Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
1
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CK: Chứng khoán
CTCK: Công ty chứng khoán
HĐKD: Hoạt động kinh doanh
QTRR: Quản trị rủi ro
TCBL: Tổ chức bảo lãnh
TCPH: Tổ chức phát hành
HĐQT: Hội đồng quản trị
UBCK: Ủy ban chứng khoán
TTCK: Thị trường chứng khoán
VSD: Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.
VKD: Vốn kinh doanh
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
2
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
DANH MỤC CÁC HÌNH
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
3
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua hơn 13 năm hình thành và phát triển, cho đến nay thị trường
chứng khoán Việt Nam được xem là thị trường khá sôi động mặc dù vẫn đang
chịu ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Trong thời điểm thị trường
phát triển mạnh đã có sự ra đời của hàng loạt các công ty chứng khoán lớn,
nhỏ thu hút hàng triệu các nhà đầu tư trong cả nước. Các công ty hoạt động
hầu hết đều có lãi lớn và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh
của mình. Tuy nhiên trong một vài năm trở lại đây khi thị trường chứng khoán
suy thoái đã bộc lộ nhiều yếu điểm trong hoạt động kinh doanh của các công
ty chứng khoán. Bằng chứng là hàng loạt các công ty chứng khoán làm ăn
thua lỗ phải vào diện kiểm soát đặc biệt, bị giải thể hoặc là phải sáp nhập với
một công ty chứng khoán khác mạnh hơn. Điều này càng gây thêm tâm lý
hoang mang cho nhà đầu tư. Lúc này điều cần thiết là phải tăng cường công
tác quản trị rủi ro trong công ty chứng khoán để đảm bảo cho các công ty có
thể hoạt động tốt, giảm thiểu rủi ro tới mức thấp nhất có thể. Công ty chứng
khoán là nhân tố không thể thiếu của một thị trường chứng khoán vì vậy chỉ
khi công ty hoạt động hiệu quả thì mới có thể giúp thị trường phát triển tốt.
Nhận thấy vai trò ngày càng quan trọng của công tác quản trị rủi ro trong
việc duy trì và phát triển hoạt động của các công ty chứng khoán hiện nay nên
em đã lựa chọn đề tài “ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN AGRISECO” làm đề tài luận văn.
Đối tượng và mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Quản trị rủi ro trong kinh doanh chứng khoán
gồm nhiều đối tượng nghiên cứu như hệ thống pháp luật về quản trị rủi ro,
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
4
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
xác định các loại rủi ro, đo lường rủi ro, giám sát rủi ro, báo cáo rủi ro và xử
lý rủi ro.
Mục đích nghiên cứu: Nắm được quy trình quản trị rủi ro trong công ty
chứng khoán, những ưu nhược điểm của hệ thống quản trị rủi ro. Bên cạnh đó
góp tiếng nói cùng với các nhà quản trị doanh nghiệp và cơ quan nhà nước
xây dựng hệ thống quản trị rủi ro trong kinh doanh chứng khoán tại các công
ty chứng khoán hiệu quả hơn.
Phạm vi nghiên cứu.
Công ty cổ phần chứng khoán AGRISECO Tầng 5, Toà nhà Artex, Số
172 Ngọc Khánh, Hà Nội
Thời gian nghiên cứu: Tháng 2/2014 – tháng 5/2014.
Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp phân tích số liệu, đối chiếu và so sánh số liệu.
Kết cấu luận văn.
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CTCK VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG KHOÁN.
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG KINH DOANH
CHỨNG KHOÁN TẠI CTCK AGRISECO.
Chương 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CTCK AGRISECO.
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
5
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ
QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CHỨNG
KHOÁN.
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1.1.1. Khái niệm và mô hình tổ chức CTCK
1.1.1.1. Khái niệm.
Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Thông qua các công ty chứng khoán hoạt động mua bán các loại chứng khoán
được diễn ra một cách thuận lợi và nhanh chóng, giúp cho dòng vốn trong nền
kinh tế được luân chuyển từ nơi dư thừa vốn đến nơi thiếu vốn.
Ở Việt Nam, theo điều 59 Luật sửa đổi bổ sung Luật Chứng Khoán của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2010: “Công ty chứng khoán
được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần theo quy định của Luật doanh nghiệp. Ủy Ban Chứng Khoán nhà nước
cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán. Giấy phép
này đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.”
Theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ trưởng
Bộ Tài Chính thì công ty chứng khoán là “tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt
động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt
động: môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư
chứng khoán.”
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
6
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
Như vậy, công ty chứng khoán là tổ chức hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực chứng khoán thông qua việc thực hiện 1 hoặc vài dịch vụ chứng
khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
1.1.1.2. Mô hình tổ chức.
Là một định chế tài chính đặc biệt, khác hẳn với các doanh nghiệp sản
xuất và thương mại thông thường. Mặt khác, TTCK cũng mang những đặc
trưng mà khác hẳn với các thị trường khác. Do đó, có thể khái quát mô hình
tổ chức kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán theo 2 nhóm sau:
• Mô hình công ty chứng khoán đa năng.
Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức
một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh
doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại
hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh
doanh tiền tệ. Mô hình này chia thành hai loạ
- Mô hình công ty chứng khoán đa năng một phần: Các ngân hàng
muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty độc lập
hoạt động tách rời.
- Mô hình công ty chứng khoán đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng
được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh
tiền tệ.
Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh
vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc
đa dạng hóa đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả năng
chịu đựng của ngân hàng trước những biến động trên thị trường tài chính. Mặt
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
7
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh
tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng cũng
như các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự
án.
Tuy nhiên, do khó tách bạch được hoạt động ngân hàng và hoạt động
kinh doanh chứng khoán, trong điều kiện môi trường pháp luật không lành
mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường, và khi đó
các biến động trên thị trường chứng khoán sẽ tác động mạnh tới kinh doanh
tiền tệ, gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính.
Bên cạnh đó, do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, nên các
ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng
khoán, và khi thị trường chứng khoán biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác
động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất
khả năng chi trả. Do những hạn chế như vậy, nên sau khi khủng hoảng thị
trường tài chính 1929 - 1933, các nước đã chuyển sang mô hình chuyên
doanh, chỉ có một số thị trường ( như Đức) vẫn còn áp dụng mô hình này.
• Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh.
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công
ty độc lập và chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các
ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân
hàng, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán đi vào chuyên môn hóa sâu
trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Mô hình này
được áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật và các thị trường mới
nổi như Hàn Quốc, Thái Lan...
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
8
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ
nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực
tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành các công ty mẹ,
công ty con có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc lập
với nhau.
1.1.2 Các nguyên tắc hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán hoạt động theo 2 nhóm nguyên tắc cơ bản đó là
nhóm nguyên tắc đạo đức và nhóm nguyên tắc tài chính.
1.1.2.1
Nguyên tắc tài chính
Do tính đặc thù trong hoạt động, kinh doanh chứng khoán là ngành
kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt,có ảnh hưởng tới lợi ích của công chúng
đầu tư nên sự tồn tại ổn định lâu dài của công ty chứng khoán và sức mạnh tài
chính của tổ chức này trong một môi trường biến động cần được đảm bảo. Để
bảo vệ lợi ích của công chúng đầu tư và sự ổn định của thị trường chứng
khoán, hầu hết các nước đặt ra nguyên tắc, quy định chặt chẽ về tài chính đối
với các tổ chức kinh doanh chứng khoán:
• Mức vốn hoạt động:
CTCK phải có đủ vốn theo quy định của pháp luật đảm bảo nguồn tài
chính trong cam kết với khách hàng và đủ năng lực tài chính để giải quyết
những rủi ro có thể phát sinh trong quá trình kinh doanh. Tùy thuộc vào
nghiệp vụ kinh doanh mà đưa ra các mức vốn pháp định khác nhau:
- Môi giới chứng khoán : 25 tỷ đồng
- Tự doanh : 100 tỷ đồng
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
9
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
- Bảo lãnh phát hành: 165 tỷ đồng
- Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng
- Kinh doanh cả 4 loại hình nghiệp vụ trên: 300 tỷ đồng
Vốn hoạt động kinh doanh ít nhiều phụ thuộc vào loại tài sản cần tài
trợ, loại tài sản này phụ thuộc vào loại hình nghiệp vụ thực hiện. Bảo lãnh
phát hành chứng khoán là hình thức kinh doanh mà CTCK cần có tiềm lực tài
chính mạnh, nhiều vốn, nhất là trương hợp CTCK đứng ra bảo lãnh những đợt
phát hành lớn hay bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn. Do vậy mà
nghiệp vụ này đòi hỏi vốn phải đủ lớn( 165 tỷ đồng).
