Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
LỜI MỞ ĐẦU
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ
bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác
đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng
như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy
chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không
ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng vì thế cũng có
những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai
đoạn lịch sử. Đất nước Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với những thành tựu to lớn
đạt được trong hơn 20 năm đổi mới. Có được những kết qủa đó là do Đảng cộng sản
Việt Nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta. Tuy nhiên, đâu đó vẫn còn
những nhận thức chưa đúng đắn hoặc vận dụng chưa triệt để nguyên tắc lý luận
này dẫn đến những hạn chế và hệ lụy chưa tốt. Để tìm hiểu sâu hơn về những mặt
Đảng đã và chưa làm được khi đưa nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
vào vận dụng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam, nhóm 5 đã lựa chọn đề tài “Vận dụng
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam
hiện nay”.
Đề tài gồm có 3 phần chính:
Chương I: Tổng quan về lý luận và thực tiễn: Trình bày những khái niệm cơ
bản về lý luận, thực tiễn và mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Chương II: Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Thành tựu đạt được và một số hạn chế
Nhóm 5 – CH19A 1
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Tổng quan về thực tiễn
1.1.1. Các quan điểm về thực tiễn
Trước Mác đã có rất nhiều quan điểm về thực tiễn được đưa ta nhưng những
quan điểm ấy đều tồn tại khuyết điểm chủ yếu là chưa thấy hết vai trò của thực tiễn
đối với nhận thức.
Một số nhà triết học như Ph.Bêcơn, Đ.Diđơrô đề cao vai trò của thực nghiệm
hóa học, chưa đề cập đến vai trò của các hình thức khác của thực tiễn đối với nhận
thức.
G.Hêghen tuy có đề cập đến thực tiễn, nhưng ông không coi thực tiễn là hoạt
động vật chất mà là hoạt động tinh thần.
L.Phoiơbăc chỉ coi lý luận mới là hoạt động đích thực, còn thực tiễn chỉ được
ông xem xét ở khía cạnh biểu hiện bẩn thỉu mà thôi.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý
luận nhận thức bằng cách đưa phạm trù thực tiễn vào trong lý luận nhận thức.
Lênin nhấn mạnh: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”
1.1.2. Thực tiễn là gì
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính xã hội – lịch sử của
con người nhằm biến đổi tự nhiên và xã hội để phục vụ cuộc sống của mình.
1.1.3. Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Hoạt động thực tiễn có 3 hình thức cơ bản:
- Thực tiễn lao động sản xuất là hình thức thực tiễn cơ bản nhất, là hoạt động
trực tiếp tác động vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
- Thực tiễn chính trị xã hội là hình thức thực tiễn cao nhất, là hoạt động của
con người trong các lĩnh vực chính trị xã hội nhằm phát triển và hoàn thiện các
thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho hoạt động sản xuất và
tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con người bằng cách đấu
tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
- Thực nghiệm khoa học là hình thức thực tiễn đặc biệt, nhằm mục đích phục
vụ nghiên cứu khoa học và kiểm tra lý thuyết khoa học.
Nhóm 5 – CH19A 2
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
1.2. Tổng quan về lý luận
Lý luận là kết quả cao nhất của nhận thức, là hệ thống những tri thức được
khái quát từ thực tiễn phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Nói cách khác, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn,
phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan.
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối liên hệ với
thực tiễn. Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại,
trong đó, thực tiễn giữ vai trò quyết định.
Lý luận được hình thành trên cơ sở của quá trình nhận thức, nhưng không
phải là quá trình nhận thức trực tiếp đối tượng mà nó mang tính gián tiếp. Tức là
quá trình hình thành lý luận chỉ thông qua quá trình trừu tượng hoá, khái quát hoá.
Quá trình đó diễn ra trên cơ sở kết quả của tri thức khoa học.
Để hình thành tri thức khoa học, con người phải thông qua quá trình nhận
thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại
diễn biến của các sự vật hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức
kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và
tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức ở
trình độ thấp nhưng nó là cơ sở để hình thành lý luận.
Lý luận có những cấp độ khác nhau tùy phạm vi phản ánh và vai trò của nó,
có thể phân chia lý luận thành lý luận ngành và lý luận triết học.
Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển
của một ngành. Nó là cơ sở để sáng tạo tri thức cũng như phương pháp luận hoạt
động của ngành đó, như lý luận văn học, lý luận nghệ thuật
Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới và con
người, là thế giới quan và phương pháp luận nhận thức và hoạt động của con
người.
Lý luận cũng có lý luận khoa học, là những lý luận được hình thành trên cơ sở
tư duy khoa học, là kết quả của nhận thức khoa học và được thực tiễn kiểm nghiệm,
các lý luận khoa học cũng chính là các chân lý tương đối, trong quá trình tiệm cận
tới chân lý tuyệt đối của nhận thức loài người; cũng có lý luận phản khoa học, hoặc
phi khoa học là những lý luận không dựa trực tiếp trên tư duy khoa học, và bị chi
phối bởi những lợi ích không phù hợp với lợi ích chung của sự tiến bộ xã hội.
