Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

BHXH Đối Với Khu Vực Kinh Tế NQD Trên Địa Bàn Quận Hai Bà Trưng Thành Phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.58 KB, 99 trang )

Lời mở đầu
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nớc, thực hiện chính sách
BHXH trong các DN NQD không những đảm bảo sự công bằng giữa những ngời
lao động, mà còn đảm bảo sự công bằng giữa các DN thuộc các thành phần kinh
tế. Số lợng lao động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tăng lên và trở
thành một bộ phận đáng kể trong toàn bộ lực lợng lao động xã hội.
Tuy nhiên việc thực hiện chính sách BHXH ở khu vực này còn bộc lộ
nhiều yếu kém. Các đơn vị, DN cha có sự hiểu biết rõ ràng về BHXH , tình trạng
trốn tránh nghĩa vụ tham gia BHXH luôn xảy ra, và nh vậy quyền lợi của ngời lao
động không đợc đảm bảo.
Với các nhà quản lý thì vấn đề lớn đặt ra là: làm thế nào để cải thiện tình
hình thực hiện BHXH đối với khu vực NQD? Bằng cách nào để giúp ngời lao
động nhận thức đợc vai trò của BHXH để họ thấy đợc quyền lợi chính đáng của
mình để từ đó có trách nhiệm đòi hỏi phải đợc đối xử đúng, làm sao để nâng cao
ý thức trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp ...đây là vấn đề bức xúc nhất hiện
nay.
Bằng hiểu biết hạn chế của mình với mong muốn đóng góp một số ý kiến
quan điểm trong lĩnh vực này, qua quá trình thực tập tại cơ quan BHXH quận Hai
Bà Trng, tôi đã lựa chọn đề tài: BHXH đối với khu vực kinh tế NQD trên địa
bàn quận Hai Bà Trng thành phố Hà Nội
Ngoài lời nói đầu và kết luận, nội dung chuyên đề này gồm có 3 phần nh sau:
Phần I: BHXH- cơ sở lý luận và thực tiễn
Phần II: tình hình thực hiện chính sách BHXH cho lao động khu vực NQD.
Phần III: Một số kiến nghị giải pháp thúc đẩy việc thực hiện chính sách
BHXH cho lao động NQD.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do trình độ lý luận và thực tiễn còn hạn
chế, thời gian thực tập có hạn nên chuyên đề chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu sót. Vì vậy em rất mong nhận đợc sự góp ý chỉ bảo của các thầy cô và các
bạn để bài viết của em đợc hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Hồ Sĩ Sà- ngời trực
tiếp hớng dẫn, cảm ơn các bác các chú, các cô tại cơ quan BHXH quận Hai Bà


Trng đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành đề
tài này.
Em xin chân thành biết ơn.


Chơng I
Lý luận chung về BHXH và việc tham gia BHXH của
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
I. Lý luận chung về BHXH:

1. Quá trình hình thành phát triển của BHXH :
a. Lịch sử phát triển của BHXH :
Ngay từ thế kỷ XVI, những hình thức sơ khai của BHXH đã xuất hiện.
Nhiều nông dân và thợ thủ công ở một số nớc Châu Âu đã nhận thấy khả năng
đóng góp của cộng đồng để trợ cấp cho những ngời bị ốm đau, thơng tật. Từ đó
họ đã lập nhiều quỹ tơng trợ, mỗi ngời tham gia đều trích một phần thu nhập của
mình để đóng vào quỹ chung và quỹ đó đợc dùng để giúp đỡ những thành viên bị
ốm đau hay tai nạn, thơng tật. Hình thức sơ khai của BHXH đợc phát triển dần
lên, phạm vi đợc mở rộng ra để có thêm nhiều ngời tham gia, mở thêm các loại
trợ cấp, bổ sung thêm nguồn quỹ...và dần dần hoàn thiện hoạt động này.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, BHXH ngày càng trở thành nhu cầu
thờng xuyên, tự nhiên và chính đáng của ngời lao động. Nhu cầu đó cần đợc áp
dụng giống nh các nhu cầu thiết yếu khác nh ăn, mặc, ở, đi lại...
Đặc biệt, sự phát triển của BHXH gắn liền với sự phát triển của lực lợng
sản xuất. Những nớc có nền sản xuất phát triển, cụ thể là các nớc TBCN ở Châu
Âu và Châu Mỹ, BHXH ra đời rất sớm nhng rõ nhất là từ thời kỳ bắt đầu công
nghiệp hoá, trong xã hội từng nớc xuất hiện tầng lớp làm công ăn lơng. Điển hình
là năm 1985, dới thời thủ tớng Bismark, chính quyền nhiều bang ở Đức đã giúp
các địa phơng thiết lập quỹ bảo hiểm ốm đau do chính những ngời công nhân
đóng tiền để đợc bảo hiểm. Chế độ bảo hiểm ốm đau đợc phổ cập trong toàn nớc

Đức và trở thành chế độ bắt buộc đợc giao cho đội Tơng tế của công nhân quản
lý. Năm 1884 chế độ bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp (tai nạn lao động, bệnh nghể
nghiệp) xuất hiện và do hiệp hội các chủ doanh nghiệp quản lý.
Nh vậy, từ 1883 đến 1889 một hệ thống BHXH đầu tiên ra đời với sự tham
gia bắt buộc của những ngời làm công ăn lơng, theo nguyên tắc ngời đợc bảo
hiểm xã hội phải đóng phí BHXH và 3 thành viên xã hội là ngời lao động, ngời
sử dụng lao động, Nhà Nớc đều có vị trí trong việc quản lý hệ thống BHXH. Từ
đó rất nhiều nớc đã áp dụng cơ chế này trong hệ thống các chế độ BHXH của
mình. Theo gơng Đức, 1918 Pháp thực hiện BH phổ cập trong cả nớc nhng không
thành công. Năm 1930 Pháp thông qua đạo luật thứ hai về BHXH, áp dụng chủ
yếu cho ngành công nghiệp và thơng mại.


Từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX, BHXH đã lan rộng sang Châu Mỹ La Tinh,
Hoa Kỳ và Canada. Gần cuối đại chiến thế giới lần thứ hai và sau khi giành đợc
độc lập, nhiều nớc Châu Phi, Châu á và vùng Caribe cũng lần lợt áp dụng cơ chế
BHXH tơng tự. Cũng thời gian này nhiều nớc còn mở rộng thêm những chế độ
trợ cấp khác và xuất hiện thêm khái niệm mới bảo đảm xã hội . Khái niệm này
đợc chính thức sử dụng tại Mỹ- Luật 1935 vể bảo đảm xã hội, theo đó bảo đảm
xã hội bao gồm các chế độ BHXH nh: trợ cấp ốm đau, tàn tật, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, thai sản, tử tuất, hu trí, trợ cấp gia đình; ngoài ra còn có cứu
trợ xã hội, u đãi xã hội. Nh vậy, bảo đảm xã hội có phạm vi rộng hơn, nó bao
gồm BHXH trong đó.
Tuy xuất phát từ một cơ chế BHXH tuỳ theo điều kiện đặc điểm kinh tế xã
hội của mỗi nớc mà họ áp dụng các chế độ BHXH khác nhau. Nhìn chung,
BHXH ở các nớc đợc thực hiện từng phần, lúc đầu chỉ có một số chế độ, sau đó
tuỳ nhu cầu thực tế phát sinh và mở thêm các chế độ khác. Khi xét thấy những
chế độ nào phù hợp nhất sẽ đợc u tiên thực hiện trớc. Cho đến nay, hầu hết các nớc trên thế giới đều đã ban hành và thực hiện các điều luật về BHXH đối với ngời
lao động. Theo Introduction to social security ILO Genera trong tổng số trên 163
nớc tính đến năm 1993 có hệ thống BHXH thì có đến 155 nớc cam kết thực hiện

3 chế độ: hu trí, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; có
102 nớc thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, trong đó có Việt Nam.
Trong lúc đó một số nớc do những yếu tố bất định vẫn cha có điều kiện
thiết lập chế độ BHXH. Những nớc này mới áp dụng cơ chế quỹ dự phòng trong
đó chỉ gồm sự đóng góp của những ngời lao động và ngời sử dụng lao động nh là
một loại tiết kiệm, đứng tên chủ tài khoản là ngời làm công ăn lơng. Khoản tiền
này chỉ đợc rút ra vốn và lãi khi chấm dứt hợp đồng lao động. Cơ chế này có rất
nhiều hạn chế và không thể đảm bảo đợc tính u việt nh BHXH.
Mô hình BHXH của một số nớc:
Thái Lan:
Phạm vi đối tợng:
Bắt buộc: mọi doanh nghiệp, xí nghiệp có từ 10 lao động trở lê.
Tự nguyện: lao động nông lâm ng nghiệp, ngời làm thuê cho các trờng t thục,
công chức Nhà Nớc và ngời Thái Lan ra nớc ngoài; ngời tự tạo việc làm từ
2/9/1998.
Các chế độ BHXH hiện hành:
Chế độ dài hạn: hu trí, mất sức lao động, tử tuất.
Chế độ ngắn hạn: ốm đau, tàn tật, chăm sóc y tế, thai sản.