• Cơ cấu vốn hợp lý, có khả năng thanh khoản và có chất lượng tốt để thực hiện
kinh doanh với hiệu quả cao.
Việc huy động vốn của CTCK thông qua việc nhận vốn góp của các cổ
đông hoặc huy động từ bên ngoài, tùy theo mô hình hoạt động. việc huy động
vốn và cơ cấu vốn của các CTCK có đặc điểm:
−
Tổ chức kinh doanh chứng khoán chủ yếu phụ thuộc nhiều vào các khoản vay
ngắn hạn
−
Chứng khoán có thể mua bán trao đổi trên thị trường thường chiếm phần lớn
trong tổng giá trị tài sản( khoảng 40- 60%) và tổng giá trị cổ phiếu (khoảng
90%)
−
Tỷ lệ tổng nợ trên tổng tài sản ròng phải duy trì ở mức độ nhất định
• Quản lý vốn và hạn mức kinh doanh:
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
10
10
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
Các nguyên tắc về quản lý vốn và hạn mức kinh doanh khác nhau tùy
theo từng nghiệp vụ mà CTCK thực hiện.
Các nguyên tắc về sử dụng vốn bao gồm: cơ cấu vốn,mức vốn khả
dụng phải duy trì, trích lập quỹ bù đắp rủi ro, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ,
…. Đối với việc quản lý hạn mức kinh doanh, thông thường có các quy định
để hạn chế tủi ro đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán cũng như hạn
chế các xung đột lợi ích có thể xảy ra:
- Hạn chế mức mua sắm tài sản cố định theo một tỷ lệ phần trăm trên vốn điều
lệ
- Hạn mức đầu tư vào mỗi loại chứng khoán: thường hạn mức đầu tư vào các
loại chứng khoán niêm yết cao hơn hạn mức dầu tư vào các loại chứng khoán
chưa niêm yết.
- Hạn mức đầu tư vào các loại tài sản rủi ro cao như các loại trái phiếu có định
mức tín nhiệm thấp hay cổ phiếu của các công ty đang phát triển
- Hạn mức bảo lãnh phát hành
- Hạn mức đầu tư vào các quỹ đầu tư do tổ chức kinh doanh chứng khoán quản
lý
Các CTCK phải thực hiện chế độ tài chính theo quy định của nhà nước
(thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước, tuân thủ các quy định về tài chính
theo pháp luật và thực hiện báo cáo tài chính đầy đủ trung thực)
1.1.2.2
Nguyên tắc đạo đức
Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là tập
hợp những chuẩn mực, cách cư xử, và ứng xử trong nghề nghiệp kinh doanh
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
11
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
chứng khoán nhằm bảo vệ, tăng cường vai trò, tính tin cậy và niềm tự hào của
nghề kinh doanh chứng khoán trong xã hội. Các chủ thể kinh doanh chứng
khoán phải tuân thủ những nguyên tắc đạo đức sau:
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải hoạt động trên nguyên tắc trung thực,
tận tụy, bảo vệ và vì quyền lợi, lợi ích hợp pháp của khách hàng, ưu tiên bảo
vệ lợi ích của khách hàng trước lợi ích của chính mình.
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng
và chỉ được tiết lộ thông tin của khách hàng trong trường hợp cơ quan nhà
nước có thẩm quyền yêu cầu.
- Tổ chức kinh doanh chứng khoán phải giữ nguyên tắc giao dịch công bằng,
không được sử dụng bất kì hành động lừa đảo phi pháp nào, có trách nhiệm
thông báo cho khách hàng biết đầy đủ thông tin khi có những trường hợp có
thể xảy ra xung đột lợi ích.
- Công ty chứng khoán không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài
chính để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp số tiền đó dùng phục vụ cho giao
dịch của khách hàng.
- Công ty chứng khoán phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với
tài sản của mình. Công ty chứng khoán không được dùng chứng khoán của
khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn trừ trường hợp được khách hàng
đồng ý bằng văn bản
- Công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin
đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có
thể phải gánh chịu, đồng thời không được khẳng định về lợi nhuận các khoản
đầu tư mà họ tư vấn.
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
12
12
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
- Công ty chứng khoán không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài
các khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình.
Ngoài ra pháp luật cũng quy định về điều khoản chống thao túng thị
trường, giao dịch nội dán sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng
khoán cho chính mình, gây thiệt hại tới lợi ích của khách hàng.
