tinh thần kỷ luật
tự giác cao. Tinh thần “quân lệnh như sơn” ở đây đã được thực hiện bằng tình
đồng đội, tình “huynh đệ”, và nhiều hơn, chính là lòng tự trọng, danh dự.
Tinh thần kỷ luật cao đồng thời chính là cội nguồn tạo thành sức mạnh
bách chiến, bách thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.


8

Và để duy trì kỷ luật trong quân đội, Bộ quốc phòng đã ban hành hệ
thống văn bản để nhằm duy trì kỷ luật thống nhất trong toàn quân đối với mọi
quân nhân, công nhân viên quốc phòng, lao động hợp đồng. Trong đó phải kể
đến đó chính là Điều lệnh quản lý bộ đội QĐNDVN; Điều lệnh đội ngũ
QĐNDVN; các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, thông tư ...

Tuy nhiên các công trình nghiên cứu để đưa vấn đề kỷ luật quân đội
vận dụng, áp dụng đối với sinh viên học GDQP và AN hiện nay cũng còn rất
ít, chưa được phổ biến rộng rãi. Dưới đây là một số công trình, kỷ yếu khoa
học, bài viết có liên quan ít nhiều đến công tác quản lý giáo dục kỷ luật quân
đội cho sinh viên học môn GDQP và AN đó là:
Trung tâm GDQP Hà Nội 2: “Nâng cao chất lượng cồng tác quản lý,
rèn luyện sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 ”, Kỷ yếu hội thảo khoa học,
tháng 4/2013.
Tác giả Nguyễn Thành Công: “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất
lượng môn học giáo dục quốc phòng, an ninh cho học sinh, sinh viên tại
Trung tâm GDQP - AN Đà Nằng”, Tạp chí Dân quân tự vệ - Giáo dục quốc
phòng, quý II, năm 2012, trong các nội dung giải pháp nâng cao chất lượng
môn học giáo dục quốc phóng và an ninh tác giả đã đi sâu luận giải biện pháp
quan trọng là phải tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đội ngũ
giảng viên ở trung tâm này để đáp ứng yêu càu nhiệm vụ được giao, từ đó
nâng cao chất lượng công tác quản lý, rèn luyện sinh viên.
Tác giả Bùi Văn Ga, Bộ giáo dục và đào tạo: “Ket quả, kinh nghiệm đào tạo
giảo viên giảo dục quốc phòng, an ninh (2002-2012), giải pháp phát triển giảo
dục quốc phòng, an ninh những năm tiếp theo của Bộ Giảo dục và Đào tạo”, Tạp
chí Dân quân tự vệ - Giáo dục quốc phòng, số 58, tháng 7/2012. Trong các giải
pháp những năm tiếp theo để nâng cao chất lượng công tác này tác giả rất quan
tâm đến giải pháp phải giáo dục, rèn luyện đào tạo đội ngũ giáo viên làm công tác


9

giáo dục quốc phòng, an ninh nhất là về phương pháp tác phong sư phạm, phẩm
chất đạo đức, lối sống là tấm gương để sinh viên noi theo.
Tác giả Nguyễn Thiện Minh, Vụ giáo dục quốc phòng: “Những vẩn đề cơ
bản cần tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy, học giảo dục quốc phòng và

an ninh cho học sinh, sinh viên năm học 2012-2013 và những năm tiếp theo”, Tạp
chí Dân quân tự vệ - Giáo dục quốc phòng, tháng 8, năm 2012, số 59, tác giả cũng
chỉ rõ vấn đề cơ bản là phải giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên gáo dục quốc phòng và an ninh.
Nhìn tổng thể, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu cơ
bản nào đề cập toàn diện đến cơ sở lý luận, thực tiễn công tác quản lý giáo
dục kỷ luật quân đội cho sinh viên ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2. Vì vậy, việc
nghiên cứu làm rõ về lý luận, thực tiễn, đánh giá đứng thực trạng, đề xuất các
giải pháp để quản lý giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên ở Trung tâm
GDQP Hà Nội 2 là càn thiết, nó góp phàn nâng cao chất lượng giảng dạy và
rèn luyện xây dựng bản lĩnh, tác phong và ý thức tổ chức, kỷ luật cho sinh
viên khi học tập ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 hiện nay.
1.2. Môt số khái niêm cơ bản




