Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty kiểm toán COM PT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.57 KB, 92 trang )

Luận văn tốt nghiệp

1

Học viện Tài chính

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứa của tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trên trong luận văn là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của
đơn vị thực tập.

Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên
NINH ĐỨC CƯỜNG

1
SV: Ninh Đức Cường

1

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

2

Học viện Tài chính

MỤC LỤC


2
SV: Ninh Đức Cường

2

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

3

Học viện Tài chính

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1

BCTC

Báo Cáo tài chính

2

KTV

Kiểm toán viên

3

XDCB


Xây dựng cơ bản

4

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

5

COM.PT

Công ty trách nhiệm hữu hạn
Kiểm toán COM.PT

6

ISA

Chuẩn mực kiểm toán quốc tế

7

VAS

Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam

3
SV: Ninh Đức Cường


3

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

4

Học viện Tài chính

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Các mối quan hệ giữa của rủi ro kiểm toán với bằng chứng phải thu
thập
Bảng 1.2: Bảng tính mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Bảng 1.3: Bảng phân bổ mức trọng yếu ban đầu cho các khoản mục
Bảng 1.4: Bảng đánh giá rủi ro phát hiện
Bảng 2.2. Đáng giá tổng quát rủi ro khách hàng ABC

4
SV: Ninh Đức Cường

4

Lớp: CQ48/22.07


5


Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

DANH MỤC SƠ ĐỒ HÌNH VẼ
Sơ đồ 3.1. Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty
Hình 4.1. Mô hình tổ chức bộ máy dịch vụ kiểm toán.

5
SV: Ninh Đức Cường

5

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

6

Học viện Tài chính

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Kiểm toán là lĩnh vực đang dần được khẳng định và chiếm vị trí quan
trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù mới ra đời và phát triển trong hơn
15 năm nhưng số lượng các công ty kiểm toán đã ngày càng gia tăng, chứng
tỏ nhu cầu đối với lĩnh vực này ngày càng cao. Trong đó, sự ra đời của Công
ty Kiểm toán COM.PT (COM.PT) được đánh dấu là một mốc quan trọng cho

ngành kiểm toán tại Việt Nam.
Kiểm toán Báo cáo tài chính luôn là dịch vụ truyền thống và chiếm tỷ
trọng lớn trong doanh thu của các công ty kiểm toán hiện nay. Trước xu thế
hội nhập như ngày nay các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam luôn phải
đặt ra yêu cầu không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ của mình để có thể
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và cạnh tranh với các công ty kiểm
toán nước ngoài.
Trong đó đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán là một bước vô cùng
quan trọng để giúp cho các công ty kiểm toán xây dựng một kế hoạch kiểm
toán hợp lý góp phần nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả của cuộc kiểm
toán. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc đánh giá trọng yếu ở các công ty vẫn
còn nhiều điểm chưa hoàn thiện do đây là một công việc khó và đòi hỏi trình
độ phán xét của kiểm toán viên. Được đánh giá là một trong những công ty có
quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán khá hoàn chỉnh và tiêu
chuẩn, trong thời gian thực tập tại COM.PT em đã có cơ hội tiếp xúc và so
sánh giữa lý thuyết và thực tế và nhận ra được rất nhiều kiến thức cũng như
kinh nghiệm quý báu. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện quy
trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài
chính tại Công ty Kiểm toán COM.PT” để nghiên cứu, phát triển cho Luận
văn tốt nghiệp của mình.
6
SV: Ninh Đức Cường

6

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp


7

Học viện Tài chính

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài

Từ ý nghĩa quan trọng của đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán Báo
cáo tài chính và thực tế công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại
Công ty Kiểm toán COM.PT, Luận văn muốn làm rõ được lý luận về trọng
yếu, rủi ro kiểm toán nói chung và đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng. Hơn nữa, Luận văn cũng muốn
tìm hiểu quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm
toán COM.PT. Từ đó, em đã có cơ sở để so sánh giữa thực tế và lý thuyết và
có cơ sở để đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình đánh
giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán tại Công ty Kiểm toán COM.PT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu đề tài là các quy định chung của công ty
COM.PT về quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán
BCTC; thực trạng quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm
toán BCTC tại công ty COM.PT; đồng thời tìm hiểu và đánh giá thực trạng
quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài : Đề tài giới hạn việc nghiên cứu vào
các quy định và thực tiễn quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán BCTC tại công ty COM.PT.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
4.1.