Nhóm 5 – CH19A 3
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
Do quá trình hình thành và bản chất của nó, lý luận có hai chức năng cơ bản
là chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp cho hoạt
động thực tiễn. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan bằng những quy luật chung
hay chung nhất. Nó lược bỏ những yếu tố ngẫu nhiên hoặc cái riêng để hình thành
những quy luật chung về quá trình tồn tại, vận động, phát triển và biến đổi của hiện
thực khách quan. Tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học cũng như tri thức lý luận
đều phản ánh hiện thực khách quan nhưng ở những trình độ khác nhau. Tri thức lý
luận phản ánh hiện thực khách quan để làm phương pháp luận nhận thức và cải tạo
hiện thực khách quan.
Chức năng phương pháp luận của lý luận (hay tri thức lý luận) cho quá trình
hoạt động thực tiễn ở trình độ chung hay chung nhất. Đó vừa là chức năng phương
pháp luận cho hoạt động nhận thức, vừa là chức năng cho hoạt động cải tạo hiện
thực khách quan. Có phương pháp luận chung nhất, phương pháp luận chung và
phương pháp luận chuyên ngành. Mỗi cấp độ phương pháp luận có vai trò và hiệu
quả khác nhau trong quá trình hoạt động. Mỗi lĩnh vực cụ thể đều có phương pháp
luận cụ thể. Phương pháp luận cụ thể chỉ đúng khi không đối lập với phương pháp
luận chung hay chung nhất.
1.3. Những yêu cầu cơ bản của Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn
1.3.1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận, lý
luận hình hành và phát triển từ sản xuất, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Thực tiễn là cở sở của lý luận: Những tri thức được khái quát thành lý luận là
kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua kết quả hoạt động
thực tiễn, con người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố,
các điều kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động
thực tiễn còn là cơ sở để bổ sung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát. Mặt
khác, hoạt động thực tiễn của con người còn làm nảy sinh những vấn đề mới đời hỏi
quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó lý luận được bổ sung, mở
rộng.
Thực tiễn là động lực của lý luận: Hoạt động của con người không chỉ là nguồn
gốc để hoàn thiện các cá nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con
Nhóm 5 – CH19A 4
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
người với tự nhiên và xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động
thực tiễn, mang lại lợi ích cho con người càng kích thích con người bám sát thực tiễn
để khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con người,
làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn. Nhờ vậy hoạt động của
con người không bị hạn chế trong không gian và thời gian. Thông qua đó thực tiễn đã
thúc đẩy một ngành khoa học mới ra đời – khoa học lý luận.
Thực tiễn là mục đích của lý luận: Mặc dù lý luận cung cấp những tri thức khái
quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con người nhưng mục đích chủ
yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người trước hiện thực khách
quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của cá nhân và xã
hội. Tự thân lý luận không tạo nên những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người.
Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biến
đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của con người. Đó thực chất là mục đích của lý
luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người
Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Tính chân lý của lý luận thực chất
là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là
giá trị của phương pháp lý luận đối với hoạt động thực tiễn của con người. Do đó mọi
lý luận phải thông qua thực tiễn để kiểm nghiệm. Thông qua thực tiễn, những lý luận
đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho tang trí thức nhân loại, những kết luận chưa
phù hợp thực tiễn thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý
luận nhất thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Tuy thực tiễn là tiêu
chuẩn chân lý của lý luận nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân
lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn vẹn của
nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn tại, vận động, phát
triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực tiễn có nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một giai đoạn nào đó, một bộ phận nào
đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực tiễn. Do đó chỉ lý luận nào phản ánh
được tính toàn vẹn của thực tiễn thì mới đạt đến chân lý.
1.3.2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, ngược lại lý luận phải được
vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
C.Mác đã từng nói, người thợ xây không bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ,
nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở chỗ, trước khi xây dựng một công trình, họ đã
Nhóm 5 – CH19A 5
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
hình thành được hình tượng của công trình ấy trong đầu họ. Tức là hoạt động của con
người là hoạt động có ý thức. Ban đầu hoạt động của con người chưa có lý luận chỉ
đạo, song con người phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua
đó con người khái quát thành lý luận. Từ đó những hoạt động của con người muốn có
hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi đường. Chính nhờ có lý luận soi đường, hoạt
động của con người trở thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn.
Lý luận đóng vai trò soi đường cho thực tiễn vì lý luận có khả năng định hướng
mục tiêu, xác định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo
được khả năng phát triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những
rủi ro có thể xảy ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động.
Như vậy lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu quả mà còn là cơ sở để khắc
phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của con người. Mặt khác, còn có vai
trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức
mạnh vô cùng to lớn của quần chúng trong cải tạo tự nhiên và xã hội
Mặc dù lý luận mang tính khái quát cao, song nó còn có tính lịch sử, cụ thể. Do
đó khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích sự vật, hiện tượng, quá trình trong mỗi
tình hình cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc thì chẳng những hiểu sai giá trị của lý
luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu của lý
luận và thực tiễn.