1.2.1. Quản lý
Để tồn tại và phát triển, con người không thể hành động riêng lẻ mà càn
phối hợp những nỗ lực cá nhân hướng tới những mục tiêu chung. Quá trình
tạo ra của cải vật chất và tinh thần, ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn
với tính chất và độ phức tạp ngày càng cao, càng đòi hỏi sự phân công và hợp
tác để liên kết mọi người ừong tổ chức. Chính từ sự phân công, chuyên môn
hóa lao động đã xuất hiện một dạng lao động đặc biệt - lao động quản lý. Hoạt
động quản lý cần thiết vói mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội, trong mỗi
quốc gia và trên toàn cầu. Vì vậy quản lý vừa có những đặc điểm chung, có
quan hệ hữu cơ với các hoạt động cụ thể khác, vừa có tính độc lập tương đối


10


và mang những đặc trưng riêng của nó. Chúng ta biết rằng, con người chỉ có
thể tồn tại và phát triển thông qua hoạt động để thỏa mãn những nhu cầu nhất
định. Bất kỳ hoạt động nào cũng được tiến hành theo quy trình: Chủ thể (con
người có ý thức) sử dụng những công cụ, phương tiện và các cách thức nhất
định để tác động vào đối tượng (con người, tự nhiên, xã hội, tư duy) nhằm đạt
tới mục tiêu (Sơ đồ 1.1).
Hoạt động
nói chung

Chủ thể

Công cụ w
Phương tiện

Đổi tượng ------- ^

Mục tiêu

Stf đồ 1.1. Quy trình của hoạt động sản xuất vật chất
Hoạt động sản xuất vật chất là loại hình hoạt động cơ bản nhất trong tất
cả các hoạt động của con người, đóng vai trò quyết định sự tồn tại, phát triển
của con người, xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất được thực hiện theo quy
trình: Chủ thể sản xuất (con người với kinh nghiệm, kỹ năng và tri thức lao
động của họ) sử dụng những công cụ, phương tiện, các cách thức sản xuất để
tác động vào đối tượng sản xuất nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của
con người.
Ngoài việc tuân theo quy trình hoạt động nói chung và hoạt động sản
xuất nói riêng, hoạt động quản lý còn có những đặc trưng riêng của nó. Tính
đặc thù của hoạt động quản lý so với hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện

trên tất cả các phương diện: chủ thể, đối tượng, công cụ, phương tiện, cách
thức tác động và mục tiêu. Sự phân biệt giữa hoạt động sản xuất vật chất và
hoạt động quản lý được minh họa bằng sơ đồ sau đây (Sơ đồ 1.2).

Sơ đồ 1.2. Quy trình của hoạt động quản lý


11

Tuy nhiên sự phân biệt giữa hoạt động quản lý và hoạt động sản xuất
vật chất có ý nghĩa tương đối và chỉ tồn tại trong lĩnh vực nhận thức. Trong
thực tế (về mặt bản thể luận), hoạt động quản lý có quan hệ hữu cơ với hoạt
động sản xuất và các hoạt động cụ thể khác của con người, bởi vì như chứng
ta đã biết: Quản lý là hoạt động tất yếu nảy sinh khi có sự tham gia hoạt động
chung của con người và vì vậy, nó là hoạt động mang tính phổ quát.
Từ xuất phát điểm như đã trình bày ở trên, kế thừa những nhân tố hợp
lý của cách tiếp cận và quan niệm về quản lý trong lịch sử tư tưởng quản lý,
có thể tổng hợp và rút ra một số cách hiểu về quản lý như sau:
- Quản lý là hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành
công việc qua những nỗ lực của người khác.
- Quản lý là phổi hợp có hiệu quả các hoạt động của những người cộng
sự khác trong cùng một tổ chức.
- Quản lý là hoạt động thiết yểu đảm bảo phổi hợp những nỗ lực cá
nhân nhằm đạt mục đích chung của cả nhóm.
- Quản lý là điều khiển con người và sự vật nhằm đạt mục tiêu đã định
trước.
- Hay đơn giản, quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó.
- Quản lý là tác động có ỷ thức, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ
thể quản ỉý tới đổi tượng quản lý để phổi hợp các nguồn lực nhằm thực hiện
mục tiêu của tổ chức trong điều kiện môi trường biển đổi.