Mức đóng và hởng BHXH:
Mức đóng:Ngời lao động đóng 1,5% tiền lơng tháng, ngời sử dụng lao động đóng
1,5% so quỹ lơng. Chính phủ hỗ trợ 1,5% tiền lơng tháng cho những ngời gặp
khó khăn không có khả năng đóng BHXH.
Mức hởng tối đa là 250 bath/ ngày.
Tổ chức quản lý: Bộ lao động và phúc lợi xã hội quản lý giám sát chung,
cơ quan BHXH quản lý chơng trình và thực hiện các nghiệp vụ BHXH.
Trung Quốc:
Phạm vi đối tợng:
Bắt buộc: Ngời làm công ăn lơng thuộc doanh nghiệp quốc doanh, sở hữu tập thể,

doanh nghiệp t nhân, lao động tự tạo việc làm.
Tự nguyện: số lao động còn lại.
Các chế độ BHXH:
Chế độ dài hạn: hu trí, tử tuất.
Chế độ ngắn hạn: mất sức lao động, chăm sóc y tế, tai nạn lao động, trợ cấp thất
nghiệp.
Mức đóng và mức hởng BHXH:
Mức đóng: ngời lao động đóng 4% tiền lơng, ngời sử dụng lao động đóng 20 %
so quỹ lơng.
Mức hởng: hởng 75% thu nhập bình quân đối với ngời có trên 20 năm công tác,
hởng 60% cho ngời có 10 năm công tác liên tục.
Tổ chức quản lý:
Hoạt động BHXH ở Trung Quốc chịu sự quản lý của hội đồng Nhà Nớc, công
đoàn Trung Ương, Bộ y tế quốc gia.
Singapore:
Phạm vi đối tợng:
Bắt buộc: ngời làm công ăn lơng thờng xuyên và có thu nhập trên 50$/ tháng,
công nhân viên chức Nhà Nớc, lao động nớc ngoài c trú thờng xuyên.
Tự nguyện: ngời tự tạo việc làm, ngời không thuộc lực lợng lao động( <16 tuổi ),
ngời nớc ngoài tạm trú.
Các chế độ BHXH hiện hành:
Chế độ dài hạn: hu trí, tử tuất.
Chế độ ngắn hạn: mất sức lao động, tai nạn lao động.
Mức đóng và mức hởng:


Mức đóng: ngời lao động đóng 20% tiền lơng, ngời sử dụng lao động đóng 20%
so quỹ lơng ngoài ra Nhà Nớc hỗ trợ thêm.
Mức hởng tối đa: nếu trả 1 lần vào 55 tuổi thì mức trợ cấp là 50000$. Nếu trả
hàng tháng bằng 60% tiền lơng bình quân.

Tổ chức quản lý: việc quản lý đợc phân công cho 3 cơ quan nh sau:
Bộ lao động quản lý chung, Quỹ dự phòng trung tâm quản lý nghiệp vụ, Bộ y tế
cung cấp dịch vụ qua bệnh viện quốc gia.
b. Sự phát triển của BHXH tại Việt Nam:
BHXH ở nớc ta đã có từ trớc cách mạng tháng 8/1945. Khi đó để củng cố
ách thống trị của mình thực dân Pháp đã thực hiện một chế độ BHXH cho những
ngời Việt Nam làm việc trong bộ máy cai trị của họ. Sau khi nớc VNDCCH ra
đời, nhà nớc ta đã ban hành một số văn bản pháp luật về BHXH.
Sắc lệnh 54/SL ngày 1/11/1945 quy định một số điều khoản cho công chức
khi nghỉ hu. Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 quy định việc cấp hu bổng cho
công chức.
Hai sắc lệnh trên đã quy định: để đợc hởng hu bổng, công chức phải đóng
hu liễm. Nhà nớc phải có trách nhiệm đóng thêm cho công chức trong quỹ hu
bổng.
Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950, ngoài chế độ trợ cấp hu trí đã quy định cụ
thể hơn chế độ thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn lao động và chế độ tuất đối với
công chức. Có thể coi đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa nhất về BHXH ở nớc ta
sau ngày độc lập và là cơ sở để ban hành điều lệ BHXH sau này.
Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 quy định
các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hu trí, tử tuất đối với công nhân,...
Nhng sắc lệnh đó đã minh chứng sự quan tâm của Đảng, Nhà nớc, Bác Hồ đối
với ngời lao động. Đây cũng là văn bản đầu tiên về BHXH ở nớc ta (về mặt văn
bản luật pháp).
Sau khi miền Bắc đợc giải phóng, cùng với các chính sách khác, Nhà nớc
đã ban hành điều lệ BHXH cho công nhân viên chức kèm theo NĐ 218/CP ngày
27/12/1961.
Theo điều lệ này hệ thống BHXH nớc ta có 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hu trí, tử tuất. Đây là văn
bản pháp luật hoàn chỉnh nhất về BHXH thời bấy giờ. Hệ thống BHXH này có
những đặc điểm sau:

+ đối tợng đợc hởng BHXH là CNVC và LLVT.


+ đối tợng hởng BHXH không phải đóng phí BHXH, chi phí cho BHXH
chủ yếu do nguồn ngân sách Nhà Nớc đảm bảo, một phần do khoản nộp nghĩa vụ
của các doanh nghiệp. Vì vậy không tồn tại quỹ BHXH độc lập, nằm ngoài
NSNN.
+ chính sách BHXH gắn chặt với chính sách tiền lơng và đan xen với chính
sách xã hội khác.
+ nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý và thực hiện BHXH: Bộ lao động,
công đoàn, bộ tài chính...
Bộ tài chính có trách nhiệm thu phần quỹ dành để chi trả trợ cấp hu trí.Tổng liên
đoàn lao động Việt Nam có trách nhiệm thu và chi trả các chế độ trợ cấp thờng
xuyên nh ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN. Bộ lao động-Thơng binh và xã hội
giải quyết những vấn đề có liên quan đến hu trí, mất sức.
Qua thực tế hoạt động cho thấy trong thời gian này, Bảo hiểm xã hội đã
đảm bảo trợ cấp cho hàng triệu ngời lao động, giúp họ vợt qua khó khăn trong
cuộc sống. BHXH đã thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc quan trọng cho một bộ
phận lao động trong xã hội, đóng vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và
bảo vệ đất nớc. Tuy nhiên bên cạnh đó chính sách BHXH giai đoạn này cũng đã
bộc lộ rất nhiều hạn chế:
+ thứ nhất, phạm vi đối tợng tham gia BHXH đến thời điểm này dù đã trải
qua 30 năm hoạt động nhng mới chỉ giới hạn trong phạm vi CNVCNN và LLVT.
Điều này đã làm hạn chế đến việc thực hiện mục tiêu, các nguyên tắc và phát huy
tác dụng của chính sách BHXH , phủ nhận vai trò của các thành phần kinh tế và
không đảm bảo công bằng xã hội đối với mọi đối tợng lao động.
+ thứ hai, hệ thống BHXH thời kỳ này không có sự tồn tại quỹ BHXH độc
lập theo đúng tính chất của nó. Quỹ BHXH dù đã đợc thực hiện nhng cha đợc
tách khỏi NSNN bởi thời kỳ này quỹ BHXH đợc lây ra từ ngân sách là chính.
+ thứ ba, việc tổ chức quản lý quỹ phân tán và thiếu chặt chẽ. Trong giai