Lý luận hình thành là kết quả của quá trình nhận thức lâu dài và khó khăn của
con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn tuy phong phú và đa
dạng nhưng không phải không có tính quy luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái
quát dưới hình thức lý luận. Mục đích của lý luận không chỉ là phương pháp mà còn
định hướng cho hoạt động thực tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng
lực lượng, định hướng giải quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn, không
những thế lý luận còn định hướng mô hình của hoạt động thực tiễn. Vận dụng lý luận
vào hoạt động thực tiễn, từ lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục
đích khác nhau của quá trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ, lực
lượng tiến hành và những phát sinh trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố
tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực để đạt kết quả cao hơn.
Lý luận tuy là logic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn.
Vận dụng lý luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn
Nhóm 5 – CH19A 6
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
để kịp thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi
lý luận cho phù hợp với thực tế. Khi vận dụng lý luận vào thực tế, chúng có thể mang
lại hiệu quả hoặc không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường hợp đó, giá trị của lý
luận phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý luận chính là điều chỉnh cho
phù hợp với thực tiễn. Lênin nhận xét rằng: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì
nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp”.
Nhóm 5 – CH19A 7
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Để phát triển lý luận phải luôn luôn bám sát thực tiễn, phản ánh được
yêu cầu của thực tiễn, khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để tiếp tục
hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam chính là thể hiện cụ thể tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Kế thừa tư tưởng của các nhà lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng thế kỉ
XVIII - XIX, C. Mác - Ph. Ăngghen đã dần dần hình thành lý luận hình thái kinh
tế - xã hội và khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Các ông đã đưa ra những nội dung cơ bản của lý luận về hình thái kinh tế - xã
hội này. Đó là chế độ không có người bóc lột người trên cơ sở thủ tiêu sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thiết lập nền công hữu về tư liệu sản
xuất, nền kinh tế phát triển có kế hoạch để khắc phục khủng hoảng kinh tế do mất
cân đối giữa các lĩnh vực sản xuất xã hội; thiết lập hình thức phân phối mới làm theo
năng lực hưởng theo nhu cầu mà giai đoạn thấp là phân phối theo lao động. Trên
nền tảng lý luận này, sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi ở nước Nga (10 -
1917), mô hình xã hội chủ nghĩa đã được thực hiện ở Liên Xô và hầu hết các nước
xã hội chủ nghĩa khác. Chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều thành tựu, đã có nhiều
đóng góp vào tiến trình phát triển nhưng lại thiếu sự bổ sung lý luận trong điều
kiện thực tiễn nhân loại biến đổi không ngừng. Chính vì vậy, chủ nghĩa xã hội đã
khủng hoảng và sụp đổ ở nhiều nước. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin là cái chung, song, trong điều kiện của thời kì quá độ phải được
nhận thức cho phù hợp với thực tiễn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thông qua những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa xã hội nước
ta. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và lịch sử phát triển của chủ
nghĩa xã hội, Đại hội IX khẳng định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,
nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư
Nhóm 5 – CH19A 8
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Vấn đề nghiên cứu , tìm tòi để làm luận chứng
cho lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn đang tiếp tục. Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ năm khoá (IX) đánh giá: “Công tác
lý luận chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”và nhấn mạnh: “Đẩy
mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn nữa con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, song song với con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng cũng đã nhận định đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu,
"diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn tồn tại và diễn biến
phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Điều cần nhấn
mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân;
nước ta vẫn còn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi
đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nếu chúng ta không nhanh chóng
vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhận định được những khó khăn này
Đảng cần phải đưa ra những đường lối, chính sách sát với thực tiễn hơn nữa, để đối
phó, và giải quyết những nguy cơ, khó khăn đang cận kề.
2.2. Trong hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận khoa học làm phương
pháp, khi vận dụng lý luận phải phù hợp với không gian và thời gian
Lý luận được hình thành không chỉ là sự tổng kết thực tiễn mà còn mục
đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo. Sự phát triển của thực tiễn trong lịch sử đã
được lý luận khái quát. Mặc dù thực tiễn diễn biến phức tạp, ít khi lặp lại hoàn
toàn, song thực tiễn nào cũng mang tính khách quan, mang tính khuynh hướng.
Chính vì lý luận có khả năng phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật mà lý luận có
khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn. V.I. Lênin đã nói rất đúng rằng:
“Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
Nhóm 5 – CH19A 9
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng của mình. Kiên định
lập trường đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Chính vì chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống lý luận không chỉ được hình thành trong
những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, trong sự phát triển của khoa học tự
nhiên cũng như những thành tựu của lý luận thế kỷ XVIII – XIX mà còn được khái
quát từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng lao động, đồng thời nó phù
hợp với thực tiễn của lịch sử.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại”. “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và nhân dân ta”.
