Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

CÔNG NGHIỆP HÓA Ở HÀN QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.63 KB, 132 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------

HOÀNG VIỆT HÀ

CÔNG NGHIỆP HÓA Ở HÀN QUỐC
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được sử
dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Những kết quả trình
bày trong luận văn chưa từng được công bố trong một công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn
và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Hoàng Việt Hà


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến TS.Nguyễn Mạnh Hùng


đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn này.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến toàn thể các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Kinh tế
chính trị, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã quan tâm, tham gia đóng
góp ý kiến và hỗ trợ tôi trong quá trình học tập cũng như quá trình nghiên cứu, giúp tôi có
cơ sở kiến thức và phương pháp nghiên cứu để hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới các cơ quan hữu quan đã hỗ trợ, cung cấp tài
liệu, số liệu, tạo điều kiện cho tôi có cơ sở để nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và những người
bạn thân yêu đã luôn quan tâm, động viên, khích lệ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 10 tháng 03 năm 2016
Tác giả luận văn

Hoàng Việt Hà


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25

Ký hiệu
APEC
AFTA
ADB
Chaebol
CHN-HĐH
CRDC

Nguyên nghĩa
Diễn đàn hợp tác kinh tế chấu Á – Thái Bình Dương
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Ngân hàng phát triển châu Á

Tập đoàn công nghiệp lớn của Hàn Quốc
Công nghiệp hóa hiện đại hóa
Trung tâm thương mại hóa nghiên cứu phát triển khoa

G20
GDP
GNP
NICs/NIEs
NAFTA
IMF
ODA
OECD
KT-XH
KTTT
KHCN
MTI
R&D
TBCN
UNIDO
UNKRA
WTO
WB
XHCN

học công nghệ Hàn Quốc
Nhóm các nền kinh tế lớn
Tổng sản phẩm quốc nội
Tổng sản lượng quốc dân
Các nước công nghiệp mới
Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ

Quỹ tiền tệ quốc tế
Hỗ trợ phát triển chính thức
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
Kinh tế xã hội
Kinh tế thị trường
Khoa học công nghệ
Bộ thương mại và công nghệ Hàn Quốc
Hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ
Tư bản chủ nghĩa
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc
Tổ chức tái thiết Hàn Quốc của Liên hợp quốc
Tổ chức thương mại thế giới
Ngân hàng thế giới
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT

Số hiệu

1

3.1

2

3.2

3


3.3

4

3.4

Nội dung
Tốc độ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc 1981-1995
Xếp hạng và tỷ phần của công nghiệp Hàn Quốc
trong nền công nghiệp thế giới (1994)
Nhập khẩu công nghệ của Hàn Quốc (1982-1991)
Tăng trưởng GDP và tổng thu nhập Quốc gia theo
đầu người của Hàn Quốc (1960-2008)
i

Trang
59
60
62
64


5

4.1

Tương đồng Việt Nam - Hàn Quốc về cơ cấu nền
kinh tế

ii


94


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Sự thần kỳ” mà các nước NICs (các nước công nghiệp mới) ở Châu Á
đạt được trong những thập kỷ qua không phải là sự ngẫu nhiên, mà là cả một quá
trình tìm tòi, thử nghiệm và phấn đấu kiên trì của các quốc gia, vùng lãnh thổ công
nghiệp mới Châu Á. Trải qua những thăng trầm, thất bại và thành công, họ đã
tìm ra một mô hình phát triển kinh tế phù hợp với những điều kiện thực tế ở mỗi
nước, đó là chìa khóa để đi từ những nước, lãnh thổ nghèo nàn, lạc hậu vươn lên thành
những quốc gia có nền công nghiệp phát triển, hòa nhập vào cộng đồng kinh tế thế
giới với địa vị không ngừng được nâng cao.
Hàn Quốc là một đất nước nhỏ nằm ở phía cực Đông của châu Á được biết đến
là một nước công nghiệp mới điển hình. Mặc dù xếp vị trí thứ 109 trên thế giới về mặt
lãnh thổ nhưng Hàn Quốc lại là trung tâm của các hoạt động kinh tế, văn hoá và nghệ
thuật của Châu Á. Hàn Quốc đã trải qua thời kỳ thực dân trị của Nhật Bản vào đầu thế
kỷ 20 và sau đó là cuộc chiến tranh Hàn Quốc (1950-1953) nhưng trong một thời gian
ngắn, Hàn Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc, vẫn thường
được biết đến là “Kỳ tích Sông Hàn”. Nếu cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội
của Hàn Quốc chỉ đứng ngang với các nước nghèo ở châu Phi và châu Á thì hiện nay,
tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc xếp thứ 10 trên thế giới. Từ những năm 1970
nhiều công ty lớn của Hàn Quốc bắt đầu tạo chỗ đứng trên thị trường thế giới. Trong
số đó có thể kể tới Samsung, Hyundai hay GM Daewoo. Cho đến nay, Hàn Quốc đã là
một quốc gia công nghiệp đứng vị trí cao trên trường thế giới. Ngành công nghiệp
chất bán dẫn, ô tô, đóng tàu, sản xuất thép và công nghệ thông tin của Hàn Quốc có vị
trí hàng đầu trên thị trường thế giới. Hàn Quốc đang được thế giới công nhận và đánh
giá là một trong 4 con rồng phát triển nhất của châu Á. Sở dĩ có được bước tiến bộ
vượt bậc và phát triển thành một nước công nghiệp như ngày nay là cả một quá trình

kéo dài với những chiến lược công nghiệp hóa diễn ra liên tục và hiệu quả. Trong
những năm qua, Hàn Quốc được các nhà phân tích kinh tế trên thế giới thừa nhận là
một điển hình của một nền kinh tế phát triển thành công, đặc biệt là từ khi xuất phát từ
đặc thù địa lý, Hàn Quốc là một quốc gia không được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên.
Từ một nước gặp nhiều khó khăn sau chiến tranh, Hàn Quốc mau chóng trở thành một
nước công nghiệp mới (NICs/NIEs). Hàn Quốc có một quá trình công nghiệp hóa
được rút ngắn một cách tối đa (chỉ còn 30 năm) so với Mỹ, các nước EU và Nhật Bản