đoạn này, Nhà Nớc giao việc thực hiện chế độ BHXH cho 2 cơ quan là Bộ lao
động- thơng binh và xã hội, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, từ đó gây nên sự
lãng phí và kém hiệu quả.
Nh vậy, cho đến trớc năm 1995, chính sách BHXH cho ngời lao động ở nớc ta còn tồn tại nhiều hạn chế, đòi hỏi phải có sự bổ sung, sửa đổi và tiếp tục
hoàn thiện, phù hợp tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nớc.
Khi nớc ta chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang
nền kinh tế thị trờng từ cuối những năm 80 thì yêu cầu đổi mới BHXH đợc đặt ra


cấp bách. Vào giai đoạn này nhiều văn bản pháp luật về BHXH đợc ban hành và
thực hiện. Bắt đầu từ NĐ 43/CP ban hành ngày 22/6/1993 quy định tạm thời về
các chế độ BHXH áp dụng cho các thành phần kinh tế. Sau nghị định này còn có
các văn bản khác cũng đợc ban hành theo tinh thần đổi mới.
Tuy nhiên, chỉ khi Bộ luật lao động đợc Quốc hội nớc cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 15/6/1994 và đợc thực hiện từ 1/1/1995 cùng với
nó là điều lệ BHXH ban hành kèm theo NĐ 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 cho
các đối tợng hởng BHXH , cũng nh NĐ 19 CP về việc thành lập BHXH Việt Nam
mới thực sự ghi nhận sự đổi mới của hệ thống BHXH nớc ta.
Từ 1995 nhiều văn bản mới ra đời hớng dẫn thi hành Bộ luật lao động và
các văn bản về BHXH. Việc ban hành và thực hiện các văn bản pháp lý về BHXH
nh vậy đã đa đến nhiều thay đổi trong qúa trình đổi mới và phát triển chính sách
BHXH cho ngời lao động ở Việt Nam.
Phạm vi đối tợng tham gia BHXH:
Theo Bộ luật lao động và Điều lệ BHXH ( điều 3) thì loại hình BHXH bắt
buộc phải áp dụng đối với:
Ngời lao động làm việc trong các DNNN.
Ngời lao động ở các DN NQD sử dụng từ 10 lao động trở lên.
Lao động ở các đơn vị có vốn đầu t, văn phòng do ngời nớc ngoài trả lơng.
Ngời làm việc trong các cơ quan, tổ chức nớc ngoài hoặc tổ chức quốc tế đóng tại
Việt Nam.

Công chức viên chức Nhà nớc ( cả cán bộ trong cơ quan Đảng, đoàn thể).
Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp các tổ chức dịch vụ thuộc
lực lợng vũ trang.
Ngời giữ chức vụ dân cử, bầu cử trong các cơ quan quản lý Nhà Nớc,
Đảng, đoàn thể từ trung ơng đến cấp hu.
Ngoài ra, những ngời đi học, công tác, điều trị...vẫn hởng lơng thì vẫn
thuộc đối tợng BHXH. Cán bộ xã thuộc diện hởng sinh hoạt phí Nghị định 09/CP
(23/1/98). Ngời lao động làm việc trong các cơ quan dân lập thuộc lĩnh vực y tế,
văn hoá, giáo dục,thể dục thể thao ( NĐ 73 CP- Thông t liên tịch số 26 tháng 11
năm 2000).
Về các chế độ BHXH:
Theo quy định của Bộ luật lao động và Điều lệ BHXH , hiện nay nớc ta áp dụng
5 chế độ BHXH đó là:
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thai sản


Trợ cấp TNLĐ và BNN
Hu trí
Tử tuất


Về nguồn quỹ BHXH:

Điều 36 điều lệ BHXH quy định.
+ Ngời sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ tiền lơng (10% chi cho
trí, tử tuất và 5% cho cho các chế độ ngắn hạn).

hu


+ Ngời lao động đóng 5% mức tiền lơng để chi trả cho hu trí, tử tuất.
+ các nguồn khác ( các khoản phạt, thu từ đầu t...).
Quỹ BHXH đợc dùng để chi trả trợ cấp BHXH , ngoài ra quỹ đợc trích một phần
cho chi phí quản lý. Hiện nay, Chính phủ quy định cho cơ quan BHXH Việt Nam
đợc phép sử dụng 6% tổng số thu BHXH để trang trải các chi phí quản lý. Quỹ
BHXH đợc tách ra khỏi NSNN, thực hiện hạch toán độc lập tuân thủ nguyên tắc
bảo toàn và tăng trởng nguồn quỹ.
Việc tổ chức quản lý và thực hiện:
Bộ lao động thơng binh và xã hội là cơ quan quản lý Nhà nớc về BHXH.
Bộ có nhiệm vụ xây dựng chính sách BHXH , kiểm tra và thanh tra việc thực hiện
ở các cơ quan, đơn vị có liên quan.
BHXH Việt Nam là cơ quan thực hiện chức năng tổ chức, quản lý, thực
hiện sự ngiệp BHXH theo luật định. Cơ quan này chịu trách nhiệm toàn bộ trong
việc thu chi quản lý nguồn quỹ BHXH ... cũng nh thực hiện một số nhiệm vụ
khác nh: kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền trong việc sửa đổi bổ sung chính
sách về BHXH cho phù hợp với tổ chức tuyên truyền, giải thích chế độ, chính
sách BHXH, giải quyết khiếu nại, tố cáo của ngời tham gia BHXH về việc thực
hiện chế độ, chính sách BHXH hiện hành...
So với trớc năm 1995, chính sách BHXH hiện hành đã có nhiều u điểm nổi
bật đợc thể hiện:
Thứ nhất, việc mở rộng đối tợng tham gia BHXH đến những ngời làm
công ăn lơng trong các thành phần kinh tế theo nguyên tắc có đóng có hởng đã đợc đông đảo ngời lao động hoan nghênh. Do đó, số ngời tham gia BHXH tăng lên
rõ rệt. Trớc đây, chỉ có 3,4 triệu ngời tham gia BHXH thì đến nay theo báo cáo
của BHXH Việt Nam đã có 4,2 triệu ngời tham gia trong đó có 1,60 triệu ngơig
làm việc ở các DNNN, 1,49 triệu ngời làm việc ở khu vực hành chính sự nghiệp,
423.000 ngời thuộc lực lợng vũ trang và hơn 185.000 ngời làm việc ở các Doanh
nghiệp quốc doanh. Nh vậy, nhờ đổi mới cơ chế trong chính sách BHXH hiện


hành đã làm tăng đáng kể số đối tợng tham gia, thể hiện sự bình đẳng, công bằng

về quyền lợi BHXH đối với mọi ngời lao động, tạo điều kiện cho việc di chuyển
và sử dụng lao động dễ dàng hơn góp phần thúc đẩy mọi thành phần kinh tế càng
phát triển.
Thứ hai, thành lập quỹ BHXH độc lập với NSNN đã taọ lên cơ chế tài
chính BHXH mới, đúng đắn.
Nguồn thu BHXH xã hội trong những năm gần đây
Đơn vị: tỷ VND
Năm