Phương pháp chung

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với tư duy và khoa học logic .

4.2.

Phương pháp cụ thể
7
SV: Ninh Đức Cường

7

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

8

Học viện Tài chính

Sử dụng các phương pháp kỹ thuật như phương pháp toán học, phương pháp
tư duy lôgic, phương pháp diễn giải, quy nạp, phương pháp so sánh và phân
tích để tổng hợp về lý luận và thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Ngoài ra, đề tài cũng sử dụng phương pháp
sơ đồ, bảng biểu để làm rõ và bổ sung thêm cho lý luận cũng như thực tiễn
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
5. Nội dung của đề tài

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Lý luận cơ bản về quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm

toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Chương 2: Thực trạng quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Kểm toán COM.PT
Chương 3: Nhận xét, giải pháp và kiền nghị nhằm hoàn thiện quy trình
đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
tại Công ty Kiểm toán COM.PT
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Thịnh Văn Vinh cùng các anh
chị tại Công ty Kiểm toán COM.PT đã có những hướng dẫn chỉ bảo tận tình
cho em để em có thể hoàn thành tốt Luận văn của mình.

Sinh viên
Ninh Đức Cường

8
SV: Ninh Đức Cường

8

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

9

Học viện Tài chính

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUY TRÍNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ
RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.1.KHÁI NIỆM TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1.1. Khái niệm trọng yếu và xét đoán trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan
trọng thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng”.
Trọng yếu là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán.
Nguyên tắc trọng yếu cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu,
quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh. Chính
vì vậy khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong nước cũng
như quốc tế. Có thể trích dẫn một số tài liệu sau:
Theo Bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 47 (SAS 47): “kiểm toán
viên nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch
kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm
toán” (Lý thuyết kiểm toán-NXB Tài chính 2005).
Theo sách Lý thuyết kiểm toán (NXB Tài chính 2005): “Trọng yếu, xét
trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ
và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới
tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử
dụng thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Trên góc độ của
người sử dụng thông tin, nói một cách đơn giản, một thông tin quan trọng và
cần phải được trình bày nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới các quyết định của
người sử dụng”.

9
SV: Ninh Đức Cường

9

Lớp: CQ48/22.07



Luận văn tốt nghiệp

10

Học viện Tài chính

Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200) - Mục tiêu và
nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính: “Trọng yếu: là thuật
ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán)
trong Báo cáo tài chính.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay
thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của người sử
dụng Báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của
thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng
yếu của thông tin phải được xem xét trên cả tiêu chuẩn định lượng và định
tính.”
Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA 320) - Tính trọng yếu trong
kiểm toán: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin
đó có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài
chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục
hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót
đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà
một thông tin hữu ích cần phải có”.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất
của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm,
mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ
không chính xác hoặc rút ra kết luận sai lầm”.
Từ rất nhiều các định nghĩa ở trên ta thấy rằng dù ở trên thế giới hay

Việt Nam “trọng yếu” đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thông tin hay một số liệu kế toán trong Báo cáo
tài chính mà nếu thiếu nó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng
10
SV: Ninh Đức Cường

10

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

11

Học viện Tài chính

đến nhận thức của người sử dụng Báo cáo tài chính, từ đó dẫn đến sai lầm
trong việc đánh giá thông tin và ra các quyết định quản lý. Sự tương đồng
giữa kiểm toán và quản lý này đã dẫn đến tính tất yếu phải lựa chọn nội dung
kiểm toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng kiểm toán, vừa
đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí kiểm toán thấp trên
cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán.
Bởi vậy, để giải quyết yêu cầu trên trong khái niệm “trọng yếu” đã bao
hàm hai mặt liên quan tới nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt
lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.
 Về quy mô

Nhiều kế toán viên và kiểm toán viên mong muốn có được một con số
tuyệt đối chỉ dẫn cho họ về trọng yếu. Nhưng điều này là rất khó vì trọng yếu

là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối và trong thực tế rất khó để ấn
định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm
toán, đặc biệt là khi có các yếu tố tiềm ẩn. Một con số có thể là trọng yếu với
công ty này nhưng không trọng yếu với công ty khác. Bởi vậy, kiểm toán viên
thường quan tâm tới quy mô tương đối hơn quy mô tuyệt đối.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh
giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau trong những tình huống cụ thể.
Chẳng hạn, với báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, số gốc có thể là doanh
thu thuần; với bảng cân đối kế toán, số gốc có thể là tổng tài sản hoặc tài sản
lưu động… Phần đông các kiểm toán viên đều cho rằng “tổng hợp các sai
phạm mà có tỷ lệ nhỏ hơn 5% so với giá trị thu nhập ròng thì được xem là
không trọng yếu nhưng nếu lớn hơn 10% thì chắc chắn trọng yếu”. Nhưng có
khi kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một
con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần nhắc thêm một
11
SV: Ninh Đức Cường