1


do có được chiến lược công nghiệp hóa đúng đắn, tận dụng được lợi thế của “người
đi sau”, tiếp thu được kinh nghiệm của cả ba nhóm nước phát triển trên. Vị thế mới
của Hàn Quốc trong cộng đồng quốc tế được đánh dấu vào năm 2010 với việc trở
thành quốc gia Châu Á đầu tiên giữ vai trò chủ tịch G20 và tổ chức Hội nghị
Thượng đỉnh G20. Năm 2011, Hàn Quốc là thực thể kinh tế lớn thứ 15 thế giới,
năm 2012 đã vươn lên thứ 12 thế giới, năm 2013 vươn lên thứ 11 và năm 2016 dự
kiến vươn lên thứ 9 thế giới.
Việt Nam và Hàn Quốc là hai nước Châu Á có nhiều nét tương đồng về lịch sử,
địa lý và văn hóa, cơ sở kinh tế xã hội. Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới Việt Nam
đã đạt được một số thành tựu nhất định, tuy nhiên nếu xét theo các tiêu chuẩn quốc tế
thì Việt Nam vẫn là một quốc gia kém phát triển. Để có thể vươn lên đạt trình độ
ngang hàng với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam tất yếu phải lựa chọn con đường
công nghiệp hóa hiện đại hóa. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược do Đại Hội VIII
đề ra là phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa đất nước ta cơ bản trở thành một đất nước
công nghiệp. Việc học hỏi kinh nghiệm từ những quốc gia đi trước sẽ giúp rút ngắn
thời gian, tăng hiệu quả và tránh được những rủi ro không đáng có trong quá trình thực
hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa. Đánh giá khách quan cho rằng công nghiệp hóa ở
Hàn Quốc được coi là bài học kinh nghiệm điển hình dành cho Việt Nam.

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức
mới do quá trình toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế mang lại. Trong bối cảnh các nguồn
lực kinh tế của Việt Nam còn nhiều hạn chế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
kết hợp với việc học hỏi kinh nghiệm từ các nước công nghiệp đi trước là một bước đi
đúng đắn. Vì vậy việc nghiên cứu kinh nghiệm công nghiệp hóa của các nước đi trước
để tìm ra những giải pháp cho Việt Nam là một vấn đề cấp thiết.
Đề tài “Công nghiệp hóa ở Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”
được học viên lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành kinh tế chính trị.
* Câu hỏi nghiên cứu:
- Những thành công và thất bại của Hàn Quốc trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa là gì?
- Việt Nam sẽ học hỏi được những gì và vận dụng như thế nào từ bài học kinh
nghiệm rút ra trong quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc?

2


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích:
Nghiên cứu quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc, rút ra và đánh giá những
bài học kinh nghiệm từ quá trình đó để vận dụng ở Việt Nam. Trên cơ sở những bài
học thành công và thất bại của Hàn Quốc đưa ra một số định hướng góp phần nâng cao
hiệu quả của việc vận dụng những bài học kinh nghiệm này vào quá trình công nghiệp
hóa ở Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về công nghiệp hóa.
Đánh giá thành tựu và hạn chế của quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc từ đó
rút ra được những bài học kinh nghiệm để vận dụng ở Việt Nam.
Đánh giá khả năng vận dụng những bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc vào quá
trình công nghiệp hóa ở Việt Nam.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc và những bài học kinh nghiệm có khả
năng vận dụng đối với Việt Nam.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung đánh giá một số những bài học kinh nghiệm thành công và
thất bại được rút ra từ quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó nghiên
cứu khả năng vận dụng những bài học kinh nghiệm trên vào quá trình công nghiệp
hóa ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế, phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa, kết hợp giữa
logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp để làm rõ đối tượng nghiên cứu.
Luận văn sử dụng một số tài liệu của các đề tài, dự án, công trình nghiên cứu,
bài viết trên các tạp chí đã được công bố về vấn đề có liên quan để từ đó làm căn cứ
đánh giá, lựa chọn và phân tích những bài học kinh nghiệm phù hợp nhất, có khả năng
vận dụng cao góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam đạt hiệu quả
như công cuộc công nghiệp hóa của Hàn Quốc.

3


KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, luận văn được kết cấu thành 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu; Cơ sở lý luận về công nghiệp
hóa ở các nước
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Chương 3: Quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc và những bài học kinh
nghiệm cho các nước
- Chương 4: Vận dụng những bài học kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hóa

ở Hàn Quốc vào Việt Nam

4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU; CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ
CÔNG NGHIỆP HÓA Ở CÁC NƯỚC
1.1 Tổng quan nghiên cứu đề tài
Vấn đề công nghiệp hóa nói chung, vấn đề công nghiệp hóa ở các quốc gia trên
thế giới cụ thể là ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề đã được nhiều tác giả nghiên cứu
từ trước cho đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu mỗi tác giả đều có những
hướng nghiên cứu riêng biệt, một số nghiên cứu những lý luận cơ sở, một số khác chỉ
tập trung vào một vài quan điểm cụ thể trong quá trình vận dụng, đặc biệt việc nghiên
cứu kinh nghiệm công nghiệp hóa đúc kết từ các nước phát triển đi trước để áp dụng
vào Việt Nam là một nội dung chưa được nghiên cứu sâu rộng. Nghiên cứu công
nghiệp hóa ở Hàn Quốc và việc vận dụng bài học kinh nghiệm ở Việt Nam, một mặt,
học viên muốn tìm hiểu nguyên nhân sự phát triển thần kỳ của Hàn Quốc, một quốc
gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, mặt khác nghiên cứu về việc áp dụng
những kinh nghiệm công nghiệp hóa được đúc kết từ quá trình phát triển của nước bạn
cho Việt Nam. Có thể kể ra một số sách, bài đăng tạp chí, công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài luận văn mà học viên tổng hợp được như sau:
- “Con đường phát triển của một số nước châu Á – Thái Bình Dương” (1996)
của tác giả Dương Phú Hiệp (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. Tác giả đã
đề cập đến một vài khía cạnh của khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cuốn sách
đã giới thiệu con đường phát triển của một số nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương, tập trung phân tích những nguyên nhân và những bài học thành công của một
số nước trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tuy nhiên ở đây mới chỉ đề
cập đến một vài quốc gia tiêu biểu như Trung Quốc, có đề cập đến một vài quốc gia
Đông Á nổi bật khác như Hàn Quốc, Singapore… nhưng chưa đưa ra được những

chính sách cụ thể trong quá trình công nghiệp hóa của các quốc gia đó.
- “Hàn Quốc trước thể kỷ XXI” (1999) của hai tác giả Dương Phú Hiệp và Ngô
Xuân Bình, NXB Thống kê Hà Nội. Các báo cáo trong cuốn sách đã có những phân
tích về một số vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, dự báo sự phát triển của Hàn
Quốc trong thời gian tới, và một số báo cáo đề cập tới quan hệ giữa Hàn Quốc và Việt