1996

1997

1998

1999

2000

2001

Số thu

2.569

3.446

3.876

4.188


5.100

6.334

(Nguồn: Báo cáo của BHXH Việt Nam).
Đến nay, theo quy định thì NSNN phải cấp để chi trả cho những ngời đã
nghỉ hu trớc khi đổi mới chính sách BHXH( trớc năm 1995), quỹ BHXH chi cho
số hởng BHXH từ sau 1995.
Theo quy định này thì cuối năm 1998 quỹ thu không những đủ chi mà còn
có số d gần 1500 tỷ đồng. Nh vậy, theo cơ chế này quỹ mới đã giảm dần sự bao
cấp của Nhà nớc, làm tăng khả năng thực hiện cân đối thu chi về bảo hiểm xã
hội, đó là nhân tố rất quan trọng nhằm góp phần hoàn thiện các chế độ, chính
sách BHXH củng cố và phát triển hệ thống BHXH, khắc phục những hạn chế về
tài chính trớc đây.
Thứ ba, đổi mới cơ chế tổ chức quản lý sự nghiệp BHXH phân tán, hành
chính, bao cấp sang thực hiện cơ chế vừa tập trung thống vừa phân biệt chức năng
quản lý Nhà nớc với chức năng quản lý sự nghiệp BHXH đã chấm dứt tình trạng
trùng lặp, lỏng lẻo gây nên những thiếu sót, sai phạm trong quá trình thực hiện.
Nhìn chung, có thể thấy chính sách BHXH mới đã phù hợp với thực tiễn,
phù hợp với đờng lối đổi mới của Nhà nứơc ta, khẳng định chính sách bảo hiểm
xã hội mới đã động vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng
và Nhà nớc.
Bên cạnh những u điểm nh đã nêu ở trên chính sách BHXH hiện hành còn
bộc lộ một số yếu điểm trong quá trình thực hiện nh: Số đối tợng tham gia cha
đầy đủ theo quy định, tình trạng nợ đọng BHXH liên tiếp diễn, bộ máy quản lý
BHXH còn bất cập... đặc biệt chính sách BHXH ở nớc ta có phạm vi đối tợng còn
rất hạn chế. Trong số 38 triệu lao động thì số ngời tham gia BHXH theo loại hình



bắt buộc chỉ chiếm 14% lao động toàn xã hội( khoảng hơn 6 triệu ngời), còn lại
trên 86% lao động làm việc trong các doanh nghiệp sử dụng dới 10 lao động, lao
động nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh vẫn cha đợc tham
gia BHXH. Trong thời gian tới, các cơ quan chức năng đang nghiên cứu xem xét
để mở rộng đối tợng tham gia và triển khai loại hình bảo hiểm thất nghiệp. điều
này, càng củng cố niềm tin vào chính sách đờng lối sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nớc.

2.

Sự cần thiết khách quan của BHXH đối với ngời lao động
thuộc mọi thành phần kinh tế.

Con ngời muốn tồn tại và phát triển, trớc hết phải đợc ăn, mặc, ở, đi lại,...
để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó ngời ta phải lao động để tạo ra những sản
phảm cần thiết. Khi sản phảm tạo ra ngày càng nhiều thứ đời sống con ngời càng
đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Nh vậy, việc thoả mãn các
nhu cầu sinh sống và phát triển của con ngời phụ thuộc vào chính khả năng lao
động của họ. Trong nền sản xuất xã hội, con ngời luôn là động lực chính, là trung
tâm cho sự phát triển KTXH. Họ là ngời trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và
dịch vụ cho xã hội, đồng thời cũng là ngời trực tiếp tiêu dùng những sản phảm,
dịch vụ đó. Nhng trong khi lao động sản xuất không phải lúc nào con ngời cũng
chỉ gặp thuận lợi về vật chất tinh thần, điều kiện sinh sống bình thờng. Trái lại có
rất nhiều trờng hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm giảm hoặc
mất thu nhập, gây khó khăn cho hiện tại và tơng lai. Ví nh bất ngờ bị ốm đau, tai
nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự
phục vụ bị suy giảm. Khi rơi vào những trờng hợp này các nhu cầu cần thiết
trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có nhu cầu lại tăng lên, thậm chí
còn xuất hiện một số nhu cầu mới nh cần đợc khám bệnh và điều trị khi ốm đau,
tai nạn thơng tật cần ngời chăm sóc nuôi dỡng... Vậy muốn ổn định cuộc sống

con ngời và xã hội cần phải tìm ra các giải pháp, cách thức khác nhau để thoả
mãn yêu cầu này nh: san sẻ, đùm bọc nhau, dựa vào sự cứu trợ của Nhà Nớc, các
tổ chức xã hội ... Nhng những cách làm đó là hoàn toàn thụ động và không đảm
bảo.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mớn nhân công trở lên phổ
biến, lúc đầu ngời chủ lao động chỉ cam kết trả công lao động, nhng về sau đã
phải cam kết cả việc bảo đảm cho ngời làm thuê có thu nhập nhất định nhằm
trang trải cho những nhu cầu thiết yếu khi họ không may gặp rủi ro. Nhng trong
thực tế có khi các rủi ro đó không xảy ra và ngời chủ lao động không phải chi
một đồng naò, nhng cũng có trờng hợp rủi ro xảy ra dồn dập ngoài ý muốn. điều
này gây ra mâu thuẫn xung đột giữa giới chủ và giới thợ, và để bảo vệ quyền lợi
của mình giới thợ đã liên kết lại với nhau đấu tranh quyết liệt đòi giới chủ thực


hiện cam kết. Cuộc đấu tranh đã diễn ra rất gay gắt và để khắc phục tình trạng
trên, Nhà Nớc đứng ra đóng vai trò trung gian điều hoà mâu thuẫn, điểu chỉnh
mối quan hệ giữa hai giới đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến quyền lơị và
trách nhiệm của cả hai bên, góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bằng cách
huy động sự đóng góp từ hai phía, bản thân Nhà Nớc cũng tham gia hỗ trợ một
phần để hình thành một quỹ tài chính bảo vệ quyền lợi hai bên.
Nh vậy, BHXH ra đời là một tất yếu khách quan để đảm bảo quyền lợi cho
ngời lao động và ngời sử dụng lao động về mặt vật chất lẫn tinh thần. Thực tế đã
chứng minh rằng nhờ có nguồn quỹ này mà đời sống của ngời lao động đợc đảm
bảo, gia đình họ có một chỗ dựa vững chắc khi không may có rủi ro sảy đến với
ngời trụ cột trong gia đình. Bên cạnh đó, BHXH còn có tác dụng ổn định tâm lý
cho ngời lao động, giúp họ yên tâm làm việc, dốc toàn trí toàn lực vào công việc
để hoàn thành thật tốt công việc của mình. Về phía chủ lao động, họ cũng đảm
bảo những quyền lợi thiết thực của mình nh sự đảm bảo ổn định tài chính trong
kinh doanh, không phải lo chi trả đột xuất những khoản tiền trợ cấp cho ngời lao
động khi có rủi ro xảy đến với họ. Và điều này đã giúp họ ổn định tâm lý phát

huy trí tuệ và sức lực của mình vào công việc kinh doanh đem lại lợi nhuận cao
nhất.
Đối với xã hội, do có quỹ tài chính này mà những khó khăn do giảm hoặc
mất thu nhập sảy đến với ngời lao động đợc trang trải một phần chính từ sự đóng
góp của họ. Điều này giúp cho gánh nặng ngân sách đợc giảm bớt, tạo điều kiện
để nhà nớc dành nguồn quỹ vào những mục đích khác nhằm đem lại ấm no hạnh
phúc cho mọi ngời dân trong xã hội.

3.Nội dung của BHXH
a. Khái niệm:
BHXH theo quan điểm riêng của từng nớc có những cách hiểu khác nhau.
Tuy vậy, về cơ bản khái niệm về BHXH đợc hiểu đó là sự tổ chức, phân phối quỹ
BHXH tập trung đợc tiền tích dần do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH
nhằm đảm baỏ thu nhập do tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động nh
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hu trí, tử tuất.
Theo quá trình phát triển của BHXH, cho đến nay BHXH đã trở thành một
trong những quyền cơ bản của con ngời và đã đợc xã hội thừa nhận. Trong tuyên
ngôn nhân quyền 10/12/1948 của Liên hợp quốc đã ghi: Tất cả mọi ngời với t
cách là thành viên của xã hội có quyền hởng BHXH, quyền đó đợc đặt cơ sở trên
sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và


sự tự do phát triển của con ngời. Và hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều thực hiện chế độ BHXH.
Tổ chức lao động quốc tế ILO (International Labor Organization) một tổ
chức quốc tế đợc thành lập để bảo vệ quyền lợi của ngời lao động trên toàn thế
giới đã định nghĩa về BHXH nh sau: BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các
thành viên của mình thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho
họ nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu
nhập gây ra bởi mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn nhằm góp phần ổn định