Lý luận không chỉ có kế thừa mà còn có tính cách mạng, tính dự báo. Khả
năng đó đã được thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh. Nhưng lý luận chỉ khái
quát thực tiễn dưới hình thức khuynh hướng. Sự phát triển phong phú, đa dạng,
phức tạp của thực tiễn, đặc biệt là thực tiễn chính trị - xã hội càng đòi hỏi phải dựa
vào khuynh hướng cơ bản của lý luận để bổ sung, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa
xã hội phù hợp thực tiễn nước ta hiện
nay.
Vận dụng, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa phù hợp với cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ hiện nay chính là khẳng định độc lập về tư tưởng của chúng ta.
Coi trọng lý luận chính là vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân
loại đã đạt được vào điều kiện cụ thể của nước ta. Khoa học và công nghệ không
chỉ phản ánh chân lí khách quan mà còn phản ánh nhu cầu và nguyện vọng khách
quan của con người. Thành tựu của khoa học và công nghệ đã tác động sâu sắc đến
các lĩnh vực của đời sống xã hội thế giới. Không có một quốc gia nào đứng ngoài
sự tác động của nó. Khoa học và công nghệ là sự kế thừa và tích hợp thành tựu của
quá khứ và hiện tại, sự cố gắng không mệt mỏi của bao thế hệ, là thành tựu mang
Nhóm 5 – CH19A 10
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
tính nhân loại. Con đường phát triển ngắn nhất và bền vững nhất hiện nay của các
quốc gia chậm phát triển là tranh thủ thời cơ, ứng dụng triệt để thành tựu của
khoa học và công nghệ nhân loại để phát triển đất nước. Để đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phấn đấu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, chúng
ta phải nhanh chóng tiếp cận và ứng dụng triệt để sự phát triển của khoa học và công
nghệ thế giới mới có thể phát huy hết tiềm năng vốn có. Chính vì vậy, định hướng
phát triển khoa học và công nghệ nước ta trong thời gian tới là: "Tập trung xây dựng
và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, tăng năng lực tiếp thu,
làm chủ thích nghi, cải tiến các công nghệ hiện đại nhập từ nước ngoài trong một
số lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, kết cấu hạ tầng, rút ngắn thời gian chuyển giao công
nghệ, sớm đưa vào ứng dụng trong sản xuất".
Lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin khi vận dụng vào thực tiễn
phải quán triệt quan điểm lịch sử, cụ thể, đồng thời biết tiếp thu những thành tựu
của tư duy nhân loại trong xây dựng nền kinh tế thị trường, thành tựu về xây
dựng bộ máy nhà nước pháp quyền, cơ chế quản lí khoa học, công nghệ, văn hoá, xã
hội để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Một trong những lĩnh vực hoạt động của con người mà thực tiễn và lý luận
được kết hợp một cách mật thiết là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Giáo dục và đào
tạo đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm phát triển từ khi nền cộng hoà được
thiết lập. Trong quá trình cách mạng, giáo dục và đào tạo đã góp phần đào tạo lớp
người lao động mới có lí tưởng cách mạng, có năng lực hoàn thành nhiệm vụ, vượt
qua mọi khó khăn, có sức khoẻ và có kỉ luật. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến,
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong thời kì đổi mới càng chứng
tỏ giáo dục, đào tạo nước ta đã đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Tuy thế, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều bất cập. Mô hình các bậc học,
các loại hình đào tạo chưa thật khoa học và ổn định, chưa thật phù hợp với thực tiễn.
Nội dung, chương trình, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng sự phát triển của nền kinh
tế thị trường, của sự phát triển khoa học và công nghệ. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu. Theo đó,
đầu tư hàng năm cho giáo dục và đào tạo được tăng lên. Mục tiêu giáo dục và đào
Nhóm 5 – CH19A 11
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
tạo của nước ta là mở mang dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đại hội
IX xác định: “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và
tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật,
tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp
người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu
quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ.
Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn
hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lí. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận
dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”. Giáo dục và đào tạo phải xuất phát từ thực
tiễn kinh tế - xã hội nước ta, đáp ứng sự phát triển của đất nước, phấn đấu để rút
ngắn khoảng cách giữa giáo dục và đào tạo nước ta với các nước tiên tiến trong khu
vực và trên thế giới. Trong "Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2001 - 2005", Chính phủ khẳng định: “Tiếp tục quán triệt quan điểm
giáo dục là quốc sách hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát
triển giáo dục và đào tạo Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp
giảng dạy và phương thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao, đặc biệt là
trong các ngành kinh tế, kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao Đổi mới cơ bản công
tác quản lí và tổ chức giáo dục; xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện
cho mọi người có thể học tập suốt đời theo hướng thiết thực, hiện đại, gắn chặt với
yêu cầu của xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và luật pháp để bảo đảm sự
nghiệp giáo dục phát triển ổn định, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về con
người và nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Ngăn chặn và
đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong ngành giáo dục, xây dựng một nền giáo dục
lành mạnh”.