5


Nam nhưng tập trung chủ yếu vào các sự kiện nổi bật về chính trị và chỉ mới đề cập
đến một vài giai đoạn trong quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc.
- “Hàn Quốc trên con đường phát triển” (2000) của hai tác giả Ngô Xuân Bình
và Phạm Quý Long, NXB Thống kê Hà Nội. Trong cuốn này các tác giả đã khái quát
về tình hình kinh tế và xã hội của Hàn Quốc như khủng hoảng tài chính Châu Á và tương
lai của nền kinh tế Hàn Quốc; tìm hiểu chính sách chống thất nghiệp ở Hàn Quốc; về một
số chính sách công nghiệp và thương mại tiêu biểu của Hàn Quốc trong quá trình công
nghiệp hoá; một số bài học kinh nghiệm phát triển kinh tế của Hàn Quốc; và một vài nét
về cải cách hành chính ở Hàn Quốc hiện nay… Tuy nhiên hai tác giả chỉ mới đưa ra
những quan điểm khái quát, chưa đi sâu vào phân tích cụ thể những chính sách cũng bài
học kinh nghiệm của quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc đã để lại.
- “Kinh tế Hàn Quốc đang trỗi dậy” (2002) của tác giả Byung Nak Song, NXB
Thống kê Hà Nội được Phạm Quý Long dịch. Trong cuốn này tác giả đã có những
đánh giá khách quan về nền kinh tế Hàn Quốc, đi sâu vào phân tích môi trường kinh tế
và sự tăng trưởng kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó
tác giả còn đề cập đến các mối quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc với các quốc gia khác,
những mối quan hệ này chi phối không nhỏ đến việc định hướng và xây dựng các
chính sách kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa.
- “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam” (2005)
của tác giả Trần Văn Thọ, NXB Trẻ và Công ty Văn hóa Phương Nam. Cuốn sách này
trả lời các câu hỏi về vị trí của Việt Nam trên bản đồ công nghiệp Đông Á và tập trung

phân tích hầu hết các vấn đề liên quan đến công nghiệp hoá, đề khởi các chiến lược,
chính sách, biên pháp nhằm tăng sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam để đối phó hữu
hiệu với các thách thức và tận dụng các cơ hội phát triển ở vùng Đông Á.
- “Quá trình phát triển kinh tế xã hội của Hàn Quốc (1961-1993) và kinh
nghiệm đối với Việt Nam” (2008) của tác giả Hoàng Văn Hiển, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội. Tác giả đã trình bày có hệ thống toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của Hàn Quốc trong những năm 1961-1993 về bối cảnh quốc tế, trong nước và các
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hai mô hình chiến lược hướng nội và hướng
ngoại; những thành tựu tiêu biểu về kinh tế - xã hội và những hạn chế cơ bản của Hàn
Quốc trong hơn ba thập niên công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; xác định các

6


điều kiện và yếu tố bên trong, bên ngoài tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã
hội trong giai đoạn này; rút ra những đặc điểm những quy luật phát triển chung, những
kinh nghiệm phát triển phát triển của Hàn Quốc đối với Việt Nam. Tuy nhiên đáng tiếc
là tác giả chỉ mới đề cập đến một giai đoạn nhất định trong quá trình thực hiện công
nghiệp hóa ở Hàn Quốc, chưa mở rộng nghiên cứu toàn bộ quá trình này.
- “Nông nghiệp Hàn Quốc trên con đường phát triển” (2010) của tác giả TS
Trần Quang Minh (chủ biên), NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội. Tác giả đã chỉ ra
những ý kiến tổng quan về nền nông nghiệp của Hàn Quốc, nghiên cứu một vài chính
sách tiêu biểu để giải quyết những vấn đề cơ bản trên con đường phát triển nông nghiệp
hiện đại ở Hàn Quốc, đặc biệt tác giả dành ra một chương nói về các giải pháp của chính
phủ Hàn Quốc và những đề xuất gợi ý cho Việt Nam về việc phát triển nông nghiệp hiện
đại trong quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên cuốn sách mới chỉ đề cập đến riêng lĩnh
vực nông nghiệp, chưa có thêm nhiều nghiên cứu về các ngành kinh tế khác.
- “Một số mô hình công nghiệp hóa trên thế giới và Việt Nam” (2011) của tác giả
Mai Thị Thanh Xuân (chủ biên), NXB Đại học Quốc gia. Tác giả đã đề cập một cách có
hệ thống các quan niệm về công nghiệp hóa và những nghiên cứu về các mô hình công

nghiệp hóa ở các nước trên thế giới và Việt Nam, đồng thời đưa ra những quan điểm về
việc lựa chọn mô hình công nghiệp hóa cho Việt Nam ở giai đoạn 2011-2020.
- “Sự chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế của Hàn Quốc, những gợi ý và liên
hệ với Việt Nam” (2010), Võ Thanh Hải, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á. Bài viết đã
đưa ra nhận định về những nét tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Hàn Quốc
về các điều kiện để phát triển kinh tế trong các giai đoạn của quá trình công nghiệp
hóa để từ đó có những kiến nghị cho sự cải cách đổi mới của Việt Nam.
- “Một số kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở
các nước châu Á đối với Việt Nam” Mai Thị Thanh Xuân. Nghiên cứu của tác giả đã
đưa ra hệ thống những quan điểm về việc áp dụng những bài học kinh nghiệm về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn từ các nước châu Á đối với Việt Nam.
Tác giả nhận định trong thời kỳ đầu CNH HĐH các nước đều phải coi trọng phát triển
nông nghiệp, chú trọng kết hợp CNH ở cả đô thị lẫn nông thôn…
- “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: Tiêu chí và mức độ hoàn thành”
(2014) Nguyễn Hồng Sơn, Trần Quang Tuyến, Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế

7


giới. Bài nghiên cứu đã trình bày rõ ràng và cụ thể về những tiêu chí công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở Việt Nam thông qua các vấn đề về thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, phát triển bền vững… và đưa ra những kết luận về mức độ công nghiệp hóa ở Việt
Nam hiện nay.
- “Các điều kiện công nghiệp hóa rút ngắn trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản ở nước ta hiện nay” (2014) Vũ Văn Hà, Tạp chí Cộng
sản. Bài viết đã phân tích những điều kiện thực hiện công nghiệp hóa rút ngắn trong
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời đưa ra một số giải
pháp đồng bộ, phát huy các nguồn lực bên trong và bên ngoài, để có thể thực hiện quá
trình phát triển rút ngắn.
- “Công nghiệp hóa hiện đại - bước chuyển quan trọng đưa nước ta sớm trở

thành nước công nghiệp” (2015) Phạm Xuân Đương, Tạp chí Cộng sản. Bài viết đã đề
cập đến một số vấn đề đặt ra cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
bao gồm các vấn đề lý luận và thực tiễn cùng những đề xuất mô hình CNH và các giải
pháp đẩy nhanh quá trình CNH HĐH.
- “Những quan niệm cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đặc điểm, nội
dung của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”(2002) Nguyễn
Thanh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. Đề tài đã trình bày các khái niệm khác
nhau về công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đồng thời đưa ra những nghiên cứu của mình
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam từ những năm 1960 cho đến cuối những
năm 1990, nhận xét cụ thể về bối cảnh, đặc điểm nội dung của CNH HĐH ở nước ta
trong giai đoạn đó.
- “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” (2007)
Trần Thị Chúc, Đề tài nghiên cứu khoa học. Đề tài này cũng đã khái quát được quá
trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam từ những năm sau đổi mới 1986, đánh
giá quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam trên phương diện tích cực và hạn chế, từ đó đưa
ra một vài giải pháp.
- “Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế (thời kỳ 1961-2003) - Bài học kinh nghiệm và
khả năng vận dụng vào Việt Nam” (2004) Trần Khánh Hưng. Luận án tiến sĩ này đã đề
cập đến vai trò của nhà nước trong quá trình CNH HĐH ở Đài Loan và từ đó chọn lọc
nghiên cứu những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

8


- “Vai trò của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu
của Malayxia - kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam” (2004) Trần Tuấn
Linh. Luận án tiến sĩ cũng nghiên cứu về vài trò của nhà nước trong việc định hướng
các chính sách trong quá trình CNH Malayxia, từ đó rút ra những bài học về việc xây
dựng chính sách kinh tế trong quá trình CNH HĐH ở Việt Nam.

Mặc dù nội dung những tài liệu dẫn ra ở trên không đề cập trực tiếp đến vấn đề
học viên đang nghiên cứu, nhưng là những tài liệu quan trọng để học viên có thể tham
khảo để viết khung lý thuyết chung của luận văn. Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu trên đã đề cập ở những mức độ khác nhau vấn đề công nghiệp hóa ở các nước phát
triển đi trước như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore… và vấn đề công nghiệp hóa ở
các nước đang phát triển như Việt Nam. Cho đến nay, vẫn chưa có nhiều công trình
khoa học nghiên cứu một cách trực tiếp vấn về công nghiệp hóa ở Hàn Quốc và rút ra
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong bối cảnh quốc tế mới với nhiều thay đổi như
hiện nay. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã được công
bố, luận văn này tập trung nghiên cứu cụ thể có hệ thống và sâu sắc về vấn đề công
nghiệp hóa ở Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm thành công và cả thất bại cho Việt
Nam trong giai đoạn đang đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2 Cơ sở lý luận về vấn đề công nghiệp hóa và một số mô hình công nghiệp
hoá ở các nước trên thế giới
1.2.1 Cơ sở lý luận về vấn đề công nghiệp hóa
1.2.1.1 Các quan niệm về công nghiệp hóa
Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mang tính tất yếu trong quá trình phát
triển kinh tế của các quốc gia. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là con đường để biến một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nền kinh tế
hiện đại, mà công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng. Với cách tiếp cận khác nhau
thì quan niệm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng có những điểm không hoàn toàn
giống nhau và tất nhiên sẽ dẫn đến những chính sách và giải pháp thực thi cũng khác
nhau đối với từng nước, thậm chí đối với một quốc gia trong những thời kỳ lịch sử
khác nhau. Điều đó được thể hiện khá rõ ở sự đa dạng trong việc lựa chọn mô hình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các nước trên thế giới.

9


Từ thực tế có thể khẳng định công nghiệp hoá là khái niệm mang tính lịch sử.

Nó gắn liền sự xuất hiện của công nghiệp với việc thay thế lao động thủ công bằng lao
động cơ khí hoá. Như vậy, khái niệm công nghiệp hoá chỉ xuất hiện từ cuộc cách
mạng kỹ thuật lần thứ nhất, khởi đầu ở nước Anh vào thế kỷ 18. Đến thế kỷ 19, khái
niệm này mới được làm rõ dần với quan niệm coi đó quá trình biến một lĩnh vực sản
xuất nào đó, hoạt động với sự trợ giúp đắc lực và sự đóng góp lớn của hoạt động cơ
khí. Do công nghiệp phát triển nhanh chóng từ đơn giản đến phức tạp với trình độ cơ
khí hoá, tự động hoá ngày càng cao nên ý nghĩa của khái niệm công nghiệp hoá cũng
ngày càng mở rộng ra. Vì vậy, khi có một quan niệm đúng về công nghiệp hoá sẽ ý
nghĩa đối với khoa học và hoạch định chính sách trong thực tiễn. Công nghiệp hoá là
quá trình rất phức tạp, bao gồm nhiều khía cạnh khó phân biệt về thời gian, về định
tính hay định lượng. Tuỳ theo cách nhìn khác nhau mà người ta có những quan niệm
khác nhau về công nghiệp hoá và bản chất của nó.
Quan niệm đơn giản nhất cho rằng "Công nghiệp hoá là đưa tính đặc thù công
nghiệp cho một hoạt động (của một vùng, một nước) với các nhà máy, các loại hình
công nghiệp". Quan niệm này được hình thành trên cơ sở khái quát quá trình lịch sử
công nghiệp hoá ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Trong quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, các nước này chỉ chủ yếu tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp,
nên sự chuyển biến của các hoạt động kinh tế - xã hội khác chỉ là hệ quả của quá trình
phát triển công nghiệp, mà không phải là đối tượng trực tiếp của công nghiệp hoá.
Quan niệm giản đơn trên đây có những mặt chưa hợp lý vì thế, nó được vận dụng rất
hạn chế trong thực tiễn.
Quan niệm phổ biến ở Liên Xô trước đây cho rằng "công nghiệp hoá là quá
trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp". Đó là
sự phát triển các ngành công nghiệp nặng mà cốt lõi là ngành chế tạo cơ khí, do đó tỷ
trọng công nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội ngày càng lớn. Quan niệm trên xuất
phát từ thực tiễn của Liên Xô khi triển khai công nghiệp hoá. Nhiều năm trước đây nó
được coi là hợp lý và được áp dụng ở một số nước XHCN và các nước đang phát triển
nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực tế, việc sao chép một cách máy móc
mô hình công nghiệp hoá của Liên Xô đã không đem lại kết quả như mong muốn ở
những nước này.