hoạt động đời sống của gia đình và bản thân.
Theo ILO thì mọi ngời lao động đều có quyền tham gia BHXH, không
phân biệt giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo hay tính chất của quá trình lao
động. Ngời lao động, ngời sử dụng lao động, Nhà nớc cùng tham gia đóng góp để
hình thành nên quỹ BHXH. Tuỳ theo quy định của từng quốc gia mà nhà nớc có
thể đóng góp theo một tỷ lệ nào đó, đóng góp định kỳ hay đóng bù thiếu cho quỹ.
Ngoài chế độ BHXH bắt buộc, ILO còn khuyến khích thực hiện BHXH tự
nguyện. Tuy nhiên, hiện nay ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt
Nam, chế độ BHXH vẫn cha đợc áp dụng cho tất cả mọi ngời lao động.
BHXH là một tất yếu khách quan và là yếu tố cơ bản, trụ cột để tạo lập
một mạng lới an toàn xã hội để bảo vệ cho ngời lao động khi họ gặp phải những
rủi ro để đảm bảo cuộc sống.
b. Bản chất, đối tợng, chức năng của BHXH:
Bản chất của BHXH:
BHXH là sản phẩm tất yếu của một xã hội phát triển đến một trình độ phát
triển kinh tế xã hội nhất định. BHXH gắn liền với đời sống của ngời lao động, vì
vậy bản chất của nó đợc thể hiện trên một số mặt cơ bản sau:
o Về phơng diện cá nhân ngời lao động:
Bản chất của BHXH là sự đền bù cho những hậu quả của những rủi ro xã
hội, nhằm bù đắp lại một phần thu nhập mà ngời lao động đã bị mất hoặc giảm,
từ đó giúp cho ngời lao động có điều kiện để đảm bảo ổn định cuộc sống, tái sản
xuất sức lao động. BHXH góp phần gắn bó giữa ngời lao động với ngời lao động,
ngời lao động với ngời sử dụng lao động, ngời lao động , ngời sử dụng lao động
với nhà nớc. BHXH đợc coi là tấm lá chắn cho ngời sử dụng lao động bởi họ sẽ
không phải bồi thờng, chi trả cho những rủi ro thu nhập xảy ra đối với ngời lao
động của mình trong khi quyền lợi của ngời lao động vẫn đợc đảm bảo. Họ sẽ


mạnh dạn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thuê mớn lao động kể cả lao
động phổ thông. Từ đó góp phần mở rộng quy mô sản xuất.

o Xét về mặt kinh tế xã hội:
Có thể nói BHXH vừa mang bản chất kinh tế vừa mang bản chất xã hội. điều này
đợc thể hiện cụ thể:
+ Về bản chất kinh tế : khi ngời lao động đóng góp một phần nhỏ trong
tiền lơng của mình vào quỹ BHXH nhng khi có rủi ro xảy ra thì họ đợc quỹ
BHXH phân phối lại thông qua các khoản trợ cấp giúp cho đời sống kinh tế của
ngời lao động và gia đình họ không bị ảnh hởng lớn. Nh vậy an toàn về mặt kinh
tế của cá nhân ngời lao động luôn đợc đảm bảo. trong phạm vi toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, hoạt động của BHXH mang nội dung của quá trình phân phối và
phân phối lại một phần thu nhập trong dân c thông qua việc hình thành và sử
dụng quỹ BHXH.
+ Về bản chất xã hội : nhờ thực hiện nguyên tắc số đông bù số ít mà quỹ
BHXH luôn có đợc một lợng đủ lớn, đủ trang trải mọi chi phí cho những rủi ro xã
hội gây ra. BHXH đợc xem nh là một loạt các hoạt động mang tính xã hội nhằm
đảm bảo đời sống cho ngời dân và làm lành mạnh xã hội. Thông qua đó mà bảo
vệ và phát triển nguồn lao động xã hội, mở rộng sản xuất , phát triển kinh tế , ổn
định trật tự xã hội nói chung. BHXH mang tính nhân văn và nhân đạo sâu sắc vì
lợi ích của con ngời trong những hoàn cảnh gặp khó khăn, vì an sinh xã hội và có
ý nghĩa xã hội lâu dài.
Bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH luôn có sự đan xen hoà
quyện. Khi nói tính kinh tế thì bao hàm cả tính xã hội và ngợc lại.
o Phơng diện chính trị:
BHXH là sự liên kết giữa các nhóm ngời lao động khác nhau trong xã hội
cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, trong đó các cá nhân tham gia BHXH cũng
phản ánh bản chất của một chế độ xã hội nhất định. đối với một quốc gia đây còn
là một hoạt động thể hiện thái độ trách nhiệm của Chính phủ đối với ngời dân
trong xã hội. Trong rất nhiều nớc sự không ổn định hay rối loạn của hệ thống
BHXH đều có tác động rất mạnh mẽ đến hệ thống chính trị các nớc đó. Vì lẽ đó
chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong hệ thống các chính sách quản
lý đất nớc của các quốc gia.

Đối tợng của BHXH:
BHXH ra đời vào những năm giữa của thế kỷ XIX, khi nền công nghiệp và
kinh tế hàng hoá đã phát triển mạnh mẽ ở các nớc Châu Âu. Từ 1883 ở nớc Phổ


(CHLB Đức hiện nay) đã ban hành đạo luật BHYT. Một số nớc Châu Âu và Bắc
Mỹ mãi đến cuối 1920 mới có đạo luật về BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc mất đi do
ngời lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm.
Cần tránh nhầm lẫn giữa đối tợng của BHXH với đối tợng tham gia
BHXH. Đối tợng tham gia BHXH là ngời lao động và ngời sử dụng lao động. Tuỳ
điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nớc mà đối tợng này có thể là tất cả hoặc một bộ
phận những ngời lao động nào đó. Ngời lao động có thể hiểu là tất cả những ngời
đã đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội trong mọi lĩnh vực, mọi
ngành và mọi thành phần kinh tế khác nhau, có khả năng tham gia BHXH không
phân biệt nam nữ dân tộc... Cụ thể:
+ Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một công dân theo những tiêu chuẩn
luật pháp Nhà Nớc.
+ Có việc làm dới các hình thức khác nhau để tạo ra thu nhập, đảm bảo đời
sống và tham gia BHXH.
+ Có thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau ( do lao động, do có các nguồn
thu nhập khác).
Tuy vậy, đối tợng tham gia BHXH vẫn cha đợc thống nhất. Có hai khuynh
hớng song song tồn tại:
+ Đối tợng tham gia BHXH là tất cả ngời lao động.
+ Đối tợng tham gia BHXH chỉ có viên chức Nhà Nớc, ngời làm công hởng lơng.
Thực tế ở hầu hết các nớc khi mới có chính sách BHXH đều chỉ tiến hành
thực hiện BHXH cho viên chức Nhà Nớc, những ngời làm công hởng lơng. điều
này có thể do một số nguyên nhân sau:
+ Sự nhận thức còn cha đầy đủ, cha có kinh nghiệm tổ chức và quản lý xã

hội.
+ CNVC Nhà Nớc do đợc quản lý về thu nhập nên dễ dàng huy động sự
đóng góp của họ.
Trong BHXH có một phần bao cấp của ngân sách, do vậy số lợng càng ít
càng giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN.
Chức năng của BHXH:
Những chức năng chủ yếu của BHXH đợc thể hiện nh sau:


- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao động tham gia
BHXH khi khi họ bị suy giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy
cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi ngời lao động khi hết tuổi
lao động theo quy định của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao
động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, ngời lao động cũng sẽ đợc hởng trợ
cấp BHXH với mức hởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời
hạn đợc hởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó
quyết định nhiệm vụ tính chất, cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có ngời lao động mà còn bao gồm ngời sử
dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH, quỹ này đợc dùng để trợ cấp cho một số ngời lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập. Số lợng ngời này chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số những ngời
tham gia đóng góp. Nh vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân
phối lại theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những ngời có thu
nhập cao và thấp, giữa những ngời khoẻ mạnh đang làm việc với những ngời ốm
yếu...thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH đã góp phần thực hiện công
bằng xã hội.
- Góp phần kích thích ngời lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng cao
NSLĐ cá nhân và NSLĐ xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia LĐSX, ngời lao động
đợc chủ sử dụng lao động trả công hoặc tiền lơng, khi bị ốm đau thai sản, tai nạn

lao động hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì
thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn có chỗ dựa vững chắc và ổn định. Do
đó ngời lao động luôn yên tâm gắn bó với công việc và nơi làm việc, tích cực với
sản xuất kinh doanh , nâng cao năng NSLĐ và hiệu quả kinh tế. Chức năng này
biểu hiện nh một đòn bẩy kinh tế , kích thích ngời lao động nâng cao NSLĐ cá
nhân và kéo theo là NSLĐ xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa ngời lao động và xã hội. Trong thực tế ngời lao động
và ngời sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại khách quan về tiền lơng, tiền công, thời gian làm việc...Qua BHXH những mâu thuẫn đó sẽ phần nào
đợc giải quyết.
Đối với xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả
nhất nhng vẫn giải quyết đợc khó khăn về đời sống cho ngời lao động và gia đình
họ, giúp ổn định cả về sản xuất kinh doanh cả về kinh tế chính trị xã hội của đất
nớc.
Tính chất của BHXH:


Các tính chất cơ bản của BHXH đợc thể hiện nh sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội (đã đợc trình bày ở phần
trớc).
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Do BHXH là bảo hiểm cho các rủi ro mà những rủi ro này con ngời
khó xác định, định lợng một cách chính xác khi nào thì xảy ra và khi đã xảy ra
thiệt hại ở mức nào, tính chất này đợc biểu hiện rõ ở những nội dung cơ bản của
BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai đến mức đóng góp của các bên
tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo
thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ...
- BHXH vừa có tính kinh tế tính xã hội và tính dịch vụ:
+ Tính kinh tế :
Thể hiện qua mối quan hệ giữa ngời tham gia với quỹ BHXH. Ngời tham
gia nộp vào quỹ dự trữ dới hình thức phí bảo hiểm; ngời bảo hiểm sử dụng quỹ đó

để trợ cấp hoặc bồi thờng thiệt hại cho ngời tham gia, nếu thiệt hại đó thuộc rủi
ro bảo hiểm. Thực chất phần đóng góp của mỗi ngời lao động là không đáng kể
nhng quyền lợi nhận đợc là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với ngời sử dụng lao động
việc tham gia BHXH là để bảo hiểm cho ngời lao động mà mình sử dụng. Dới
góc độ kinh tế họ cũng có lợi do không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang
trải cho những ngời lao động bị mất, giảm khả năng lao động. Đối với Nhà Nớc
BHXH đã góp phần đắc lực giảm gánh nặng cho ngân sách, đồng thời quỹ
BHXH còn là nguồn đầu t đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.
+ Tính xã hội:
BHXH là một bộ phận chủ yếu trong hệ thống bảo đảm xã hội. Tính xã hội
của hoạt động bảo hiểm phản ánh tính cộng đồng, tính nhân đạo của bảo hiểm.
Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc số đông bù số ít do đó bảo hiểm phải thu
hút số đông ngời tham gia, phải thâm nhập vào mọi hoạt động trong nền kinh tế.
Tính xã hội còn thể hiện trách nhiệm của xã hội đối với các thành viên của mình
nh trách nhiệm của ngơì sử dụng lao động đối với ngời lao động.
+ Tính dịch vụ của BHXH :
Bảo hiểm là ngành hoạt động dịch vụ, sản phẩm của bảo hiểm có những
đặc thù riêng. Là ngành dịch vụ BHXH phải thoả mãn yêu cầu của mọi thành
viên xã hội, mọi đơn vị kinh tế xã hội trong nền kinh tế quốc dân.
c. Hình thức và các chế độ BHXH:
Hình thức BHXH :


Hiện nay ở nớc ta và các nớc trên thế giới đang tiến hành hai loại hình
BHXH cho ngời lao động: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
BHXH bắt buộc: đây là hình thức BHXH mang tính cỡng chế bắt buộc các
bên chủ và thợ thực hiện. Nó không phụ thuộc ý kiến chủ quan của ngời lao động
và ngời sử dụng lao động. Đây là hình thức nhằm bảo vệ quyền lợi cho ngời lao
động và trách nhiệm từ phía ngời sử dụng lao động.
BHXH tự nguyện: loại hình BHXH tuỳ theo ý muốn chủ quan của ngời lao

động, pháp luật không cỡng chế phải tham gia. BHXH tự nguyện là hình thức bảo
hiểm mà bản thân ngời lao động có nhu cầu có nguyện vọng tự giác tham gia
đóng và hởng BHXH theo quy định để đợc hởng các chế độ BHXH.
Nớc ta đã khiển khai hai loại hình bảo hiểm trên. Tuy nhiên, loại hình bảo
hiểm tự nguyện trong quá trình triển khai vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế, số lợng tham gia cha nhiều.
Các chế độ BHXH :
Chế độ BHXH là hệ thống các quy định cụ thể ( đối tợng, phạm vi...) và
nêu rõ sự bố trí, sắp xếp các phơng tiện để thực hiện. Những quy định này đợc cụ
thể hóa, luật pháp hoá dới dạng các văn bản pháp luật phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội của mỗi nớc trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Các chế độ BHXH có tính pháp lý chặt chẽ, có chế định rõ ràng. Chính
sách BHXH ở các nớc có thể là giống nhau nhng các chế độ BHXH thờng khác
nhau theo đặc trng mỗi nớc.
Theo công ớc 102 của ILO đã đúc kết thành 9 chế độ bảo hiểm nh sau:
Chăm sóc y tế
Trợ cấp gia đình
Trợ cấp ốm đau
Trợ cấp thai sản
Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp tàn tật
Trợ cấp tuổi gìa
Trợ cấp chôn cất
Trợ cấp TNLĐ vàBNN
và mất ngời nuôi dỡng


Những nớc theo công ớc này có thể chỉ áp dụng một số chế độ nhng bắt
buộc phải áp dụng ít nhất 3 chế độ trong đó ít nhất có một trong các chế
độ: trợ cấp ốm đau, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ-BNN, trợ cấp tàn tật,
trợ cấp chôn cất và mất ngời nuôi dỡng.

Nớc ta tuy cha phê chuẩn công ớc 102 của ILO nhng đã áp dụng lần lợt
hầu hết các chế độ tổng hợp trong công ớc.
d. Nguồn quỹ và mục đích sử dụng:
+ Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài NSNN. Quỹ đợc hình
thành từ 3 nguồn sau:
Đóng góp của ngời sử dụng lao động
Đóng góp của ngời lao động
Sự hỗ trợ của Nhà nớc.
Ngoài ra, quỹ còn đợc bổ sung từ các nguồn khác nh: lãi đầu t, hỗ trợ từ
các tổ chức từ thiện, các khoản phạt...Quỹ BHXH đợc dùng để chi trả trợ cấp
BHXH, ngoài ra quỹ đợc trích một phần cho chi phí quản lý bộ máy sự nghiệp
BHXH từ trung ơng đến địa phơng. Nguồn thu quỹ phải đảm bảo vững chắc và
ổn định, đều đặn, phải luôn có lợng dự trữ để ứng phó với những tình huống đột
xuất có thể xảy ra nh dịch bệnh, số ngời thôi việc, về hu lớn trong một năm có
nhu cầu lĩnh trợ cấp 1 lần...Trong trờng hợp lạm phát nguồn thu phải đợc điều
chỉnh thích hợp, vì thế nguồn thu BHXH đợc tính theo tỷ lệ so tiền lơng là hết
sức hợp lý và tiện lợi, đảm bảo ổn định về nguồn quỹ của BHXH.
Trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH đợc phân chia cho cả ngời sử dụng
lao động và ngời lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Các quy định của Nhà nớc là những chuẩn mực pháp lý mà cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động
phải tuân theo, những tranh chấp chủ thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững
chắc để giải quyết. Với nhiều hình thức biện pháp và mức độ can thiệp khác
nhau, Nhà nớc không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH mà
còn trở thành chỗ dựa để đảm bảo hoạt động BHXH ổn định.
Về phơng thức đóng góp BHXH của ngời lao động và ngời sử dụng lao
động hiện vẫn có hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng: phải căn cứ vào lơng từng cá nhân và quỹ lơng của cơ quan, DN; quan điểm thứ hai lại căn cứ vào
thu nhập thực tế mà ngời lao động có đợc để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nớc quy định ngời sử dụng lao động chịu
toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, chính phủ chi trả chi phí y tế và trợ
cấp gia đình, các chế độ còn lại cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động cùng