11

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

12

Học viện Tài chính

yếu tố nào khác. Ví dụ như, một vài kiểm toán viên cho rằng “một triệu USD
hoặc một con số lớn hơn thì luôn là con số trọng yếu, không cần quan tâm đến

vấn đề nào khác”.
Ngoài ra, khi xem xét quy mô trọng yếu, kiểm toán viên nên cân nhắc
cả sự ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Trên thực tế thì có rất nhiều
sai phạm khi xem xét chúng một cách cô lập thì không phát hiện ra trọng yếu,
nhưng nếu cộng dồn tất cả các sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính
hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng. Theo
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm toán:
“Kiểm toán viên cần xem xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ
nhưng khi tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính, như:
một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng có thể trở thành một sai sót
trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”.
Việc xác định tính trọng yếu qua quy mô không phải là dễ dàng chính
vì vậy để xác định đúng nội dung kiểm toán trên phương diện này chúng ta
cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Đó là việc xác định
trọng yếu dựa trên các đối tượng nào (Báo cáo tài chính, toàn bộ tài liệu kế
toán hay thực trạng tài chính nói chung) và cũng tùy thuộc vào cả khách thể
kiểm toán thuộc loại hình doanh nghiệp nào (sản xuất, công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, xây lắp hay vận tải…). Vì mỗi ngành,
mỗi lĩnh vực lại có những đặc điểm riêng nên việc tìm hiểu khách hàng là một
công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán.
Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy
mô bằng con số tuyệt đối mà còn phải trong tương quan với các đối tượng
kiểm toán khác. Về định lượng đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp
12
SV: Ninh Đức Cường

12

Lớp: CQ48/22.07



Luận văn tốt nghiệp

13

Học viện Tài chính

vụ so với một cơ sở tính toán như tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi nhuận
trước thuế…Và cũng tùy vào bản chất mà khi tính toán ta nên cộng dồn hay
tách riêng các khoản mục, nghiệp vụ, sai sót có liên quan.
Thứ ba, quy mô trọng yếu còn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu
của cuộc kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ với các chức
năng xác minh hay xác minh, tư vấn….
 Về tính chất

Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá tính trọng
yếu cần tuỳ thuộc vào loại hình, quy mô doanh nghiệp. Đồng thời cần có sự
am hiểu tài chính kế toán, các quy định pháp luật với doanh nghiệp và dựa
vào kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng.
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian
lận: Gian lận và sai sót đều dùng để chỉ các sai phạm nói chung, tuy nhiên giữa
chúng lại có sự khác nhau cơ bản. Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận thường
được chú trọng hơn sai sót vì nó làm người ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin
cậy của các nhà quản lý và các thành viên có liên quan. Do đó, một hành vi gian
lận luôn được coi trọng bất kể quy mô của nó là bao nhiêu. Các khoản mục,
nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận thường bao gồm:

-

Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp vì có thể có
sự móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân;

-

Các nghiệp vụ thanh lý tài sản: có khả năng có sự liên kết giữa người tiến
hành thanh lý và người mua tài sản trong khi tài sản đó vẫn đang trong quá
trình sử dụng;
13
SV: Ninh Đức Cường

13

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

-

14

Học viện Tài chính

Các nghiệp vụ về tiền mặt: các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên, tiền mặt
lại có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận;

-


Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: doanh nghiệp và khách hàng hoặc
nhà cung cấp có thể móc ngoặc với nhau để báo cáo sai về thực trạng hoạt
động của mình;

-

Các nghịêp vụ bất thường: các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng nó lại ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;

-

Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: các nghiệp vụ liên quan đến quyền lợi bao
giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn
thu lợi cho bản thân mình;

-

Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách: các nghiệp vụ phát sinh đều phải được
ghi sổ, nếu đơn vị cố ý bỏ ngoài sổ sách thì đây là biểu hiện của hành vi gian
lận;