10


Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) đã đưa ra định
nghĩa sau đây (vào năm 1963): "Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế,
trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được
động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại.
Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất
ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm cho toàn bộ nền
kinh tế phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế - xã hội". Khái
niệm này nói lên rằng công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ quá trình phát
triển kinh tế - xã hội nhằm đạt tới không chỉ sự tăng trưởng kinh tế mà còn cả sự tiến
bộ xã hội. Đồng thời quá trình công nghiệp hoá trong điều kiện ngày nay cũng gắn liền
với quá trình hiện đại hoá nền kinh tế, trong mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, định nghĩa trên đây lại quá dài với ý tưởng dung hoà nhiều ý kiến khác nhau,
nên nó mang tính chất một phương hướng thực thi hơn là một khái niệm.
Một định nghĩa được dùng phổ biến ở nước ta hiện nay có ý nghĩa tương đối
bao quát và phù hợp về công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay do Báo
cáo Hội nghị Trung ương 7 (khoá VII) đưa ra là "quá trình chuyển đổi căn bản toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng
lao động thủ công là chính, sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao". Định
nghĩa này đã nói lên được phạm vi và vai trò đặc biệt quan trọng của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong phát triển kinh tế - xã hội; gắn liền được hai phạm trù không thể
tách rời là công nghiệp hoá và hiện đại hóa. Nó cũng xác định vai trò không thể thiếu
của khoa học - công nghệ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ lịch sử công nghiệp hoá trên thế giới và xem xét các quan niệm trên có
thể rút ra nội dung của khái niệm "công nghiệp hoá" bao gồm những vấn đề chính

sau đây:
Thứ nhất, công nghiệp hóa là quá trình thực hiện cuộc cách mạng kỹ thuật để
xây dựng cơ sở vật chất ‒ kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế.
Thứ hai, công nghiệp hóa là quá trình bao trùm toàn bộ mọi ngành, mọi lĩnh vực
của nền kinh tế.

11


Thứ ba, công nghiệp hóa là quá trình mở rộng quan hệ quốc tế.
Thứ tư, công nghiệp hóa không chỉ là quá trình kinh tế ‒ kỹ thuật, mà còn là quá
trình kinh tế - xã hội.
Quá trình công nghiệp hóa diễn ra trên thế giới đã có chiều dài gần 300 năm,
nhưng đến nay người ta vẫn chưa có một sự thống nhất trong cách hiểu về công nghiệp
hóa. Điều đó là do, một mặt, bản thân công nghiệp hóa là một quá trình rộng lớn, có
một nội hàm sâu sắc và một ngoại diên phong phú; mặt khác, điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội và thời đại tiến hành công nghiệp hóa tại mỗi nước là không giống nhau.
Tuy công nghiệp hoá có thể phát sinh những hậu quả tiêu cực nhất định về xã hội, về
môi trường và về văn hóa, nhưng công nghiệp hoá với cách hiểu trên vẫn luôn luôn là
cách thức phát triển mà các quốc gia từ một nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu là nông
nghiệp, muốn nhanh chóng vươn lên một trình độ phát triển cao đều nhất thiết phải trải
qua. Vấn đề đặt ra không phải là có nên công nghiệp hoá hay không, mà chính là tiến
hành công nghiệp hoá như thế nào để đạt được hiệu quả.
1.2.1.2 Công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Công nghiệp hoá là quá trình trang bị công nghệ và thiết bị cơ khí hoá cho tất cả
các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí quan trọng. Công
nghiệp hoá đã làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất với kỹ thuật, công nghệ và
tổ chức sản xuất truyền thống. Hiện đại hoá là quá trình thường xuyên cập nhật và
nâng cấp những công nghệ hiện đại nhất, mới nhất trong quá trình công nghiệp hoá.
Đa số các ý kiến của các nhà nghiên cứu cho rằng hiện đại hoá là quá trình liên tục

hiện đại nền kinh tế, thay đổi công nghệ cũ bằng công nghệ mới tiên tiến hơn. Thực
chất, hiện đại hoá là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hoá. Cái đích
này không cố định hay duy nhất đối với một quốc gia hay một ngành nghề mà nó luôn
thay đổi theo sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ văn minh chung của nhân
loại. Nó còn phụ thuộc cả và loại ngành nghề, từng khu vực khác nhau ngay trong một
nước. Xu thế chung của thế giới ngày nay là thực hiện đổi mới công nghệ nhanh
chóng, rút ngắn chu kỳ sống của mỗi loại công nghệ. Điều cần phấn đấu là đưa trình
độ khoa học - công nghệ của đất nước theo kịp với trình độ hiện đại chung của thế
giới. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực hoạt động mà xác định trình độ
công nghệ thích ứng. Quan niệm một cách giản đơn về công nghiệp hoá, hiện đại hoá

12


dẫn tới việc tiếp thu công nghệ không chọn lọc. Do sự thiếu hiểu biết và thiếu thông
tin đã dẫn nhiều nước đang phát triển phải trả giá quá lớn và tốc độ hiện đại hoá không
được đẩy nhanh.
Cuối thế kỷ 20, với những thay đổi nhanh chóng của cách mạng khoa học kỹ
thuật và công nghệ thì việc hiện đại hoá đối với các nước rất khó đạt được. Ngay cả
những nước phát triển cũng dễ dàng bị tụt hậu. Vì vậy, các nước đi sau trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá buộc phải chia quá trình này thành nhiều giai đoạn với
mục tiêu của giai đoạn sau là hiện đại hoá những gì mà giai đoạn trước đã đạt được.
Đối với mỗi giai đoạn phát triển, người ta thường dùng một số chỉ tiêu nhằm đánh giá
kết quả công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ví dụ như mức đóng góp của công nghiệp trong
GDP, tỷ trọng lao động trong công nghiệp trong tổng lao động xã hội…
Thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện cách mạng khoa học kỹ thuật ngày
nay, quá trình trang bị công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá trình hiện đại
hoá ở cả phần cứng và phần mềm của công nghệ. Quá trình này cũng đồng thời là quá
trình xây dựng xã hội văn minh công nghiệp và cải biến các ngành kinh tế, các hoạt
động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại. Quá trình ấy phải tác động