1.1.3 Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán
CTCK có vai trò quan trọng trên TTCK, là tổ chức trung gian, cầu nối
giữa nhà phát hành và các nhà đầu tư trên thị trường, ngoài ra CTCK cũng là
nhà đầu tư trực tiếp trên thị trường.
1.1.3.1
Vai trò huy động vốn
Công ty chứng khoán là một trong những trung gian tài chính có chức
năng huy động vốn. Hay nói cách khác công ty chứng khoán có vai trò làm
chiếc cầu nối và là kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó
của nền kinh tế có dư thừa vốn (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền
kinh tế đang thiếu vốn (cần huy động vốn). Các công ty chứng khoán thường
đảm nhận vai trò này qua các hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và
môi giới chứng khoán.
1.1.3.2
Vai trò hình thành giá cả chứng khoán
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán cho các tổ chức phát hành, công ty chứng khoán thực hiện vai
trò hình thành giá cả chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ
chức phát hành mức giá phát hành hợp lý đối với các chứng khoán trong đợt
phát hành. Thông thường mức giá thường do các công ty chứng khoán xác
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
13
13
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
định dựa trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thỏa thuận với các nhà đầu tư tiềm
năng lớn trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Trên thị trường thứ cấp, dù là thị trường đấu lệnh hay thị trường đấu
giá, công ty chứng khoán luôn có vai trò giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng
thực tế và chính xác về các khoản đầu tư của mình.
Công ty chứng khoán còn có chức năng quan trọng là can thiệp trên thị
trường,, góp phần điều tiết giá cả chứng khoán. Theo quy định của các nước,
công ty chứng khoán bắt buộc phải dành ra một tỷ lệ nhất định của mình để
mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán trên thị trường đang giảm và bán
ra khi giá chứng khoán đang cao.
1.1.3.3
Vai trò thực thi tính hoán tệ của chứng khoán
Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành
chứng khoán và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty
chứng khoán đảm nhận được chức năng chuyển đổi này, giúp cho nhà đầu tư
ít phải chịu thiệt hại nhất khi tiến hành đầu tư. Trong hầu hết các nghiệp vụ
đầu tư ở sở giao dịch chứng khoán và thị trường phi tập trung, một nhà đầu tư
có thể hằng ngày chuyển đổi tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại mà
không chịu thiệt hại đáng kể đối với giá trị khoản đầu tư của mình (ít nhất thì
cũng không chịu thiệt hại do cơ chế giao dịch chứng khoán gây nên). Nói
cách khác, có thể có một số nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến giá trị đầu tư,
chẳng hạn như tin đồn về một vấn đề nào đó trong nền kinh tế, nhưng giá trị
khoản đầu tư nói chung không giảm đi do cơ chế giao dịch của thị trường.
1.1.3.4
Vai trò thực hiện tư vấn đầu tư
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
14
14
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
Các công ty chứng khoán không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách
hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau thông qua việc
nghiên cứu thị trường rồi cung cấp các thông tin đó cho các công ty và các cá
nhân đầu tư. Dịch vụ tư vấn có thể gồm:
-
Thu thập thông tin phục vụ cho mục đích của khách hàng
-
Cung cấp thông tin về các khả năng đầu tư khác nhau cũng như
triển vọng ngắn và dài hạn của các khoản đầu tư đó trong tương lai
-
Cung cấp thông tin về chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ
liên quan đến các khoản đầu tư mà khách hàng đang cân nhắc.
1.1.4 Các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán
1.1.4.1
Nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian mua bán chứng khoán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng, làm dịch vụ nhận lệnh mua, lệnh bán
chứng khoán của khách hàng, chuyển các lệnh đó vào SGD chứng khoán và
nhận hoa hồng môi giới. Nghiệp vụ môi giới còn được hiểu là làm đại diện –
được ủy quyền thay mặt khách hàng mua bán một hoặc một số loại chứng
khoán.
Quy trình nghiệp vụ môi giới:
- Mở tài khoản chứng khoán cho khách hàng,
- Nhận các lệnh mua hoặc bán cho khách hàng,
- Chuyển lệnh tới thị trường phù hợp để thực hiện lệnh
- Xác nhận kết quả thực hiện lệnh của khách hàng
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
15
15
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
- Thanh toán và quyết toán các doanh vụ,
Theo quy định của luật Chứng khoán Việt Nam, để thực hiện nghiệp vụ
môi giới CTCK tối thiểu phải đạt mức vốn pháp định là 25 tỷ đồng.