-

Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới
phát sinh. Thông thường, vào cuối kỳ quyết toán, để kết quả hoạt động kinh
doanh được như kế hoạch đã định hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch thừa,
thiếu, kế toán thường đưa thêm một số bút toán hạch toán. Do đó các nghiệp
vụ xảy ra vào cuối kỳ thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới phát sinh
thì kiểm toán viên cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó từ trước

tới giờ mới phát sinh, liệu kế toán đã xử lý chưa và từ đó tìm bằng chứng để
chứng minh;

-

Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa vì có thể thông tin tài chính đã bị làm
cho sai lệch dẫn đến ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính;

-

Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: có ảnh
hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và
các cá nhân có liên quan.
14
SV: Ninh Đức Cường

14

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

15

Học viện Tài chính

Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót (không cố ý) hệ trọng:
-


Các nghiệp vụ này thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính thiếu cẩn
trọng của kế toán viên;

-

Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn với
các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan;

-

Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung có thể dẫn
đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin vì nó khiến
ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin cậy của Ban quản trị hoặc của những cá
nhân có liên quan khác;

-

Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần: việc các sai sót lặp lại
nhiều lần cho dù quy mô của sai sót là không lớn thì vẫn gây một sự nghi ngờ
về năng lực của kế toán viên và vấn đề xem xét quản lý sổ sách không được
chặt chẽ. Hơn nữa, tổng hộ các sai sót nhỏ có thể là một sai sót lớn ảnh hưởng
đến Báo cáo tài chính;

-

Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau;

-

Các sai sót có ảnh hưởng tới lợi nhuận;


-

Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan đến nhiều
khoản mục, nghiệp vụ khác.
Việc nhận định và đưa ra ý kiến kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào các
khoản mục, nghiệp vụ liên quan đến bản chất đối tượng kiểm toán. Vì vậy,
khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với
nguyên tắc không bỏ qua các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính
hệ trọng, phản ánh bản chất đối tượng. Vi phạm nguyên tắc này có nghĩa là
không nắm vững nội dung của trọng yếu thì kiểm toán viên đã tạo ra rủi ro
cho cuộc kiểm toán. Do đó, khi đánh giá tính trọng yếu của một nội dung hay
một phát hiện kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xem xét trên cả hai mặt là
15
SV: Ninh Đức Cường

15

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

16

Học viện Tài chính

quy mô và bản chất của vấn đề, từ đó mới đưa ra quyết định hợp lý về tính
trọng yếu, đảm bảo mục tiêu và chất lượng cuộc kiểm toán.
1.1.2.Khái niệm rủi ro kiểm toán và các loại rủi ro trong kiểm toán

1.1.2.1. Khái niệm
Cùng với việc đánh giá trọng yếu thì đánh giá rủi ro cũng là một trong
những bước quan trọng nhất trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Do những
nguyên nhân như trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên thường chỉ lấy
mẫu kiểm toán chứ không kiểm tra toàn bộ, hay việc thu thập các bằng chứng
kiểm toán thường mang tính thuyết phục hơn là chứng minh sự chính xác
tuyệt đối của các số liệu trên Báo cáo tài chính, hay là còn tùy thuộc nhiều
vào óc xét đoán nghề nghiệp của từng kiểm toán viên… nên trong bất kỳ cuộc
kiểm toán nào cũng tồn tại những hạn chế tiềm tàng. Chính vì vậy khả năng
kiểm toán viên đưa ra nhận xét không chính xác về Báo cáo tài chính là điều
luôn có thể xảy ra. Vấn đề là làm thế nào để có thể giảm rủi ro này xuống ở
mức chấp nhận được. Muốn như vậy, ngay từ giai đoạn chuẩn bị kiểm toán,
kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro để điều chỉnh các thủ tục kiểm toán một
cách thích hợp nhằm có được một mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Vậy rủi ro kiểm toán là gì? TheoTừ điển Tiếng Việt: “rủi ro là tính từ
dùng để chỉ việc không may xảy ra” hoặc “rủi ro là điều không lành, không
tốt bất ngờ xảy đến”. Nói chung rủi ro là những điều không mong muốn tuy
nhiên trong các lĩnh vực khác nhau thì đặc trưng của rủi ro lại khác nhau. Sau
đây là những khái niệm khác nhau về rủi ro trong kiểm toán mà đã được đề
cập ở rất nhiều tài liệu.
Rủi ro kiểm toán: “là khả năng mà kiểm toán viên và công ty kiểm
toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được
kiểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt
16
SV: Ninh Đức Cường