làm cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội nhanh và ổn định, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần chênh lệch trình độ kinh
tế - xã hội của đất nước với các nước phát triển. Trong đó những nước đi sau đã có
một số ít nước (trong đó có Hàn Quốc) thực hiện được hiện đại hoá tương đối cao
trong thời gian ngắn.
1.2.2 Một số mô hình công nghiệp hóa ở các nước trên thế giới
1.2.2.1 Quan niệm và đặc điểm của mô hình công nghiệp hóa
*Quan niệm về mô hình công nghiệp hóa
Mặc dù khái niệm mô hình công nghiệp hóa đã được sử dụng rất phổ biến,
song đến nay vẫn chưa có một sự cắt nghĩa thật rõ ràng về vấn đề này. Theo Almas
Heshmati (2007), mô hình công nghiệp hóa là những quá trình công nghiệp hóa của
một số nước đi trước được sử dụng như khuôn mẫu cho các nước đi sau. Hiểu như vậy
cũng không sai tuy nhiên, quan niệm đó chưa phản ánh được đầy đủ về mô hình công
nghiệp hóa, bởi nếu mô hình chỉ là “khuôn mẫu cho các nước đi sau” thì các nước công
nghiệp hóa đi trước sẽ lấy “khuôn mẫu” từ đâu, hay các nước đang công nghiệp hóa muốn
tìm cho mình một mô hình mới hiệu quả hơn thì làm thế nào để có “khuôn mẫu”?
13


Trở lại với khái niệm cơ sở về mô hình kinh tế, theo nhiều nghiên cứu định
nghĩa mô hình kinh tế là đại diện của một quá trình kinh tế, nó diễn tả các mối quan
hệ đặc trưng giữa các yếu tố (thu nhập quốc dân, sản lượng, tiêu dùng, thất nghiệp,
lạm phát, tiết kiệm, đầu tư, khoa học ‒ công nghệ, thương mại và tài chính…) của quá
trình đó. Theo đó, có thể hiểu mô hình kinh tế chỉ là một “bộ khung” được thiết kế
một cách đơn giản nhất, hay là hình thức diễn đạt hết sức cô đọng các đặc trưng chủ
yếu của đối tượng (theo một phương diện nào đó) để minh họa cho những hiện tượng
và quá trình kinh tế đa dạng và phức tạp. Mô hình kinh tế lại được thể hiện ở nhiều
lĩnh vực, khía cạnh khác nhau, như mô hình kinh doanh, mô hình sản xuất, mô hình
doanh nghiệp, mô hình công nghiệp hóa, v.v... Trong đó, những khái niệm đầu đã
được làm rõ, còn mô hình công nghiệp hóa cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm

chính thống. Ngay cả trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chưa đề
cập cụ thể về vấn đề này.
Trên cơ sở khái niệm mô hình kinh tế, đem áp dụng vào lĩnh vực công nghiệp
hóa, chúng ta có thể đưa ra quan niệm: Mô hình công nghiệp hóa là một tổng thể bao
gồm nhiều thành phần, nhiều mối quan hệ lôgic (mục tiêu, nội dung, bước đi, cách
thức thực hiện...) được kết hợp trong một cấu trúc nhất định đại diện cho một quá
trình công nghiệp hóa trên thực tế.
Theo đó cho thấy, những khái niệm nêu trên có thể có những khía cạnh giống
nhau song không hoàn toàn đồng nhất, vì vậy không thể sử dụng thay thế hoàn toàn
cho nhau. Các khái niệm mô thức (mô hình, kiểu tiến hành) công nghiệp hóa, mẫu
hình (hình mẫu, khuôn mẫu) công nghiệp hóa, hay mô hình (mẫu, khuôn, tiêu chuẩn)
công nghiệp hóa đều có cùng nội hàm, đều chỉ ra quá trình công nghiệp hóa được tiến
hành như thế nào, vì vậy có thể sử dụng thay thế cho nhau. Nhưng chiến lược công nghiệp
hóa và mô hình công nghiệp hóa thì lại khác nhau. Chiến lược công nghiệp hóa có thể
hiểu là cách thức để thực hiện thành công mô hình công nghiệp hóa. Sự khác nhau cơ bản
giữa hai khái niệm này là ở chỗ, mô hình công nghiệp hóa nói đến một khuôn mẫu chung,
được định hình cho một thời kỳ lâu dài và ít thay đổi; còn chiến lược công nghiệp hóa cụ
thể hơn và luôn được điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh thực tế, nhằm thích ứng với
những diễn biến của ngoại cảnh. Vậy nên, mô hình công nghiệp hóa và chiến lược công
nghiệp hóa là những khái niệm không thể thay thế cho nhau.

14


*Đặc điểm của mô hình công nghiệp hóa
Thứ nhất, mô hình công nghiệp hóa bao gồm nhiều thành phần có mối quan hệ
với nhau. Như đã đề cập, mô hình công nghiệp hóa là một tổng thể bao gồm nhiều
thành phần, nhiều mối quan hệ lôgic. Các thành phần chủ yếu hợp thành mô hình công
nghiệp hóa bao gồm:
- Mục tiêu của công nghiệp hóa: Một mô hình công nghiệp hóa trước hết phải