Thực hiện nghiệp vụ này CTCK thu phí môi giới từ khách hàng, phí
môi giới thường được tính theo tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị giao dịch.
Trong hoạt động môi giới, quyết định mua bán chứng khoán là do
khách hàng đưa ra và người môi giới phải thực hiện theo lệnh đó. Người môi
giới đứng tên mình thực hiện các giao dịch theo lệnh của khách hàng và phải
tách bạch tiền, chứng khoán trên tài khoản của khách hàng với tiền, chứng
khoán của CTCK.
1.1.4.2
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán là dịch vụ có tính phí thông qua một số loại
đầu tư đặc biệt, hoặc là chỉ cung ứng tư vấn qua bản tin, dịch vụ quản lý tiền
khách hàng.
Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động liên quan đến chứng
khoán hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích, đưa ra lời khuyên có
liên quan đến chứng khoán hoặc thực hiện một số công việc có tính chất dịch
vụ cho khách hàng. Tư vấn đầu tư bao gồm tư vấn mua bán chứng khoán, tạo
dựng danh mục đầu tư và quản trị, điều hành tài sản đầu tư.
Hoạt động tư vấn đầu tư cũng phải đảm bảo mức vốn pháp định tối
thiểu là 10 tỷ đồng. Hoạt động tư vấn đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng
chuyên môn. Đây là hoạt động có sự quản lí chặt chẽ và có yêu cầu cao khi
hành nghề vì nó liên quan trực tiếp đến việc ra quyết định của khách hàng.
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
16
16
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
1.1.4.3
Học viện tài chính
Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc CTCK mua và bán chứng khoán cho
riêng mình, rủi ro từ hoạt động này do chính công ty chịu. Hoạt động tự
doanh chứng khoán là việc mua và bán chứng khoán cho chính mình nhằm
thu được chênh lệch giá và các khoản thu nhập khác từ đầu tư chứng khoán.
Để thực hiên nghiệp vụ tự doanh, CTCK tại Việt Nam cần đạt mức vốn
pháp định tối thiểu là 100 tỷ đồng.
Thực hiện nghiệp vụ tự doanh, CTCK có được nhiều lợi thế như có
nguồn dự trữ đảm bảo khả năng thanh toán, can thiệp bảo vệ giá chứng khoán.
Trên hết việc đầu tư chứng khoán đem lại cho các CTCK các khoản lợi nhuận
từ chênh lệch giá mua, bán chứng khoán và khoản lợi nhuận từ lợi tức chứng
khoán. Tuy nhiên đây cũng là nghiệp vụ nhiều rủi ro nhất của CTCK.
1.1.4.4
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh cam kết với tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua toàn bộ
hay một phần chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại, hoặc mua nốt số
chứng khoán chưa phân phối của tổ chức phát hành, hoặc hỗ trợ tổ chức phát
hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh tham gia một
cách trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình phát hành chứng khoán nhằm tư vấn
tài chính cho nhà phát hành, giúp nhà phát hành thực hiện các thủ tục trước
khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình
ổn giá chứng khoán trong thời gian sau đợt phát hành chứng khoán.
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
17
17
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
Bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương
thức sau:
•
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà
theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành
cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không.
•
Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức
thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ
phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải
bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán
cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên
ngoài.
•
Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo
đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát
hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam
kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không
phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
•
Bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không: trong phương
thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng
khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
•
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức
trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức
bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu
cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn).
Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
18
18
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ
thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các Công Ty Chứng Khoán thu về
hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể là tùy phụ thuộc
vào từng Công Ty Chứng Khoán vào hình thức bảo lãnh.
Theo quy định của Pháp luật, mức vốn pháp định để thực hiện nghiệp
vụ này là 165 tỷ đồng.
1.1.4.5
Các nghiệp vụ khác
Ngoài các hoạt động nghiệp vụ trên công ty chứng khoán còn có thể
thực hiện các nghiệp vụ khác như: lưu kí chứng khoán, tín dụng chứng khoán,
quản lý sổ cổ đông, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn sáp nhập, hợp nhất,
tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, kinh doanh bảo hiểm, quản lý vốn….
• Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách
hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán thông qua các tài
khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng
khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung được thực hiện
dưới hình thức giao dịch ghi sổ. Khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng
khoán tại các CTCK nếu các chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ
hoặc ký gửi các chứng khoán nếu chúng được phát hành dưới hình thức
chứng chỉ vật chất.
• Nghiệp vụ tín dụng chứng khoán
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
19
19
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
Đối với TTCK phát triển, bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán
cho khách hàng để hưởng hoa hồng. CTCK còn triển khai dịch vụ cho khách
hàng vay chứng khoán để thực hiện giao dịch bán khống (short sale) hoặc cho
khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện mua ký quỹ. Ở Việt Nam hiện
nay, các CTCK không được thực hiện hoạt động tín dụng.
CTCK đứng ra làm trung gian giúp khách hàng tiếp cận và vay vốn của
ngân hàng, đồng thời CTCK giup ngân hàng phong toả các chứng khoán làm
tài sản thế chấp cho các khoản vay.
1.2. Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng
khoán.
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng
khoán.
1.2.1.1. Khái niệm.
Rủi ro: Là sự chênh lệch giữa lợi nhuận thực tế và lợi nhuận kỳ vọng.
Các biến động xảy ra không như dự đoán làm thay đổi giá trị mong đợi của
một chiến lược kinh doanh/đầu tư. Dù muốn hay không thì mọi hoạt động
kinh doanh, đầu tư đều chứa đựng rủi ro. Do đó, không có cách nào khác là
chúng ta chấp nhận sự xuất hiện của rủi ro như một tất yếu. Điều quan trọng
là chúng ta cần tìm hiểu về bản chất, đặc điểm của từng loại rủi ro để xác định
mức độ rủi ro của công cụ mà chúng ta đầu tư.
Rủi ro trong hoạt động KDCK: Là các sự kiện không chắc chắn có thể
xảy ra trong hoạt động kinh doanh, gây ảnh hưởng bất lợi tới việc thực hiện
các mục tiêu kinh doanh của công ty chứng khoán.
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
20
20
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
1.2.1.2. Các loại rủi ro trong KDCK của CTCK.
*Rủi ro thanh toán: Là rủi ro xảy ra khi đối tác không thể thanh toán
đúng hạn hoặc không thể chuyển giao tài sản đúng hạn như cam kết.
Hiện nay, nhiều công ty chứng khoán cho khách hàng sử dụng tỷ lệ đòn
bẩy tài chính nhất định và đặc biệt là đối với các khách hàng lớn thì tỷ lệ này
đôi khi còn cao hơn rất nhiều. Do đó các CTCK sẽ dễ phải gánh chịu những
khoản lỗ nếu như khách hàng mất khả năng thanh toán.
*Rủi ro thanh khoản: Là rủi ro xảy ra khi CTCK không thể thanh toán
các nghĩa vụ tài chính đến hạn hoặc không thể chuyển đổi các công cụ tài
chính thành tiền mặt với giá trị hợp lý trong ngắn hạn do thiếu hụt thanh
khoản trong thị trường. Khi thanh khoản thị trường biến động đột ngột và bất
thường thì rủi ro cho CTCK là rất lớn với nghiệp vụ tự doanh và cho vay ký
quỹ hay trong tương lai là các hoạt động vay mượn chứng khoán và sản phẩm
quyền chọn.
*Rủi ro tín dụng: Là rủi ro mà công ty chứng khoán có khả năng không
thu được nợ hoặc khách hàng không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Rủi ro này xảy ra trong quá trình cung cấp dịch vụ kỹ quỹ (Margin) cho
khách hàng, nhiều CTCK đã phải chấp nhận một khoản lỗ lớn vì nắm giữ một
lượng lớn cổ phiếu có thị giá thấp hơn giá gốc khi khách hàng chối bỏ trách
nhiệm nộp thêm tiền vào tài khoản. Mặc dù giao dịch ký quỹ là một công cụ
tốt để cạnh tranh và hỗ trợ cho việc mở rộng thị phần của các CTCK nhưng
cần phải quản trị rủi ro này tốt để tránh được khoản lỗ lớn.
*Rủi ro hoạt động: Là rủi ro mà mọi công ty đều nhận thức được và sẵn
sàng chấp nhận để có được những cơ hội kinh doanh và gia tăng giá trị cho cổ
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
21
21
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
đông (rủi ro xảy ra do lỗi kỹ thuật, lỗi hệ thống và quy trình nghiệp vụ…).