16

Lớp: CQ48/22.07



Luận văn tốt nghiệp

17

Học viện Tài chính

Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Do đối tượng kiểm toán là
những thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng những bộ máy quản
lý và các phương thức, thủ tục kiểm soát khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng
được xác định tương ứng đối với từng loại đối tượng kiểm toán. Rủi ro bao
gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm toán
viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông
tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ, kiểm toán viên có thể
đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo cáo tài chính mà không biết rằng
báo cáo này có những sai sót nghiêm trọng”.
1.1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
Rủi ro tiềm tàng: “là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi
tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát nội bộ”.
(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ). Chẳng hạn như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có sự thay đổi
nhanh về kỹ thuật rất có thể dẫn đến khả năng có sai sót cao ở khoản mục
hàng tồn kho trên Báo cáo tài chính do không lập dự phòng giảm giá đầy đủ
đối với những hàng hóa bị lỗi thời; hay khoản mục tiền trên Báo cáo tài chính
thường có khả năng sai sót cao do tiền là loại tài sản nhạy cảm với gian lận.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh
của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của

khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát
rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ đánh giá chúng. Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng có
thể được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau như từ cuộc kiểm toán năm
17
SV: Ninh Đức Cường

17

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

18

Học viện Tài chính

trước hay từ những tìm hiểu về ngành nghề kinh doanh, chính sách kế toán,
tài chính của khách thể kiểm toán.
Đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì trên cơ sở
đó kiểm toán viên dự kiến những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực
hiện đối với các khoản mục, nghiệp vụ trọng yếu trên Báo cáo tài chính.
Rủi ro kiểm soát: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản
mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc
không phát hiện và sửa chữa kịp thời”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Ví dụ như: một hệ thống kiểm
soát nội bộ tốt vẫn có thể gặp sai sót khi hệ thống xây dựng quá phức tạp,
luân chuyển nhân sự nhiều hoặc thiếu đào tạo nhân viên… Môi trường
kiểm soát thường thể hiện ý chí, quan điểm, nhận thức, hành động của nhà

quản lý đơn vị vì vậy cần được xem xét kỹ lưỡng. Đối với các doanh
nghiệp xử lý số liệu bằng phương pháp điện tử, rủi ro kiểm toán là cao nếu
doanh nghiệp không kiểm soat tốt được quy trình xử lý số liệu từ khâu
nhập số liệu, thiết kế chương trình phần mềm, bảo mật thông tin…
Như vậy, cũng như rủi ro tiềm tàng, đối với rủi ro kiểm soát, kiểm
toán viên cũng không tạo ra và kiểm soát chúng mà chỉ đánh giá chúng để
đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
Rủi ro phát hiện: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản
mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát
hiện ra được”.(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ). Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ
nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm toán viên
18
SV: Ninh Đức Cường

18

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

19

Học viện Tài chính

thực hiện. Ví dụ như: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán viên mở
rộng phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các thử nghiệm hay tăng các
thủ tục kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ.

Khác với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên phải có
trách nhiệm phát hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm
quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Đó
là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng
thấp và ngược lại nếu mức trọng yếu có thể chấp nhận được giảm xuống thì
rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên vì khi đó giá trị sai sót có thể bỏ qua giảm xuống.
Mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán sẽ áp dụng.
Không những thế cả trọng yếu và rủi ro kiểm toán đều ảnh hưởng đến
tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Đó là mối quan hệ tỷ lệ
thuận: nếu mức độ trọng yếu và mức độ rủi ro kiểm toán càng cao thì số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều.
Số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ phải nhiều lên khi kiểm toán các
khoản mục có tính trọng yếu cao. Chẳng hạn, khi kiểm toán một đơn vị sản
xuất thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập để đạt được mục tiêu
kiểm toán đối với hàng tồn kho bao giờ cũng phải lớn hơn so với số lượng
bằng chứng cần thu thập cho khoản trả trước. Và cũng tương tự như với tính
trọng yếu, thông thường số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ tăng
lên trong những trường hợp có nhiều khả năng sai phạm.