- Mary Parker Follett cho rằng: “quản lý là nghệ thuật đạt được mục
đích thông qua no lực của người khác”. [39, tr.12].
Định nghĩa này nói lên rằng, những nhà quản lý đạt được các mục tiêu
của tổ chức bằng cách sắp xếp, giao việc cho những người khác thực hiện chứ
không phải hoàn thành công việc bằng chính mình.


12

- Koontz và O’Donnell định nghĩa: “Có lẽ không cỏ lĩnh vực hoạt động
nào của con người quan trọng hơn là công việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản
lý ở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kể và
duy trì một môi trường mà trong đó các cả nhân làm việc với nhau trong các
nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ, các mục tiêu đã định [39, tr.12].
- Một định nghĩa giải thích tương đối rõ nét về quản lý được James
Stonner và Stephen Robbins trình bày như sau: “Quản lý là tiến trình hoạch
định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hoạt động của các thành viên
trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tố chức nhằm đạt
được mục tiêu đã đề ra

[39, tr.12].

- Hiện nay đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất khái niệm về quản
lý như sau: Quản lý là quả trình tác động có chủ định, hướng đích của chủ
thể quản ỉý lên đổi tượng quản lý nhằm tạo ra các hoạt động hướng tới đạt
mục đích chung của tổ chức dưới sự tác động của môitrường.[39, tr.12].
Như vậy, quản lý là một hệ thống bao gồm những nhân tố cơ bản: chủ
thể quản lý; đối tượng quản lý; mục tiêu quản lý; công cụ, phương tiện quản
lý; cách thức quản lý và môi trường quản lý. Những nhân tố đó có quan hệ và
tác động lẫn nhau để hình thành nên quy luật và tính quy luật quản lý. Do vậy

quản lý có những đặc trưng cơ bản sau:
- Quản lý là hoạt động mang tính tất yếu và phổ biến.
- Hoạt động quản lý biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con
người.
- Quản lý là tác động có ý thức.
- Quản lý là tác động bằng quyền lực.
- Quản lý là tác động theo quy trình.
- Quản lý là hoạt động để phối hợp các nguồn lực.
- Quản lý nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu chung.


13

- Quản lý là hoạt động vừa có tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật.
- Mối quan hệ giữa quản lý và tự quản.
Và quản lý có 4 chức năng cơ bản đó là:
- Chức năng lập kế hoạch.
- Chức năng tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo.
- Chức năng kiểm tra.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, một quá trình, một hoạt động của xã
hội, vì thế nó cần phải được quản lý. Từ đó hình thành một dạng quản lý trong
hệ thống quản lý xã hội. Dạng quản lý này có tên gọi là: “Quản lý giáo dục”
Cũng như khái niệm quản lý nói chung, khái niệm quản lý giáo dục
cũng được biểu đạt một cách rất đa dạng, tùy theo những phương diện nghiên
cứu và tiếp cận của nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục. Điều này được chứng
minh bởi một số quan niệm về quản lý giáo dục được liệt kê dưới đây.
Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có
mục đích của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của

hệ thống,.. .nhằm đảm bảo việc giáo dục cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển
toàn diện, hài hòa của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật chung
của xã hội cũng như các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo
dục của sự phát triển thể chất, tâm trí của ừẻ em. Quản lý giáo dục theo định
hướng tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm
thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản ỉý giáo dục là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được các tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà


14

tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giảo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giảo
dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất”. [34, tr.12].
Tác giả Nguyễn Thành Vinh đã định nghĩa khái niệm quản lý giáo dục
như sau: “Quản lỷ giảo dục là một dạng quản lý của xã hội trong đỏ diễn ra
quả trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện
các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động để
gây ảnh hưởng đến đổi tượng quản lý được thực hiện trong lĩnh vực giảo dục,
nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự ổn định và phát triển của
giảo dục trong việc đáp ứng các yêu cầu mà xã hội đặt ra đổi với giáo dục ”.
[39, tr. 181-182].
Như vậy bản chất của Quản lý giáo dục, là một khoa học và một nghệ
thuật trong việc điều khiển, phối kết hợp các bộ phận, phân hệ và các cá nhân
trong phàn tử của hệ thống giáo dục nhằm đưa hệ thống đạt đến những trạng
thái phát triển mới về chất đáp ứng các yêu càu mà xã hội đặt ra cho ngành
giáo dục.
1.2.3. Kỷ luật quân đội

Như chúng ta đã biết Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách
mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ; trung thành với Tổ quốc; gắn
bó máu thịt với nhân dân lao động các dân tộc anh em trên đất nước Việt
Nam; đoàn kết với bạn bè quốc tế; tuyệt đối phục tùng sự lãnh đạo của Đảng,
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước; sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ những ngày đầu thành lập quân đội, cũng như khi bước vào
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định tầm quan trọng của kỷ luật quân đội là nền tảng thắng lợi
trong cuộc kháng chiến kiến quốc. Kỷ luật là sức mạnh của quân đội.
Hồ Chí Minh quan niệm kỷ luật đó là mọi việc đều phải theo mệnh


15

lệnh cấp trên; mệnh lệnh cấp trên ban xuống thì phải tuyệt đối phục tùng và
triệt để thi hành; mệnh lệnh từ trên xuống dưới, phải thấm xuống mỗi đội
viên; báo cáo từ dưới lên trên phải cho thật thà, nhanh chóng và thiết thực;
thưởng phạt phải công minh, chớ vì ưa ai mà thưởng, ghét ai mà phạt, ai thân
với mình thì dùng, ai trực tính nói ngay thì bỏ; là cá nhân phải tuyệt đối phục
tùng tổ chức, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa
phương phục tùng Trung ương... .Nói tóm lại, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, kỷ
luật trong quân đội là từ việc lớn đến việc nhỏ, từ đánh trận đến luyện quân,
từ giúp dân đến xây dựng đất nước, mọi việc cán bộ, chiến sĩ đều phải tuân
theo và triệt để thi hành mệnh lệnh của cấp trên, kỷ luật được thi hành bình
đẳng, nhất quán, triệt để từ ừên xuống dưới, không phân biệt đối xử.
Lịch sử hơn 70 năm xây dựng quân đội cho thấy, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ và kỷ luật trong quân đội đã trở thành di sản tư tưởng, lý
luận quý báu, là một ừong những nguyên tắc căn bản xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ huy tập trung, thống nhất của

Đảng, của cấp trên; phát huy tinh thần dân chủ sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ
trong quân đội, đồng thời giúp cho toàn quân nâng cao ý chí chiến đấu, đề
cao tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nâng cao ý thức tổ chức kỷ
luật, đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược, xây dựng đất nước, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ
và từng bước hiện đại.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng các vấn đề “dân
chủ”, “nhân quyền”, “pháp quyền” để chống phá sự nghiệp xây dựng đất
nước, xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa; đòi “phi chính trị hoá quân đội”, kêu gọi “quân đội đứng ngoài chính
trị”, hay đề cao chủ nghĩa cá nhân, lối sống tự do chủ nghĩa, ăn chơi hưởng
lạc, chạy theo danh lợi, vật chất tàm thường...là những mũi nhọn của chiến