Tâm điểm của mọi hoạt động kinh doanh là khả năng xử lý rủi ro kinh doanh
khéo léo, bao gồm rủi ro kinh tế vĩ mô.
*Rủi ro phi kinh doanh: Là rủi ro mà khi công ty gặp phải thì họ hoàn
toàn bị bất lực, nghĩa là không có cách nào khác là họ phải chấp nhận nó và
chấp nhận cả những hậu quả mà nó để lại. Nguồn gốc của những rủi ro này là
do những biến chuyển cơ bản của cơ cấu kinh tế hoặc thể chế chính trị.
*Rủi ro tài chính: Là loại rủi ro phi kinh doanh. Đó là thiệt hại tiềm
năng do những thay đổi trên thị trường tài chính gây ra. Trong rủi ro tài chính
lại chia thành nhiều loại rủi ro khác nhau như: rủi ro thị trường, rủi ro tín
nhiệm, rủi ro thanh khoản, rủi ro nghiệp vụ và rủi ro pháp lý. Các rủi ro này
không hoàn toàn độc lập mà thường có mối quan hệ tương tác với nhau.
*Rủi ro thị trường: Là những thiệt hại tiềm năng do những thay đổi của
sự biến động giá hay sự thay đổi giá gây ra.
Rủi ro thị trường có thể được xác định theo hai hình thức: rủi ro tuyệt
đối và rủi ro tương đối. Rủi ro tuyệt đối được quy đổi theo đơn vị tiền tệ, còn
rủi ro tương đối được xác định tương đối căn cứ vào một chỉ số chuẩn, cho
biết độ lệch giữa lợi nhuận và chỉ số chuẩn. Ngoài ra, rủi ro thị trường còn có
thể phân thành rủi ro định hướng và rủi ro bất định hướng. Rủi ro có định
hướng là rủi ro có liên quan đến sự biến động giá của các loại chứng khoán.
Rủi ro này xác định thông qua phương pháp tuyến tính. Rủi ro bất định hướng
là rủi ro có mối tương tác phi tuyến với độ biến động giá. Ngoài ra trong rủi
ro thị trường người ta có thể nói đến rủi ro cơ bản là những biến chuyển bất
ngờ của các đại lượng tương đối.
Trong rủi ro thị trường, còn phải kể đến rủi ro lãi suất, rủi ro sức mua.
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
22
22
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
*Rủi ro lãi suất: là rủi ro khi lãi suất thay đổi làm ảnh hưởng đến giá cả
chứng khoán. Lãi suất thị trường và giá chứng khoán có mối quan hệ tỷ lệ
nghịch với nhau. Lãi suất tăng ảnh hưởng gián tiếp tới sự sụt giảm giá chứng
khoán ở chỗ các nhà đầu cơ vay tiền mua chứng khoán sẽ bị ảnh hưởng, và
nhiều công ty hoạt động chủ yếu bằng vốn vay sẽ làm cho chi phí vốn tăng.
*Rủi ro sức mua: là tác động của lạm phát tới các khoản đầu tư. Lợi tức
thực tế của chứng khoán đem lại là kết quả của lợi tức danh nghĩa sau khi trừ
đi lạm phát. Như vậy khi có lạm phát thì lợi tức thực tế giảm.
*Rủi ro tín nhiệm: là rủi ro thường thấy ở bất kỳ loại hình kinh doanh
nào, rủi ro có liên quan đến những hợp đồng đã ký kết nhưng bên đối tác lại
không muốn hay không có khả năng thực hiện những cam kết ghi trong hợp
đồng, kéo theo những tổn thất tài chính nhất định. Một hình thức rủi ro tín
nhiệm khác đó là rủi ro không thanh toán, đặc biệt đối với hai khoản thanh
toán phải cùng thực hiện trong một ngày. Rủi ro xảy ra khi một bên hoặc
không muốn hoặc thực sự là không có khả năng thanh toán hợp đồng cho dù
đối tác bên kia đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình.
*Rủi ro kỹ thuật: là rủi ro gây ra bởi lỗi kỹ thuật do máy móc hoặc con
người gây ra.
Chúng bao gồm cả sự lừa đảo (trường hợp mà nhà kinh doanh cố ý làm
sai lệch thông tin), thất bại trong quản lý, thiệt hại do quy trình giám sát lỏng
lẻo. Những lỗi kỹ thuật có thể phát sinh từ hỏng hóc trong hệ thống thông tin,
giao dịch, thanh toán… hoặc lỗi của hệ thống trợ giúp. Rủi ro kỹ thuật có thể
dẫn đến rủi ro thị trường và rủi ro tín nhiệm.