2.3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
Bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là những biểu hiện khác nhau của sự vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Bệnh kinh nghiệm là tuyệt đối hoá những thành công trong hoạt động thực
tiễn trước đây thành nguyên tắc hoạt động trong hiện tại khi những yếu tố và điều
kiện đã thay đổi. Bệnh kinh nghiệm xuất phát từ tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh
Nhóm 5 – CH19A 12
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
nghiệm là trình độ thấp của tri thức. Tri thức này chỉ khái quát thực tiễn cụ thể với
những yếu tố và điều kiện đơn giản, chưa biến đổi hoặc đã biến đổi nhưng chưa
được phản ánh kịp thời. Những tri thức kinh nghiệm góp phần tạo nên những thành
công không nhỏ, đặc biệt thành công trong quá khứ đã củng cố niềm tin để tiếp tục
khẳng định giá trị của các kinh nghiệm. Những thành công tiếp theo khi tiếp tục vận
dụng những kinh nghiệm cũ vào hiện tại đã tạo nên chủ nghĩa kinh nghiệm. Khi các
yếu tố, các điều kiện đã thay đổi hoặc có những diễn biến phức tạp nhưng vẫn tiếp
tục vận dụng kinh nghiệm cũ thì nó trở thành bệnh kinh nghiệm.
Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ khoa học và công nghệ rất
thấp. Đó là thực trạng của một nền kinh tế truyền thống - nền kinh tế chỉ dựa vào
kinh nghiệm được truyền từ đời này sang đời khác bằng hình thức dân gian. Điều
đó dẫn đến phong cách tư duy, phong cách hoạt động của người Việt Nam chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm. Truyền thống đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của
bệnh kinh nghiệm. Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp thực hiện một thời gian
dài ở nước ta đã triệt tiêu tính sáng tạo của người lao động và tạo nên tâm lý ỉ lại,
dựa dẫm là một trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa - tuyệt
đối hoá kinh nghiệm của thế hệ trước, của cấp trên. Cơ chế hoạt động của từng lĩnh
vực chưa được luật hoá, việc tổ chức thực hiện tuỳ tiện dẫn đến chủ nghĩa kinh
nghiệm.
Kinh nghiệm có thể mang lại thành công. Những kinh nghiệm đó đáng được
trân trọng. Nhưng quá đề cao kinh nghiệm để trở thành căn bệnh thì rất nguy hiểm.
Tiếp tục vận dụng kinh nghiệm khi các yếu tố, các điều kiện đã thay đổi để dẫn đến
thất bại kéo dài, thậm chí sụp đổ thần tượng sẽ làm mất lòng tin với lớp người đã có
nhiều công lao với dân tộc, với đất nước. Đó là một trong những tội lỗi.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm có hiệu quả, một mặt phải quán triệt sâu sắc
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tức là bám sát thực tiễn, tăng
cường học tập nâng cao trình độ lý luận, bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp. Mặt
khác, phải triệt để thực hiện cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường đề cao thành
công hiện tại, quá khứ mang tính tham khảo. Do đó không có chỗ cho bệnh kinh
nghiệm tồn tại. Khi thị trường hoá toàn bộ các yếu tố của quá trình sản xuất cũng
như các lĩnh vực xã hội thì sẽ khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm.
Nhóm 5 – CH19A 13
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
Trái với bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều lại tuyệt đối hoá lý luận hoặc tuyệt
đối hoá lòng tin khi các yếu tố và các điều kiện đã thay đổi.
Biểu hiện của bệnh giáo điều là chỉ hiểu lý luận theo một số nghĩa căn bản nào đó,
chỉ “tầm chương trích cú”, bỏ qua sự vận động, phát triển, biến đổi của thực tiễn
cũng như bản thân lý luận, coi chân lí đã được hình thành là bất di bất dịch; chưa
hiểu tính cụ thể, tính tương đối, tính tuyệt đối của chân lí. Người mắc bệnh giáo
điều chỉ căn cứ vào “câu, chữ” mà chưa hiểu được bản chất đích thực của chúng;
hoặc vận dụng chúng như “chiếc bùa hộ mệnh” để bảo vệ sự hiểu biết trống rỗng
của mình. Thực chất của bệnh giáo điều là xa rời thực tiễn, chưa coi trọng vai trò
của thực tiễn. Mặt khác, do chủ thể hoạt động ngại nghiên cứu, vận dụng lý luận vào
thực tế, ngại bám sát thực tiễn, không thường xuyên tổng kết thực tiễn.