16

lược “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch sử dụng hòng phá hoại về
chính trị, tư tưởng, dân chủ và kỷ luật của quân đội ta. Đe thực hiện tốt hơn
nữa vấn đề dân chủ và kỷ luật trong toàn quân, góp phàn xây dựng quân đội
vững mạnh toàn diện, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy các đơn
vị trong toàn quân phải không ngừng đẩy mạnh việc tuyên truyền, quán triệt
sâu sắc điều lệnh quân đội, các quy chế, quy định của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính ừị về giáo dục, rèn
luyện, quản lý kỷ luật, xây dựng chính quy; về tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt
Nam...Tích cực tuyên truyền, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo hơn
nữa tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật trong quân đội tạo cơ sở nền tảng,
thống nhất cao về tư tưởng, nhận thức và hành động trong toàn quân.
Do vậy ta có thể hiểu như sau: Kỷ luật của quân đội nhân dân Việt

Nam (gọi tẳt là kỷ luật quân đội) là kỷ luật của quân đội cách mạng, là kỷ
luật tự giác, nghiêm minh. Thông thường, kỷ luật mang tính bắt buộc, nhưng
kỷ luật của quân đội, bản chất là sự thống nhất giữa hai mặt “tự giác ” và
“nghiêm minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kỷ luật trong quân đội luôn là một trong
những vấn đề quan trọng định hướng, bảo đảm cho việc xây dựng quân đội
nhân dân thực sự cách mạng, trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Dân chủ tốt, kỷ
luật nghiêm vừa là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
vừa là truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, là sức mạnh chiến đấu của Quân
đội nhân dân Việt Nam.


17

1.2.4. Quản lý giáo dục kỷ luật quân đội
Quản lý giáo dục kỷ luật quân đội là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý tới khách thể quản lý nhằm giúp hoạt động giáo dục kỷ luật quân đội
đạt được kết quả mong muốn, làm cho tất cả mọi người có nhận thức đúng
đắn về tầm quan trọng, tính cấp thiết của công tác giáo dục kỷ luật quân đội
đối vói sinh viên học GDQP và AN.
Kỷ luật quân đội là yếu tố quan trọng để sinh viên có ý thức hơn, có
trách nhiệm hơn và thật sự tự giác trong học tập, rèn luyện cũng như khi tham
gia các hoạt động khác.
Giáo dục kỷ luật quân đội là quá trình hình thành và phát triển ý thức tự
giác, nghiêm minh đồng thời đây cũng là một phẩm chất, nhân cách của sinh
viên biểu hiện trong việc tự giác điều khiển hành vi của bản thân tuân theo
những đòi hỏi của luật pháp nhà nước, điều lệnh, điều lệ, 12 điều kỷ luật và
các quy định của quân đội.
Mỗi sinh viên là một nhân cách hoạt động, để đáp ứng với yêu cầu hoạt

động, phải hình thành ở họ những phẩm chất nhân cách tương ứng, ừong đó
có tính kỷ luật. Tính kỷ luật có vai trò rất to lớn tạo ra cho sinh viên khả năng
làm chủ được mọi suy nghĩ, hành vi, hành động của bản thân, luôn luôn hành
động dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc chức trách, nhiệm vụ, những yêu càu
của pháp luật, quy định của quân đội, của Trung tâm với ý thức tự giác cao
chứ không phải dựa trên cơ sở của sự cưỡng bức và bắt buộc.
Như vậy, giáo dục kỷ luật quân đội cho sinh viên ở các Trung tâm
GDQP nói chung, và ở Trung tâm GDQP Hà Nội 2 nói riêng là hết sức quan
trọng, do vậy các nhà quản lý cần chú trọng vấn đề này để hoạt động quản lý
giáo dục kỷ luật quân đội ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.