nhau đóng góp và nghĩa vụ là nh nhau. Một số nớc lại quy định chính phủ bù
thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH ...
Nớc ta từ năm 1962 đến năm 1987 quỹ BHXH chỉ đợc hình thành từ hai
nguồn: các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lơng của xí nghiệp,
phần còn lại do ngân sách đài thọ. Nh vậy quỹ BHXH chia tách rời khỏi NSNN,
từ năm 1988 đến nay các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng 15% quỹ lơng của đơn
vị.
Sau khi nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng, chính phủ đã ban
hành NĐ 43/CP ngày 22/6/1993 và điều lệ BHXH Việt Nam ban hành kèm theo
NĐ 12/CP ngày 26/1/1995, trong các văn bản này quy định quỹ BHXH đợc hình
thành từ các nguồn sau:
- Ngời sử dụng lao động đóng 15% so tổng quỹ lơng của ngời tham gia
BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả cho chế độ hu trí, tử tuất, 5% để chi
cho các chế độ ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Ngời lao động đóng góp 5% trên lơng tháng để chi cho các chế độ hu trí,
tử tuất.
- Nhà nớc hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với ngời lao động.
- Các nguồn khác.
Khi tính phí BHXH có thể có các căn cứ khác nhau:
- Dựa vào tiền lơng và thang lơng để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có
cơ sở xác định mức đóng góp.
- Quy định mức phí BHXH trớc rồi từ đó xác định mức phí đóng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của ngời lao động để xác định mức hởng,
rồi từ mức hởng xác định mức phí phải đóng.
+ Mục đích sử dụng quỹ BHXH :
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung đợc sử dụng nhằm các mục
đích chủ yếu sau đây:
Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH.
Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.

Theo tổ chức lao động quốc tế ILO quỹ BHXH đợc sử dụng để trợ cấp cho các
đối tợng tham gia BHXH nhằm ổn định cuộc sống của bản thân và gia đình họ
khi gặp rủi ro. Theo công ớc 102 tháng 6/1952 tại Giơnevơ có 9 chế độ trợ cấp,


mỗi chế độ trong hệ thống khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội,
tài chính, tiền lơng...Tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố
sinh học, tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia...
Các chế độ BHXH trên có những đặc thù riêng biệt,đó là :
Mỗi chế độ đều mang tính chất chia sẻ rủi ro, tài chính
Các chế độ đợc xây dựng theo luật pháp mỗi nớc
Việc chi trả các chế độ đợc căn cứ vào mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH
Các chế độ hầu nh đều đợc chi trả định kỳ
Đồng tiền đợc sử dụng làm phơng tiện chi trả và thanh quyết toán
Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ đợc đầu t an toàn hiệu
quả thì mức chi trả sẽ cao và ổn định. Các chế độ BHXH cần phải đợc điều chỉnh
định kỳ để theo kịp sự thay đổi điều kiện kinh tế xã hội.
Ngoài việc chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn đợc sử
dụng cho chi phí quản lý nh: lơng cho nhân viên làm BHXH, khấu hao tài sản cố
định, các khoản chi khác... Phần quỹ nhàn rỗi đợc đem đầu t sinh lợi để bảo toàn
và tăng trởng nguồn quỹ này. Việc đầu t quỹ BHXH phải đảm bảo các nguyên
tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo các lợi ích kinh tếxã hội.
e. Phơng thức quản lý của BHXH
Hiện nay, ở nớc ta cũng nh các nớc khác trên thế giới, việc tổ chức quản lý
BHXH đợc thực hiện bao gồm hai phần:
+ Quản lý nhà nớc về BHXH và quản lý sự nghiệp BHXH
Quản lý nhà nớc về BHXH xuất phát từ chức năng quản lý, điều tiết kinh tế xã
hội của một Nhà nớc. Trên cơ sở các văn bản luật và dới luật, Nhà nớc định ra

chính sách, quy định pháp luật về BHXH, xác định các loại chế độ BHXH phù
hợp trình độ kinh tế- xã hội- văn hoá từng thời kỳ của đất nớc. Trong khuôn khổ
kế hoạch kinh tế- xã hội, Nhà nớc quy định nguồn thu, việc sử dụng quỹ, các
mức trợ cấp, điều kiện hởng trợ cấp... thực hiện phối hợp với các cơ chế bảm đảm
xã hội khác.
- Quản lý Nhà nớc có chức năng:
Xây dựng pháp luật, hoạch định chính sách.
Định hớng các họat động nghiệp vụ BHXH


Thanh tra, kiểm tra các hoạt động BHXH
Hỗ trợ cho các hoạt động sự nghiệp BHXH
Về bộ máy quản lý nhà nớc BHXH: quản lý nhà nớc về BHXH phải do cơ
quan quản lý hành chính Nhà nớc có thẩm quyền, thờng là các bộ: Bộ Lao động,
Bộ xã hội, Bộ phúc lợi xã hội, Bộ nội vụ, Bộ y tế, Bộ tài chính. Đứng đầu là Bộ
LĐ- TBXH thống nhất từ trung ơng đến địa phơng.
- Quản lý sự nghiệp BHXH: Trên cơ sở thực hiện những quy định của Nhà nớc về
BHXH, cơ quan quản lý sự nghiệp BHXH có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức bộ
máy thực hiện sự nghiệp BHXH từ trung ơng đến địa phơng. Trực tiếp quản lý
quỹ BHXH, thực hiện kế hoạch thu và chi trả chế độ BHXH, kiểm tra đôn đốc
tình hình thực hiện, chịu trách nhiệm với cơ quan cấp trên về mọi hoạt động
trong lĩnh vực của mình.
Quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH là hoạt động thực thi pháp luật về BHXH.
Nó bao gồm các chức năng sau:
+ Quản lý đối tợng
.Quản lý các doanh nghiệp
.Quản lý lao động trong từng doanh nghiệp, cơ quan: số lợng, cơ cấu
.Quản lý thụ hởng
+ Quản lý công tác thu: nghiệp vụ thu BH và tổ chức thu BH.
+ Quản lý công tác chi: tổ chức việc chi, nghiệp vụ.

+ Tuyên truyền, giáo dục.
+ Đào tạo, bồi dỡng.
Bộ máy quản lý hoạt động sự nghiệp. Hoạt động theo ngành dọc theo sơ đồ sau:
Bộ LĐ-TBXH

BHXH Việt Nam

Sở LĐ-TBXH

BHXH tỉnh-thành phố


Phòng LĐ-TBXH

BHXH quận

f. Một số nguyên tắc hoạt động của BHXH.
Hoạt động của BHXH liên quan đến rất nhiều đối tợng, phạm vi rộng lớn
và thể hiện rất nhiều mặt khác nhau. Để thực hiện đợc chức năng là đảm bảo an
toàn cho con ngời, khuyến khích con ngời trong quá trình làm việc và huy động
sử dụng hiệu quả nguồn lao động xã hội, hoạt động này phải tuân thủ một số
nguyên tắc nhất định. Do mục đích và tính chất hoạt động của BHXH khôg hoàn
toàn nh nhau trong mọi điều kiện , do vậy không thể có những nguyên tắc chung
thống nhất co mọi trình độ phát triển , cho mọi hình thức BHXH ở tất cả các nớc.
Về cơ bản, hoạt động BHXH phải tuân thủ những nguyên tắc chung sau:
+ BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít:
Mọi ngời cùng tham gia, cùng đóng góp hình thành nên quỹ tài chính độc
lập tập trung (quỹ BHXH). Quỹ này đợc dùng để chi trả trợ cấp cho những ngời
lao động khi gặp rủi ro gây giảm hoặc mất thu nhập. Mức đóng góp BHXH do đó
thờng xuyên rất thấp nên phần lớn ngời lao động có thể đóng góp rõ ràng. Nhng

quan trọng là phải thu hút đợc nhiều ngời tham gia.
+ Mọi ngời lao động trong mọi trờng hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền đợc BHXH.
Quyền đợc BHXH của ngời lao động là biểu hiện cụ thể một trong các quyền
con ngời, xuất phát từ quyền bình đẳng của mọi công dân trong xã hội. Biểu hiện
của quyền này là họ đợc hởng các chế độ, hởng trợ cấp BHXH theo quy định.
Các chế độ này gắn với trờng hợp ngời lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống. Trong nền
kinh tế thị trờng các trờng hợp đó có thể có rất nhiều và ngẫu nhiên. Về nguyên
lý, mọi trờng hợp nh thế, ngời lao động đều phải đợc BHXH . Nhng giữa nguyên
lý và thực tiễn bao giờ cũng có khoảng cách và đôi khi khoảng cách này rất xa.
Khoảng cách đó do các điều kiện kinh tế xã hội quy định. Để tổ chức và hoàn
thiện dần việc thực hiện các chế độ BHXH cần căn cứ vào các điều kiện kinh tếxã hội cụ thể của từng nớc trong từng giai đoạn phát triển .
+BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ
BHXH độc lập, tập trung.
Trách nhiệm tham gia BHXH là trách nhiệm của ba bên: ngời lao động,
ngời sử dụng lao động, Nhà nớc và trách nhiệm đó đợc biểu hiện cụ thể ở sự
đóng góp hình thành nên quỹ BHXH, quỹ này phải do cơ quan BHXH chuyên
nghiệp quản lý, để đảm bảo một quỹ tài chính độc lập, tập trung.