Một trong những sai lầm trong đường lối chính sách của Đảng trong thời kỳ
trước đổi mới cũng xuất phát từ căn bệnh giáo điều. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta
bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành
của bộ máy nhà nước (ở Liên Xô có bao nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy nhiêu Bộ
ngành), hoặc về công nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý tập trung phát triển công
nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, hoặc theo học thuyết của
Mác thì phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện
nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế
mà không thấy được rằng “Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ”, sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối quan hệ tác động
qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai đoạn này. Chính
những sai lầm này là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng
kinh tế trầm trọng trong thời kỳ trước đổi mới.
Bệnh giáo điều có căn nguyên sâu xa của nó. Trước hết là do hiểu lý luận còn
nông cạn, chưa có thực tiễn vận dụng lý luận nên khi thực tiễn biến đổi hoặc xuất
hiện thực tiễn mới thì lý luận trở thành giáo điều. Mặt khác, do tính tập trung hoá
cả trong lĩnh vực lý luận đã làm mất đi tính sáng tạo, sinh động của lý luận. Quá
trình đó lặp đi lặp lại một thời gian dài đã trở thành đường mòn trong tư duy của
cán bộ kể cả cán bộ khoa học. Những gì trên chưa khái quát, chưa có ý kiến hoặc
chưa được bổ sung bởi cơ quan có thẩm quyền đều bị phủ quyết tạo cho cán bộ
Nhóm 5 – CH19A 14
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
bệnh giáo điều. Thứ nữa, do vận dụng sai lý luận vào thực tiễn. Vận dụng lý luận vào
hoạt động thực tiễn là một trong những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời là vận dụng cái chung vào cái riêng một cách
linh hoạt. Bệnh giáo điều chỉ biết trích dẫn, thậm chí chỉ vận dụng lý luận nhưng
không quan tâm đến thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lý luận.
Bệnh giáo điều đặc biệt nguy hiểm. Do giáo điều mà lý luận không mang lại
hiệu quả cho hoạt động thực tiễn, dẫn đến mất lòng tin đối với vai trò của lý luận
nói chung, đối với chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng. Đó là một trong những căn nguyên dẫn đến sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở một số nước, dẫn đến khủng hoảng (mất lòng tin) đối với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đối với sự lãnh đạo của Đảng.
Để khắc phục bệnh giáo điều, chúng ta phải quán triệt sâu sắc sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn mà cốt lõi là thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn chân lý của
lý luận như triết học Mác - Lênin đã khái quát cách đây hơn một thế kỉ. Tuy vậy, lý
luận vẫn có ý nghĩa quan trọng của nó. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã nói: “Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Nhận thức sâu sắc về sự nguy hiểm của bệnh kinh nghiệm và giáo điều, từ
Đại hội Đảng lần VI (1986) Đảng đã khởi xuớng công cuộc đổi mới toàn diện tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tư duy và đề
ra phương hướng đổi mới của Đảng ta. Tại đại hội Đảng IX, Đảng đã chỉ rõ phải
“Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ
và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn, từng bước cụ thể hoá,
bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu tranh với những khuynh
hướng tư tưởng sai trái”. Tại đại hội Đảng X, Đảng cũng nhận định đường lối đổi
mới của Đảng phải “xuất phát từ thực tiễn” và Đảng phải “thường xuyên tổng kết
thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển”. Một lần nữa
tại đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng khẳng định “Kiên định con đường đổi mới, chống
giáo điều” và “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một
số vấn đề về Đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Nhóm 5 – CH19A 15
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới, không ngừng phát
triển lý luận, đề ra đường lối và chủ trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”.
Nhóm 5 – CH19A 16
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
CHƯƠNG III: THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC VÀ MỘT SỐ HẠN CHẾ
3.1. Thành tựu đạt được trong quá trình vận dụng nguyên lý thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn của Đảng vào thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Năm 1986, nhận thức được những sai lầm trong đường lối chính sách của
mình, tại đại hội Đảng VI (12/1986) Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn
diện tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đường lối đổi mới ấy được điều chỉnh,
bổ sung và phát triển liên tục qua các đại hội Đảng VII, VIII, IX, X. Qua hơn 20 năm
thực hiện đường lối đổi mới Đảng và nhân dân ta đã thu được nhiều thành tựu to
lớn về mọi mặt, mang nhiều ý nghĩa lịch sử.
3.1.1. Kinh tế
Trong giai đoạn đổi mới từ sau 1986, Đảng đã xác định lấy đổi mới kinh tế là
trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về kinh tế. Tư tưởng chủ đạo của đường
lối đổi mới kinh tế là: giải phóng mạnh mẽ mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác
tốt và có hiệu quả mọi khả năng của đất nước, của mọi thành phần kinh tế; trên cơ
sở phát huy các nguồn lực trong nước là chính, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút
mạnh mẽ và có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài; hình thành một cơ cấu kinh tế
hợp lý; phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và đổi mới quan
hệ sản xuất (cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) nhằm
bảo đảm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất, tạo nên động lực mạnh mẽ cho sự phát triển. Mọi sự tăng trưởng và phát triển
đều hướng tới “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Đại hội VI (12/1986) xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế cho những
năm còn lại của chặng đường đầu tiên là:
1- Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ;
2- Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất;
3- Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất;
Nhờ có định hướng đúng đắn này mà trong 20 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình to lớn.