Việc định giá chứng khoán phái sinh phức tạp cũng có thể tạo ra những
vấn đề kỹ thuật tiềm năng. Rủi ro mô hình là một mối nguy hiểm ngầm do sử
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
23
23
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
dụng các mô hình không hợp lý để định giá vị thế đầu tư. Rủi ro mô hình
thường rất khó phát hiện. Để hạn chế phần nào rủi ro mô hình, các mô hình
cần phải thẩm định độc lập, sử dụng các dữ liệu thị trường.
*Rủi ro pháp lý: là rủi ro phát sinh từ việc không tuân thủ các quy định
pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh, và từ việc hủy bỏ hợp đồng do
hợp đồng bất hợp pháp, vượt quá quyền hạn, thiếu sót các điều khoản hoặc
chưa hoàn thiện các tiêu chuẩn hoặc do nguyên nhân khác.
1.2.2. Quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán.
1.2.2.1. Khái niệm,Nguyên tắc và sự cần thiết của tăng cường quản trị rủi ro trong
KDCK của công ty chứng khoán.
*Khái niệm.
Quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học và có hệ
thống nhằm kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát,
những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro đồng thời tìm cách biến rủi ro thành những
cơ hội thành công.
*Nguyên tắc quản trị rủi ro:
Theo quyết định 105/QĐ-UBCK:
CTCK phải thiết lập và vận hành hệ thống quản trị rủi ro phù hợp với
điều kiện hoạt động kinh doanh của công ty, tối thiểu đáp ứng được các quy
định trong các văn bản pháp luật.
Hệ thống quản trị rủi ro của CTCK phải bao gồm một cơ cấu tổ chức
hoàn chỉnh, một cơ chế vận hành thống nhất, và một bộ quy trình quản trị rủi
ro ít nhất xử lý năm loại rủi ro trọng yếu sau: rủi ro thị trường, rủi ro thanh
toán, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động và rủi ro pháp lý. CTCK phải quản
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
24
24
Lớp: CQ48/17.02
Luận văn tốt nghiệp
Học viện tài chính
lý trạng thái tập trung rủi ro gắn với các rủi ro trọng yếu. Hệ thống quản trị rủi
ro của CTCK phải đảm bảo các yếu tố:
- Sự giám sát của Ban kiểm soát, Kiểm toán nội bộ và hệ thống kiểm soát nội
bộ.
- Chiến lược quản trị rủi ro rõ ràng, minh bạch được Hội đồng quản trị hoặc
Hội đồng thành viên hoặc chủ sở hữu công ty thông qua.
- Kế hoạch triển khai thông qua các chính sách, quy trình đầy đủ.
- Công tác quản lý, kiểm tra, rà soát thường xuyên của Tổng giám đốc (Giám
đốc).
- Ban hành và kiểm tra đầy đủ các chính sách, quy trình quản trị rủi ro và các
hạn mức rủi ro, thiết lập hoạt động thông tin quản trị rủi ro phù hợp.
- Hệ thống quản trị rủi ro được thiết lập phải đảm bảo CTCK có khả năng xác
định rủi ro, đo lường rủi ro, theo dõi rủi ro, báo cáo rủi ro và xử lý hiệu quả
các rủi ro trọng yếu đồng thời đáp ứng đầy đủ các nghĩa vụ tuân thủ của mình
tại mọi thời điểm.
- CTCK phải đảm bảo công tác quản trị rủi ro được thực hiện độc lập, khách
quan, trung thực, thống nhất và phải được thể hiện bằng văn bản.
- CTCK phải đảm bảo các bộ phận tác nghiệp và bộ phận quản trị rủi ro được
tổ chức tách biệt và độc lập với nhau, và người phụ trách bộ phận tác nghiệp
không đồng thời phụ trách bộ phận quản trị rủi ro và ngược lại.
*Sự cần thiết của tăng cường quản trị rủi ro trong KDCK.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và kinh doanh chứng khoán nói
riêng thì mọi cơ hội luôn đi kèm với rủi ro. Vì vậy việc nhận biết, đo lường và
SV: Nguyễn Tuấn Vũ
25
25
Lớp: CQ48/17.02