18

1.3. Đặc điểm tâm lý của sinh viên học GDQP và AN ử Trung tâm GDQP
Hà Nội 2
Trước hết chúng ta nhận thấy rằng, sinh viên là một tàng lớp xã hội,
một tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi thể chế chính trị. Họ là nhóm
người có vị trí chuyển tiếp, chuẩn bị cho một đội ngũ tri thức có trình độ và
nghề nghiệp tương đối cao trong xã hội. Là nguồn cung cấp chủ yếu cho đội
ngũ những chuyên gia theo các nghề nghiệp khác nhau trong cấu trúc tầng lớp
tri thức xã hội. Các tổ chức chính trị, xã hội, gia đình đều đặt nhiều kỳ vọng
vào sinh viên. Điều này làm cho sinh viên có vai trò rõ rệt. Sinh viên là công
dân thực thụ của một đất nước với đầy đủ quyền hạn và nghĩa vụ trước pháp
luật. Họ có quyền bầu cử, ứng cử, phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi và
việc làm trước Bộ luật Hình sự, Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Hôn nhân và gia
đình...
Với ý nghĩa trên thì xã hội coi sinh viên là một thành viên chính thức,
một người trưởng thành. Tuy nhiên, do đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa
tham gia trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất nên các em chưa hoàn toàn là

người tự lập về mọi mặt so với những thanh niên cùng độ tuổi không học đại
học, phải tham gia lao động sớm. Vì vậy, tính chất trưởng thảnh của thanh
niên sinh viên có những nét đặc trưng riêng. Nhà tâm lý học người Pháp
Bianka Zazzo đã nghiên cứu tuổi trưởng thành của thanh niên sinh viên và đi
đến kết luận: Trình độ học vấn và vị trí xã hội của con người có ảnh hưởng
đến sự trưởng thành của họ. Những nghiên cứu của ông cho thấy, thanh niên
nông thôn trưởng thành về mặt xã hội sớm hơn thanh niên công nhân; thanh
niên sinh viên trưởng thành về mặt xã hội muộn nhất. Điều này là do càng
tham gia lao động sản xuất sớm thì tình cảm trách nhiệm, tình cảm nghĩa vụ
càng hình thành sớm, họ nhanh chóng sống độc lập và tách khỏi sự phụ thuộc
vào cha mẹ.


19

Mặt khác theo các nhà tâm lý học tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển
tích cực nhất của những loại tình cảm cao cấp như tình cảm trí tuệ, tình
cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Những tình cảm này biểu hiện rất phong
phú trong hoạt động và trong đời sống sinh viên. Đặc điểm của nó là tính
hệ thống và bền vững so với thời kỳ trước đó.
Đối với sinh viên học tập môn GDQP và AN tại Trung tâm GDQP
Hà Nội 2 rất đa dạng, phong phú, đến từ nhiều trường khác nhau, họ mang
theo những nét đặc trưng của từng trường, văn hoá vùng miền, truyền
thống gia đình, phong tục tập quán,....và đang theo học ở nhiều ngành
nghề khác nhau.
Sinh viên học môn GDQP và AN đến từ các trường Đại học, cao
đẳng chủ yếu là sinh viên năm thứ nhất và đàu năm thứ hai nên tuổi đời
còn rất trẻ, đại đa số sinh viên đã sống xa nhà, còn lại số ít là sinh viên
đang ở cùng nhà với bố mẹ với điều kiện là trường học gàn gia đình. Sinh
viên đang ở môi trường bên ngoài rất thoải mái trong sinh hoạt, học tập, tự

do đi lại ngoài giờ học... Khi vào môi trường quân đội được rèn luyện theo
các chế độ trong ngày, trong tuần hết sức gò bó, với tính kỷ luật cao. Ban
đầu nhiều sinh viên đã nản chí, tự ý bỏ ra ngoài đi chơi, chấp hành thời
gian ra vào cổng còn sai quy định, mang mặc sai tác phong, có trường hợp
còn có ý định xin về vì sợ không vượt qua được khóa học, tuy nhiên sau đó
được sự động viên kịp thời của các cán bộ quản lý sinh viên cũng như các
em đã nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của bản thân với môn học nên
100% sinh viên lên Trung tâm đều xác định quyết tâm khắc phục khó khăn,
vất vả để học tập và rèn luyện.
Đa số sinh viên học tập tại Trung tâm có trách nhiệm, ham hiểu biết, có
chí tiến thủ, thích cái mới, năng động nhưng đôi khi còn bồng bột. Đối với
môn GDQP và AN bên cạnh nhiều sinh viên có nhận thức đứng, có nhiều cố


×