19
SV: Ninh Đức Cường

19

Lớp: CQ48/22.07



20

Luận văn tốt nghiệp

Học viện Tài chính

Bảng 1.1: Các mối quan hệ giữa của rủi ro kiểm toán với bằng chứng
phải thu thập
Trường

Rủi ro

Rủi ro

Rủi ro

Rủi ro phát

Số lượng bằng

hợp

kiểm toán

tiềm tàng

kiểm soát

hiện


chứng cần thu thập

1

Cao

Thấp

Thấp

Cao

Thấp

2

Thấp

Thấp

Thấp

Trung bình

Trung bình

3

Thấp


Cao

Cao

Thấp

Cao

4

Trung bình

Trung bình

Trung bình

Trung bình

Trung bình

5

Cao

Thấp

Trung bình

Trung bình


Trung bình

Nguồn: “Kiểm toán” - AlvinArren, sách dịch, tr194.
1.2.QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1. Cơ sở đánh giá
1.2.1.1.
Đối với tính trọng yếu

Như ta đã biết việc đánh giá tính trọng yếu có ý nghĩa như thế nào đối
với một cuộc kiểm toán. Muốn đánh giá được tính trọng yếu ta thường phải
dựa vào trước hết chính là nội dung hàm chứa bên trong khái niệm trọng yếu,
đó là quy mô và bản chất của đối tượng. Đây cũng là hai cơ sở quan trọng
nhất khi đánh giá trọng yếu.
Khi đánh giá tính trọng yếu ngoài việc phải xem xét quy mô tuyệt đối
của sai phạm mà còn phải chú ý đến quy mô tương đối của nó, tức là mối
quan hệ của nó với các đối tượng khác. Trong toàn bộ đối tượng kiểm toán
bao giờ cũng có những nội dung, nghiệp vụ, khoản mục quan trọng hơn, đòi
hỏi tập trung nhiều hơn. Đây chính là mặt bản chất của vấn đề cần xem xét.
Ngoài ra, khi đánh giá tính trọng yếu ta cũng cần chú ý đến những tiêu
chí khác nữa như mục tiêu kiểm toán cụ thể, tính không chắc chắn của vấn đề
xem xét, tính chất thường xuyên hay không thường xuyên của nghiệp vụ,…
1.2.1.2.

Đối với rủi ro kiểm toán
20
SV: Ninh Đức Cường

20


Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

21

Học viện Tài chính

Đối với rủi ro kiểm toán: cơ sở để đánh giá rủi ro chính là các yếu tố
bao hàm trong mỗi loại rủi ro.
Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tồn tại sai sót trọng yếu không kể đến hoạt
động kiểm soát nội bộ và kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá là những tồn tại
tiềm tàng thuộc về bản chất của đối tượng như: đặc điểm kinh doanh của
khách hàng, công việc ngành nghề kinh doanh, bản chất hệ thống kế toán…
Rủi ro kiểm soát là khả năng tồn tại sai sót trọng yếu khi đã kể đến hiệu
lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, vì vậy, cơ sở để tiến hành đánh giá chính là
bộ máy kế toán, hệ thống Kiểm soát nội bộ. Đánh giá rủi ro kiểm soát chính là
quá trình đánh giá cách thiết kế, tính liên tục và hiệu quả hoạt động của hệ thống
Kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai sót nghiêm trọng.
Rủi ro phát hiện là rủi ro mà các kiểm toán viên không phát hiện ra các
sai sót nghiêm trọng trong quá trình kiểm toán, vì vậy, cơ sở đánh giá nó
chính là việc thực hiện các bước kiểm toán, phạm vi tiến hành kiểm toán và
sự tuân thủ các Chuẩn mực kiểm toán của kiểm toán viên.
Đối với rủi ro tài khoản: để lựa chọn cơ sở cho việc đánh giá rủi ro tài
khoản, cần quan tâm đến mối quan hệ chặt chẽ giữa trọng yếu và rủi ro. Mối
quan hệ đó thể hiện ngay trong khái niệm rủi ro kiểm toán: “rủi ro kiểm toán
là rủi ro mà kiểm toán viên mắc phải khi đưa ra ý kiến chấp nhận không thích
hợp về Báo cáo tài chính khi vẫn tồn tại những sai sót trọng yếu”. Trong mọi
cuộc kiểm toán thì trọng yếu và rủi ro có quan hệ tỷ lệ nghịch với nhau. Khi

kiểm toán viên đánh giá là có nhiều khoản mục trọng yếu trên Báo cáo tài
chính và cần tiến hành kiểm tra, xem xét nhiều khoản mục, nghiệp vụ để rủi
ro kiểm toán thấp, nghĩa là khả năng còn tồn tại những sai sót trọng yếu là
thấp. Ngược lại, khi kiểm toán viên đánh giá là có ít hơn các khoản mục trọng
yếu thì sẽ có ít hơn các khoản mục, nghiệp vụ phải kiểm tra, xem xét thì rủi ro
còn tồn tại những sai sót trọng yếu là lớn hơn.
21
SV: Ninh Đức Cường