+Nhà nớc và ngời sử dụng lao động có trách nhiệm bảo hiểm đối với ngời
lao động và ngời lao động cũng có trách nhiệm phải tự bảo hiểm cho mình.
BHXH thể hiện mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trờng. Nhà nớc
với cơng vị quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả nớc thì
bảo hiểm cho ngời lao động chính là thực hiện vai trò và nhiệm vụ của mình đối
với những thành viên xã hội.
Ngời sử dụng lao động với cơng vị là ngời chủ đứng ra thuê mớn lao động
đơng nhiên phải có trách nhiệm đối với lao động mà mình sử dụng, ngoài ra thì
việc bảo đảm quyền lợi cho ngời lao động cũng chính là đem lại lợi ích cho bản

thân họ đó là sự lao động và cống hiến.
Đối với ngời lao động khi gặp phải những rủi ro không mong muốn, không
hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của ngời khác thì trớc hết đó là rủi ro bản thân.
Muốn đợc bảo hiểm xã hội , muốn đợc san sẻ, dàn trải rủi ro của mình cho những
ngời khác thì trớc hết phải tự mình gánh chịu cho mình đã. Có nghĩa là ngời lao
động , tự bản thân mình phải tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình trớc.
+Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi làm , nhng
thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Tiền lơng là khoản tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho ngời lao động
khi họ thực hiện công việc nhất định. Điều đó có nghĩa là chỉ những ngời lao
động có sức khoẻ bình thờng, có việc làm và thực hiện công việc nhất định mới
có tiền lơng. Khi họ bị tai nạn, ốm đau, tuổi già thì họ không thể thực hiện đợc
công việc nhất định đó nữa, nhng nếu trớc đó họ có tham gia BHXH thì họ sẽ đợc
hởng trợ cấp bảo hiểm và đơng nhiên trợ cấp này không thể bằng tiền lơng do lao
động tạo ra.
Nếu đợc trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lơng thì khi đó ngời lao
động sẽ không hề cố gắng lao động mà ngợc lại họ sẽ viện lý do ốm đau, thai
sản,... để đợc hởng trợ cấp. Mặt khác, khi ngời lao động gặp rủi ro hoặc vì một lý
do nào đó không thể làm việc đợc thì khi đó họ không tạo ra sản phẩm, họ không
góp phần nhằm duy trì phát triển công ty , không tạo ra lợi nhuận, họ sống dựa
vào sự trợ cấp của xã hội và đơng nhiên mức trợ cấp này phải thấp hơn mức lơng
đang hởng.
Bên cạnh đó, thì mức trợ cấp BHXH thấp nhất cũng không thể thấp hơn
mức sống tối thiểu, điều này tuân thủ mục đích của BHXH là đảm bảo ổn định
cuộc sống cho ngời lao động , bù đắp lại những rủi ro về thu nhập xảy ra đối với
ngời lao động.


II. BHXH đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.


1. Sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trớc
và sau đổi mới:
Khái niệm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh:
Đại hội Đảng lần thứ 6 đã khẳng định: trong xã hội ta còn nhiều ngời có
sức lao động, cha có việc làm, cha sử dụng hết thời gian lao động. Khả năng thu
hút sức lao động của khu vực Nhà Nớc là có hạn nguồn vốn lại eo hẹp, nguồn
vốn dự trữ trong dân hầu nh chỉ đa vào tiêu dùng cất giữ. Phải có chính sách mở
đờng cho ngời lao động tự tạo ra việc làm, kích thích mọi ngời đa vốn vào sản
xuất kinh doanh, mở rộng tái sản xuất trên quy mô toàn xã hội. Xuất phát từ sự
đánh giá những tiềm năng tuy phân tán nhng rất quan trọng trong nhân dân, cả về
sức lao động, kỹ thuật, tiền vốn, khả năng tạo việc làm, từ đó khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh ( KVKTNQD) đợc chính thức thừa nhận.
Theo luật Doanh nghiệp Nhà nớc ( quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 24/4/1995); luật doanh nghiệp sửa đổi ( Quốc hội khoá X kỳ họp thứ 5
ngày 12/6/1999); luật khuyến khích đầu t trong nớc (Quốc hội khoá IX kỳ họp
thứ 5 ngày 22/6/1994) có quy định:
- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao
dịch ổn định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
- Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu t, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trờng nhằm mục đích sinh lợi.
- Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là toàn bộ các đơn vị sản xuất kinh
doanh do t nhân đứng ra thành lập, đầu t kinh doanh và tổ chức quản lý (ở đây
nhằm tách biệt với khu vực kinh tế Nhà Nớc xét trên góc độ quan hệ sở hữu).
Các loại hình đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh:
Đây là những đơn vị sản xuất kinh doanh cơ bản cấu thành nên khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh, đó là: doanh nghiệp t nhân, công ty TNHH, công ty cổ
phần, công ty hợp danh, HTX.

- DNTN: là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn
bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.


- Công ty TNHH, công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó các thành
viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tơng ứng với phần vốn
góp của mình vào công ty.
Luật doanh nghiệp mới có quy định hai loại hình công ty TNHH (trớc chỉ
quy định loại hình công ty TNHH 2 thành viên trở lên) là: công ty TNHH 1 thành
viên, công ty TNHH có 2 thành viên trở lên.
- Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất 2 thành viên
hợp danh; ngoài các thành viên hợp danh có thểt có các thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề
nghiệp, phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của
công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Hợp tác xã: chơng I điều 1 của Luật hợp tác xã đã nêu rõ: HTX là tổ
chức kinh tế tự chủ do những ngời lao động có nhu cầu lợi ích chung, tự nguyện
cùng góp vốn góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh
của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các
hoạt động sản xuất , kinh doanh , dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát
triển kinh tế xã hội của đất nớc.
Đặc điểm chung của các đơn vị sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh:
+ Về phân bố:
Với sự quan tâm của Nhà Nớc trong việc khuyến khích phát triển khu vực
kinh tế NQD , khu vực này đã có rất nhiều những thuận lợi trong hoạt động kinh
doanh, có đợc một môi trờng kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh (dù có
phần gay gắt hơn so khu vực kinh tế quốc doanh).
Tuy nhiên, ở khu vực này có sự phát triển mất cân đối giữa các vùng, thành
thị phát triển hơn nông thôn, kinh tế NQD vẫn chỉ tập trung ở các thành phố lớn (

Hà Nội, Hải Phòng, TP HCM...) do ở những nơi này cơ sở hạ tầng phát triển
thuận lợi cho các hoạt động đầu t. Các nơi khác nhìn chung phần nhiều là các
doanh nghiệp nhỏ, số lợng ít, lợng lao động thu hút không nhiều. Điều này cũng
phản ánh một quy luật chung của sự phát triển là: ở nông thôn, các đô thị nhỏ
luôn có sự hạn chế về tính năng động, khả năng về vốn, sự tiếp cận thị trờng.
+ Về nghành nghề kinh doanh :
nghành hàng và mặt hàng kinh doanh của KVKTNQD rất đa dạng, phong phú
nhng nhìn chung có sự tập trung và một số nghành:
Chế biến nông lâm hải sản xuất khẩu


×