thể hiện được mục tiêu cần đạt tới của công cuộc công nghiệp hóa tại một quốc gia hay
vùng lãnh thổ, trong đó mục tiêu kinh tế là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
thành nền kinh tế công nghiệp ‒ dịch vụ, và trong bối cảnh phát triển hiện đại đó còn
là quá trình chuyển nền kinh tế công nghiệp – dịch vụ sang nền kinh tế tri thức. Ngoài
mục tiêu kinh tế, nhiều nước còn đặt ra mục tiêu về chính trị, xã hội khi xác định mô
hình công nghiệp hóa của mình.
- Bước đi của công nghiệp hóa: Công nghiệp hóa là một quá trình lâu dài và
khó khăn, do đó để đạt được mục tiêu đặt ra người ta thường phải tiến hành qua nhiều
bước, trong đó mỗi bước tương ứng với một khoảng thời gian và nội dung cụ thể. Do
điều kiện mỗi nước khác nhau nên việc xác định các bước đi và độ dài ngắn của mỗi
bước trong quá trình công nghiệp hóa cũng khác nhau.
- Cách thức tiến hành công nghiệp hóa: Một yếu tố quan trọng khác được thể
hiện trong mô hình công nghiệp hóa là việc xác định cách thức tiến hành công nghiệp
hóa. Cách thức tiến hành công nghiệp hóa lại được thể hiện qua việc xác định các
nguồn lực đầu vào, xác định chủ thể thực hiện công nghiệp hóa và thể chế cho sự tiến
hành công nghiệp hóa. Tóm lại, đó là cách thức để một nước đạt được mục tiêu mô
hình công nghiệp hóa đưa ra. Với những mục tiêu đặt ra khác nhau thì phương thức để
đạt tới mục tiêu đó cũng khác nhau.
Các yếu tố hợp thành mô hình công nghiệp hóa có mối quan hệ lôgic chặt chẽ.
Do đó, nếu một quốc gia xác định đúng từng yếu tố cấu thành mô hình công nghiệp
hóa thì sẽ cho phép quốc gia đó đạt thành công trong quá trình thực hiện công nghiệp
hóa, với thời gian ngắn nhất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường quốc tế luôn
biến đổi, để có được một mô hình công nghiệp hóa hiệu quả, đòi hỏi các nước phải tính
toán đầy đủ mọi khía cạnh để khai thác tối đa các lợi thế do thời đại tạo ra.

15


Thứ hai, mô hình công nghiệp hóa có tính lịch sử
Việc xác định mô hình công nghiệp hóa tại một nước phải xuất phát từ các điều

kiện thực tế về kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như quốc tế. Do đó, một khi
bối cảnh thực hiện công nghiệp hóa thay đổi, mô hình công nghiệp hóa cũng phải thay
đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới để khai thác tối đa các điều kiện quốc tế và trong
nước. Điều đó có nghĩa rằng không có một mô hình công nghiệp hóa chung cho tất cả
các nước, cũng như không thể có một mô hình công nghiệp hóa chung cho tất cả các
thời kỳ lịch sử khác nhau trong một nước. Nói cách khác, mô hình công nghiệp hóa
không phải chỉ có một, mà ngược lại, trong thực tế có nhiều mô hình công nghiệp
hóa khác nhau. Vấn đề quan trọng là, các nước phải biết lựa chọn mô hình nào cho
đúng đắn, phù hợp với điều kiện của mình để đạt hiệu quả cao nhất, rút được thời gian
hoàn thành công nghiệp hóa nhiều nhất.
Mặt khác, mô hình công nghiệp hóa là “khuôn mẫu” do con người tạo ra để
thực hiện mục tiêu của công nghiệp hóa trong một thời kỳ nhất định, là sản phẩm chủ
quan của con người nên nó có thể chưa hoàn thiện, thậm chí có thể sai. Mức độ hoàn
thiện của mô hình công nghiệp hóa một nước tùy thuộc rất lớn vào khả năng nhận thức
và xây dựng mô hình của con người, cụ thể là của bộ máy quản lý và hoạch định chính
sách. Mô hình công nghiệp hóa là sản phẩm chủ quan của con người nên nó có thể
kiểm soát và điều chỉnh được. Một khi chúng ta điều chỉnh một hay toàn bộ các “thành
phần”, các “mối quan hệ” tạo nên “cấu trúc” của mô hình công nghiệp hóa thì kết quả
đầu ra sẽ thay đổi theo. Tuy nhiên, những thay đổi về đầu vào và đầu ra đó có thể kiểm
soát được. Vì thế, quá trình xây dựng mô hình công nghiệp hóa cũng là quá trình
nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo để tạo được một mô hình công nghiệp hóa phù hợp nhất
với điều kiện thực tiễn, nhằm rút ngắn tối thiểu thời gian hoàn thành công nghiệp hóa.
1.2.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xác định mô hình công nghiệp hóa
*Nhân tố bên trong
Tiềm lực kinh tế quốc gia
Nhân tố đầu tiên và cơ bản nhất ảnh hưởng đến việc xác định mô hình công
nghiệp hóa là tiềm lực kinh tế của một quốc gia. Tức là, một nước khi lựa chọn mô
hình công nghiệp hóa phải xuất phát từ năng lực thực tế của nền kinh tế nước đó, gồm
đất đai, tài nguyên, công nghệ, thu nhập, tích lũy…


16


Vào thời kỳ đầu mới giành được độc lập từ tay các nước thực dân, các nước
đang phát triển đều có những điểm tương đồng, như tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm
chạp, thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp, mức độ đô thị hóa và sự phát triển
của các ngành công nghiệp non yếu, năng lực quản lý của nhà nước thấp, khả năng
kinh doanh của các doanh nghiệp kém, nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng cần
thiết cho phát triển công nghiệp ít, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, thị trường hàng hóa
công nghiệp quá nhỏ... Những đặc điểm đó đã chi phối việc lựa chọn mô hình công
nghiệp hóa tại các nước này. Thực tế là, vào khoảng hai thập niên 1950-1960, các
nước này xác định mô hình công nghiệp hóa hướng nội.
Do thực trạng của nền kinh tế mang nặng tính thuần nông như vậy nên bước
vào quá trình công nghiệp hóa, nhiều nước đang phát triển đã chọn mục tiêu ưu tiên là
dựa vào nông nghiệp. Sau đó, khi nền kinh tế phát triển hơn, an ninh lương thực đã
được đảm bảo tương đối, các nước lại bắt đầu thực hiện từng bước chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp có năng suất thấp, tăng tỷ
trọng của công nghiệp và dịch vụ có năng suất và hiệu quả cao hơn. Nói cách khác, mô
hình công nghiệp hóa đã được chuyển từ hướng nội sang hướng ngoại, từ ưu tiên nông
nghiệp sang công nghiệp.
Thực tế, hầu hết các nước châu Á đều ưu tiên phát triển nông nghiệp trong thời
kỳ đầu công nghiệp hóa, đặc biệt là nền nông nghiệp lúa nước và các loại nông, hải
sản khác như cà phê, cao su, hạt điều, chè, hạt tiêu, thủy hải sản, ngô, bông, đậu tương,
đường, sữa…Các chính sách nông nghiệp được các nước áp dụng rất đa dạng, thường
mở đầu từ cải cách ruộng đất để đảm bảo người cày có ruộng; rồi triển khai phát triển
sản xuất quảng canh đến thâm canh, thực hiện từng bước cơ khí hóa, thủy lợi hóa, hóa
học hóa, phát triển cơ sở hạ tầng, cải tiến, lai tạo và gieo trồng các loại giống mới, thực
hiện cách mạng xanh, cách mạng trắng, xây dựng các ngành công nghiệp chế biến
nông sản, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, nâng cao khả năng cạnh tranh cả
trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm

nghèo và nâng cao chất lượng sống ở nông thôn. Chính nhờ được ưu tiên phát triển
nên nông nghiệp đã đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho người dân và có dư thừa để
xuất khẩu, khắc phục nạn đói trầm trọng, đồng thời từ nông nghiệp cung cấp các yếu
tố đầu vào cho công nghiệp như lao động, vốn và thị trường tiêu thụ hàng hóa công