Nhóm 5 – CH19A 17
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
Đất nước thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
• 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu
phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong
chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ
sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH
và giải phóng sức sản xuất.
• 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân hàng
năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước.
• Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu
vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước
những thử thách. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Việt Nam vẫn duy trì được tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
• Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP
theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu
đồng, tương đương với 640 USD.
• Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực,
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta
đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ
2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
• 2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta đạt tỷ lệ cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần
45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng
thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so
với giai đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn
1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%.
GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với
sản xuất thị trường
• Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng
tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá
trị xuất khẩu.
• Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%,
năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công
nghệ ngày càng hiện đại.
• Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1%
năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông
Nhóm 5 – CH19A 18
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn
pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày
càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
• Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng
theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và
trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
• Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38%
GDP của cả nước.
• Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối
quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp
vào ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh
tế vĩ mô cơ bản ổn định:
• Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối
đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều
thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan
trọng.
• Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế
của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
• Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh
thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một
bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, đời sống của đại
bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt:
• Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã giải
quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho
mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của nhân dân được nâng cao.
• Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến
năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành
thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.
Nhóm 5 – CH19A 19
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
• Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên
khoảng 1168 USD năm 2010.
• Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp,
ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy
mạnh; tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
Kinh tế đối ngoại phát triển khá, vị thế của nước ta trên trường quốc tế đã được
nâng cao
Với chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển,
Việt Nam đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận,
cô lập Việt Nam của các thế lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
• Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
• Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm 10
nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10-
2004, Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
• Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu
Đại Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
• Mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao
động, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam đạt 2,404 tỷ USD và nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung
bốn năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77
tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm khoảng 14,6%.
3.1.2. Thành tựu về văn hóa, xã hội và con người
Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội,
con người luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển
văn hoá, xã hội và con người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng: Việt
Nam là tấm gương sáng trong việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải
quyết thành công nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa, xã hội và con người.
Hôm nay đây, nhìn lại chúng ta có thể khẳng định những nét tổng quan nhất
Nhóm 5 – CH19A 20
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
về thành tựu văn hoá, xã hội và con người ở Việt Nam sau 20 năm qua là:
Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm, xoá đói,
giảm nghèo.
Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn.
Việc làm khan hiếm, số người không có việc làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu
nghèo diễn ra nhanh chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm
nhập ở mọi tầng lớp dân cư. Lấy phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức
mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế, bằng trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết,
Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải quyết việc làm, xoá đói, giảm
nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân.
Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công
cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu
chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo
tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã
giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô
la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%. Ngay từ năm 2002,
Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch
toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015”.
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung
học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm
1980 lên 95% năm 2004.
Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các
huyện và khu vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở
thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong
trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo
dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng
đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm
Nhóm 5 – CH19A 21
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là
13,3%.
Khoa học-công nghệ và tiềm lực khoa học-công nghệ có bước phát triển
nhất định.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong
thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông
nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ
được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70
nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao
gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp phần cung
cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh
tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước
ngoài.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp
đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi,
cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công
bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi
năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức
dưới trung bình (0,498 năm 1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm 2002).
Năm 2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều
tra. Năm 2005, Việt Nam được lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được
điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người
thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002 vượt
lên 19 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ 128 trên tổng số 173 nước được
thống kê, còn HDI xếp thứ 109/173. Điều dó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt
Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng
xã hội tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao
hơn nước ta.
Sự nghiệp văn hoá có nhiều tiến bộ
Nhóm 5 – CH19A 22
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và
phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong
đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới
trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài
năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và
phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh
và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát
triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu,
hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam
được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển
đã góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và nâng cao tính đồng
thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên
không ngừng.
Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ
Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng cũng như
về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các
cơ sở sản xuất, kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực tiếp
làm việc trong các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39
triệu người, chiếm 17,49% lao động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề
nghiệp, nhìn chung, đã được nâng lên, thể hiện rõ nhất là ở một số ngành như bưu
chính viễn thông, dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tầu…
Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông
ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ trang trại, những hộ sản xuất cá thể,
những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ
chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo
đường lối đổi mới. Đã hình thành các quan hệ hộ - hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư
nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại.
Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao
đẳng, đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa
Nhóm 5 – CH19A 23
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
học. Đây là một lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
3.2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn
nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng kết thực tiễn, đưa ra đường lối
đổi mới kịp thời, phù hợp, thì hiện tại vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế trong sự
vận dụng nguyên lý này.