21

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

22

Học viện Tài chính

Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên phải xem những nhân tố có
thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong Báo cáo tài chính. Đánh giá
của kiểm toán viên về mức trọng yếu liên quan đến số dư các tài khoản cụ thể
và các loại nghiệp vụ, giúp họ xác định được các khoản mục nào cần kiểm tra
và nên áp dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích.
Điều này giúp kiểm toán viên lựa chọn được những thủ tục kiểm toán, kết hợp
các thủ tục kiểm toán đó với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán đến
một mức có thể chấp nhận được.
1.2.2. Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong giai đoạn lập kế hoạch


kiểm toán
1.2.2.1.

Đánh giá trọng yếu trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Việc đánh giá thế nào là trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán
nghề nghiệp của kiểm toán viên, được tiến hành trong suốt cuộc kiểm toán, từ
khâu lập kế hoạch cho đến khâu kết thúc. Nói chung, quy mô sai sót là một
nhân tố quan trọng để kiểm toán viên xem xét các sai sót có trọng yếu hay
không. Tuy nhiên, khái niệm trọng yếu bao gồm hai yếu tố của sai phạm về
quy mô và bản chất nên mặc dù thông thường, kiểm toán viên lập kế hoạch
kiểm toán để tìm ra các sai sót nghiêm trọng về mặt định lượng, nhưng trên
thực tế, kiểm toán viên phải đánh giá, xét đoán cả về định lượng và định tính
của bất cứ sai phạm nào phát hiện ra. Trong khi đề cập đến những sai sót có
thể có, kiểm toán viên cần xét vấn đề trọng yếu ở mức độ tổng thể cũng như
trong mối quan hệ với các số dư tài khoản cá biệt khác và sự thể hiện trên Báo
cáo tài chính. Tính trọng yếu cần phải được đặc biệt xem xét ở hai giai đoạn
trong cuộc kiểm toán: lập kế hoạch kiểm toán khi kiểm toán viên quyết định
cần tiến hành những thủ tục kiểm toán nào, xác định thời gian và phạm vi của

22
SV: Ninh Đức Cường

22

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

23


Học viện Tài chính

thủ tục kiểm toán đó, sau đó là khâu rà soát lại, khi kiểm toán viên đánh giá
ảnh hưởng của tất cả các sai sót.
Lập kế hoạch kiểm toán bao gồm việc xác định mục tiêu, phạm vi, thời
hạn và tính chất của các thủ tục kiểm toán,…, trong đó có việc thiết lập một
mức trọng yếu có thể chấp nhận được, cho phép kiểm toán viên phát hiện ra
các sai sót trọng yếu. ở giai đoạn thực hiện kiểm toán, việc đánh giá trọng yếu
có thể khác so với giai đoạn chuẩn bị, có thể do sự thay đổi hoàn cảnh và
cũng có thể do kiểm toán viên thu thập thêm những hiểu biết về khách hàng
của mình. Cụ thể, sau khi thiết lập được mức trọng yếu có thể chấp nhận
được, kiểm toán viên tiến hành các thủ tục kiểm toán theo kế hoạch để phát
hiện các sai phạm, sau đó áp dụng mức trọng yếu đã xây dựng để đánh giá
ảnh hưởng của các sai phạm đó, từ đó đề xuất các biện pháp xử lý. Để đánh
giá mức độ trọng yếu, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về
con số tuyệt đối mà phải xét trong tương quan với toàn bộ đối tượng kiểm
toán. Về định lượng, đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so với
một cơ sở để tính toán như: tổng tài sản, lợi nhuận trước thuế,…Tuỳ quan hệ
cụ thể với đối tượng cụ thể của kiểm toán, có thể tính riêng biệt hay cộng dồn
các khoản mục, nghiệp vụ cụ thể hay các sai sót có liên quan. Tính trọng yếu,
nếu đánh giá về quy mô tương đối, có ba mức độ khác nhau để so sánh:
 Quy mô nhỏ: không trọng yếu