17


nghiệp. Như vậy, tại các nước đang phát triển thuộc châu Á, quá trình công nghiệp hóa
nhìn chung bị chi phối bởi trình độ phát triển thấp của nền kinh tế nông nghiệp, do đó
mọi đường lối, chính sách đều xuất phát từ nông nghiệp theo phương châm “lấy nông
nghiệp nuôi công nghiệp”. Thực thế cho thấy, những nước không đi theo con đường
đó, mà tập trung phát triển công nghiệp, thậm chí công nghiệp nặng trong điều kiện
một nước nông nghiệp lạc hậu đều bị thất bại, tất cả họ đã phải chuyển hướng sang
công nghiệp hóa từ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Trong thời gian đầu do chưa có được các ngành công nghiệp riêng để làm cơ sở
vững chắc cho nền độc lập dân tộc, các nước đã nỗ lực xây dựng các ngành công
nghiệp non trẻ của mình, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa theo mô hình thay thế
nhập khẩu, đặt nền móng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp lớn và cả nền
công nghiệp phát triển trong những thập kỷ tiếp theo. Mặt khác, trong điều kiện nền
kinh tế non yếu, muốn giữ được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mô hình công nghiệp
hóa khép kín, thay thế nhập khẩu, theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, với việc phát
triển khu vực kinh tế nhà nước và đề cao vai trò của nhà nước đã được nhiều quốc
gia lựa chọn. Về sau, khi nền kinh tế đã có một phần tích lũy, các nước bắt đầu
chuyển sang ưu tiên công nghiệp. Một yếu tố quan trọng trong phát triển công
nghiệp là phải xây dựng các doanh nghiệp. Trong thời kỳ đầu nhiều nước đang phát
triển phải dựa chủ yếu vào các xí nghiệp quốc doanh được quốc hữu hóa từ tay các
nhà công nghiệp của các nước thực dân chính quốc, sau đó xây dựng mới các xí
nghiệp quốc doanh và tư doanh của tư nhân trong nước, đồng thời thu hút đầu tư
của các doanh nghiệp nước ngoài, đáp ứng các nhu cầu phát triển công nghiệp

trong nước và mở rộng hội nhập quốc tế.
Bất chấp những khó khăn, thiếu thốn, nhiều nước trong khu vực đã triển khai
các chương trình công nghiệp hóa, cho đến nay một số nước đã đạt thành công lớn, trở
thành những nền kinh tế công nghiệp, những con hổ của châu Á và thế giới. Kết quả
đó khẳng định những yếu tố trên đây đóng vai trò to lớn đối với việc xác định mô hình
công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển thuộc châu Á thời kỳ những năm 19501960, sau khi các nước này giành được độc lập từ các cường quốc thực dân. Hơn nữa,
những yếu tố đó không chỉ ảnh hưởng lớn tới thời kỳ đầu công nghiệp hóa ở các nước
này, mà còn tiếp tục ảnh hưởng lớn tới tiến trình công nghiệp hóa về sau, góp phần

18


nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực, xóa
đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ
– nông nghiệp, nâng cao năng suất lao động, tăng cường huy động vốn, nâng cấp công
nghệ, phát triển các loại hình doanh nghiệp, nâng cao vai trò của nhà nước và đến lượt
mình nhà nước lại ngày càng đóng vai trò lớn hơn trong tiến trình công nghiệp hóa.
Trình độ nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có kỹ năng và trình độ cao là yếu tố cơ bản của sự nghiệp công
nghiệp hóa tại một quốc gia. Cho nên, nếu một quốc gia có nguồn nhân lực yếu kém sẽ
khó thực hiện được mô hình công nghiệp hóa theo hướng hội nhập quốc tế.
Một điều dễ nhận thấy là, các nước trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa do trình
độ nguồn nhân lực còn thấp kém nên không thể nói đến một mô hình công nghiệp hóa
hướng vào tương lai, như hướng vào xuất khẩu hay mở cửa hội nhập, phát triển kinh
tế tri thức. Với một nguồn nhân lực trình độ thấp, cách phù hợp nhất để khai thác và sử
dụng nó là phát triển dựa vào nông nghiệp và các tài nguyên thiên nhiên khác. Do đó,
nếu một quốc gia kém phát triển lựa chọn mô hình công nghiệp hóa hướng vào xuất
khẩu ngay từ đầu sẽ khó thành công, cho dù đó là mô hình có nhiều ưu điểm vượt trội
so với các mô hình khác. Đó là vì trình độ nhân lực và công nghệ của họ không cho
phép tạo ra những sản phẩm hàng hóa có đủ sức để cạnh tranh với hàng hóa của các

nước phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong quá trình công
nghiệp hóa, các nước này đã đầu tư phát triển giáo dục, thậm chí coi trọng giáo dục
ngay cả trước khi có chính sách công nghiệp hóa, kể cả trong thời kỳ tiến hành cuộc
đấu tranh giành độc lập. Chính nhờ có nguồn nhân lực được đào tạo tới một trình độ
nhất định mà các nước đang phát triển, đặc biệt tại châu Á đã khá thành công trong
việc tiếp thu, sử dụng và phát triển các loại công nghệ truyền thống và công nghệ được
chuyển giao từ các nước phát triển để xây dựng công nghiệp quốc gia. Đó là nguyên
nhân lý giải tại sao các NICs châu Á lại chỉ có thể vượt lên sau hơn chục năm tiến
hành công nghiệp hóa theo mô hình thay thế nhập khẩu.
Năng lực quản lý của bộ máy nhà nước
Trong nguồn nhân lực, bộ máy lãnh đạo và những người hoạch định chính sách
cùng năng lực và trình độ của họ có tác động lớn nhất đến việc xác định mô hình và

19


×