Mặt hạn chế lớn nhất, dễ nhận thấy nhất là trong việc ban hành chính sách,
pháp luật nghị định. Chính sách, luật pháp thì có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế,
đời sống của nhân dân, những chính sách, luật pháp được đưa ra không phù hợp,
không đảm bảo thực hiện được vai trò của nó sẽ để lại những hệ lụy rất phức tạp
cho xã hội.
Trong thời gian qua, có rất nhiều chính sách được ban hành không xuất phát
từ thực tiễn, không lấy thực tiễn làm mục tiêu, động lực. Mỗi một chính sách hoặc
một kiến nghị nào đó được đề xuất đều phải hướng đến mục đích duy nhất đó là
khắc phục những tồn tại đã, đang hoặc sẽ xuất hiện trong thực tiễn xã hội. Thế
nhưng, đáng tiếc, đã có không ít chính sách hoặc các đề xuất đã hoặc manh nha
hình thành phải chết yểu hoặc ban hành nhưng không thể áp dụng.
Điển hình mới nhất cho việc chính sách được ban hành nhưng không thể áp
dụng trong thực tiễn và đã phải bãi bỏ đó là Thông tư 33 của Bộ NN và PTNT quy
định thịt và phụ phẩm bảo quản ở nhiệt độ bình thường chỉ được bày bán trong
vòng 8 giờ kể từ khi giết mổ. Nhưng điểm cốt lõi là làm sao có thể nhận biết thịt
đang bày bán còn trong thời gian 8 giờ kể từ khi giết mổ thì không được đề cập
đến, vậy căn cứ vào đâu để thực thi thong tư? Hay Thông tư 11/2013 do Bộ Công
an ban hành có hiệu lực từ ngày 15/4/2012 quy định chi tiết việc xử phạt đối với
hành vi “không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định” cũng “lâm” vào
hoàn cảnh: tạm dừng thực hiện. Bởi ở vào hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam
hiện nay, để đáp ứng điều kiện “xe chính chủ” phải mất hàng chục năm để thực
hiện, chứ không thể tiến hành theo lộ trình vài tháng hay một hai năm. Một quy
định nữa cũng không thể áp dụng trong thực tiễn đó là kể từ ngày 1/1/2013, các tổ
Nhóm 5 – CH19A 24
Bài thảo luận Triết học nâng cao PGS.TS Phương Kỳ Sơn
chức, hộ sản xuất kinh doanh rượu thủ công – hay nói cách khác là rượu tự nấu
muốn bán ra thị trường phải có giấy phép sản xuất, trên sản phẩm phải có nhãn
mác, phải đăng ký với chính quyền địa phương.
Trở lại với một vài chính sách đã nêu, có thể thấy rằng trước khi được ban
hành, dư luận xã hội đã có rất nhiều ý kiến không đồng tình bởi tính bất khả thi và
phi thực tế của nó. Nhưng đáng tiếc, các cơ quan chức năng vẫn không lắng nghe
(với tinh thần thật sự cầu thị) và dành sự quan tâm thích đáng, thậm chí có ý kiến
gay gắt hơn cho rằng đó là những người “ngồi trên trời làm chính sách”. Không
phải cần đến các chuyên gia cũng có thể thấy những chính sách này không thể thực
hiện được hoặc có chăng thì chỉ là ban hành cho có, cho đủ hoặc đơn thuần là phục
vụ “lợi ích nhóm”.
Còn về luật pháp, khi kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, khoa học kỹ thuật
phát triển ngày càng mạnh mẽ dẫn đến rất nhiều vấn đề nảy sinh về tội phạm.
Những luật được ban hành nhiều khi không theo kịp với thực tiễn, để lọt rất nhiều
những hành vi sai phạm chỉ vì chưa có luật, hoặc có luật nhưng chưa có chế tài xử
lý, hoặc mức xử lý chưa tương xứng. Đơn cử vấn đề xử lý các loại tội phạm về an
ninh mạng, từ trước đến nay luôn gặp khó khăn vì thiếu chế tài, luật pháp chưa đủ
mạnh để răn đe, gây tổn thất cho ngân sách mà tội phạm vẫn nhởn nhơ ngoài vòng
pháp luật.
Bất kỳ một chính sách nào muốn đạt được hiệu lực, hiệu quả cao nhất bắt
buộc phải xuất phát từ cuộc sống, bám sát cuộc sống và phải phục vụ cho đời sống.
Thực tế đã chứng minh có không ít chính sách khi mới ban hành đã vấp phải sự
phản đối rất lớn. Nhưng thực tiễn lại khẳng định: việc phải ban hành chính sách đó
là đúng đắn và cần thiết – thì đương nhiên, người dân sẽ ủng hộ và chính sách đó
có sức sống.
Thực trạng này đòi hỏi Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan chính phủ phải nâng
cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng luật, thay đổi tư duy làm chính sách và nhất
là trong quá trình soạn thảo chính sách, trước khi ban hành, phải thực hiện đầy đủ các
bước nghiên cứu, soạn thảo cơ bản: đánh giá tổng kết thực trạng vấn đề, đặt ra mục
Nhóm 5 – CH19A 25