Thông thường, một khoản mục, một loại nghiệp vụ luôn có quy mô nhỏ
trên Bảng Cân đối kế toán hay Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh thì việc
phản ánh đúng hay sai nghiệp vụ này không ảnh hưởng đến quy mô chung
trên đối tượng kiểm toán và từ đó không ảnh hưởng đến nhận thức về đối
tượng này cùng những quyết định đưa ra trên cơ sở đã được kiểm toán. Các
khoản mục, nghiệp vụ này cũng không thể hiểu một cách bất biến, chẳng hạn,

một khoản mục vật liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất mặt hàng
23
SV: Ninh Đức Cường

23

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

24

Học viện Tài chính

này nhưng lại trọng yếu trong việc sản xuất mặt hàng khác, có thể trọng yếu
trong thời kỳ này nhưng không trọng yếu trong thời kỳ trước,…
 Quy mô lớn nhưng chưa đủ mức quyết định nhận thức về đối tượng: có

thể không trọng yếu
Thông thường, một khoản mục có quy mô lớn sẽ ảnh hưởng đến nhận
thức về tình hình tài chính của đơn vị, và từ đó ảnh hưởng đến các quyết định
được đưa ra. Tuy nhiên, không phải lúc nào hậu quả này cũng như nhau.
Chẳng hạn, khoản mục hàng hoá thường có quy mô khá lớn nhưng sai lệch
của nó (nếu có) là nhỏ không ảnh hưởng đến số tổng cộng của Bảng Cân đối
kế toán. Bởi vậy nếu đối tượng trực tiếp của cuộc kiểm toán là bảng này hay
toàn bộ hệ thống bảng tổng hợp tài chính thì kiểm toán viên vẫn có thể thực
hiện chức năng xác minh của mình. Một ví dụ khác, người sử dụng có thể
quyết định sai về cung ứng hay vay tiền, thế chấp,…, nhưng việc đó lại không
đặt ra trong mục tiêu kiểm toán Báo cáo tài chính nhưng nghiệp vụ loại này sẽ

là trọng yếu trong kiểm toán nghiệp vụ vật tư hay mua hàng,… Vì vậy, trong
tổ chức kiểm toán phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan và mối quan hệ với
những người quan tâm.
 Quy mô lớn, đủ quyết định bản chất đối tượng kiểm toán:

trọng yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô lớn được xác định trong tương
quan với đối tượng kiểm toán, song trong thực tế cũng có thể làm rõ hơn
trong tương quan với các khoản mục, nghiệp vụ quy mô nhỏ và cả với việc
thực hiện nguyên tắc trọng yếu trong kế toán.
Nếu đánh giá trọng yếu trên phương diện tính hệ trọng của các nghiệp
vụ hay khoản mục thì các khoản mục được coi là trọng yếu thường bao gồm:
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng



gian lận như: các nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu, nghiệp vụ thanh lý tài sản,
24
SV: Ninh Đức Cường

24

Lớp: CQ48/22.07


Luận văn tốt nghiệp

25

Học viện Tài chính


nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách, nghiệp vụ sửa chữa sổ sách, nghiệp vụ xảy
ra vào ngày cuối kỳ kế toán,…
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng: các khoản mục,



nghiệp vụ có quy mô sai sót lớn hoặc có chênh lệch nhiều với các kỳ trước,
các sai sót lặp đi lặp lại nhiều lần, các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kỳ sau,…
Theo phương pháp vận dụng đánh giá trọng yếu được đề cập trong
“Auditing” của tác giả W.Morley Lemon, Alvin A.Arens, Jame K.Loebbecke
một phương pháp được công nhận phổ biến thì vận dụng đánh giá trọng yếu
trong một cuộc kiểm toán bao gồm 5 bước cơ bản: (1) Ước lượng sơ bộ ban
đầu, (2) Phân bổ ước lượng ban đầu cho các bộ phận, (3) Ước tính tổng số sai
sót trong từng bộ phận, (4) Ước tính sai sót kết hợp, (5) So sánh sai số kết hợp
với ước lượng ban đầu. Trong đó, hai bước đầu tiên được thực hiện trong giai
đoạn lập kế hoạch kiểm toán, ba bước sau được thực hiện trong giai đoạn thực
hiện kiểm toán.

25
SV: Ninh Đức Cường

25

Lớp: CQ48/22.07


×