Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phép biện chứng thể hiện trong các học thuyết của những nhà triết học cổ điển đức tiêu biểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.11 KB, 27 trang )

1

MỤC LỤC
Trang

LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU

3

NỘI DUNG

5

1. Thế nào là phép biện chứng?

5

1. 1. Về khái niệm phép biện chứng

5

1. 2. Phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình

5

3. Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử triết học Tây Âu.

7

2. Sự phát triển của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ


đại - Phép biện chứng tự phát

9

1.

2.

1. Điều kiện ra đời phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại

9

2. 2. Sự phát triển của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp
cổ đại.

10

3. Tư tưởng biện chứng trong thời kỳ thống trị của phương pháp tư
tưởng siêu hình

16

4. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức

19

4.1.

Những điều kiện kinh tế xã hội và đặc điểm chung của triết học
cổ điển Đức.


4.2.

Phép biện chứng thể hiện trong các học thuyết của những nhà 20
triết học cổ điển Đức tiêu biểu

KẾT LUẬN

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2

19

25


2

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Vi Thái Lang đã tận tình hướng dẫn
và tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành tiểu luận này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, các cô trong khoa sau Đại Học – Trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu trong
thời gian tôi học tập tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các nghiên cứu sinh của phòng sau Đại Học –
Trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong
suốt quá trình tôi hoàn thành tiểu luận.
Do kiến thức bản thân còn nhiều hạn chế lên trong tiểu luận không thể tránh
được những sai sót, tôi rất mong nhận được những nhận xét, góp ý của các thầy,
các cô cũng như các bạn học viên để tiểu luận này được hoàn thiện hơn.


Hà Nội, ngày 24 tháng 01 năm 2013
Tác giả

LÃ THỊ NGỌ

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


3

MỞ ĐẦU
Tại sao phải nghiên cứu phép biện chứng và sự phát triển của tư tưởng biện
chứng?
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy
được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những học thuyết triết học đầu tiên
trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ
cổ đại, Trung Quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và các nước khác.
Trong lịch sử triết học đã tồn tại hai phương pháp nhận thức đối lập nhau:
phép biện chứng và phép siêu hình. Phép biện chứng, xét trên phương diện triết
học thì nó là một hiện tượng có ý nghĩa thế giới quan cũng rộng lớn như bản
thân triết học. Trong lịch sử phép biện chứng đã hình thành ngay từ buổi bình
minh của triết học và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử và đạt tới đỉnh cao ở
phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật biện chứng Macxit.
Đối với những người nghiên cứu khoa học trong thời đại hiện nay, nắm vững
phép biện chứng duy vật là chìa khóa để đi vào kho tàng tri thức của nhân loại, là
yếu tô cơ bản để hình thành thế giới quan khoa học và phát triển tư duy sáng tạo.
Lịch sử tư tưởng và cách mạng cho thấy, khi nào chúng ta nắm vững lý luận
phép biện chứng, biết vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của nó một
cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể thì vai trò và hiệu lực cải tạo tự

nhiên, biến đổi xã hội được tăng cường. Ngược lại, cách nghĩ, cách làm chủ
quan, duy ý chí, phiến diện, siêu hình sẽ dẫn tới những sai lầm cả trong lý luận
lẫn thực tiễn, đem lại tổn hai cho bản thân, cho xã hội.
Chính vì thế, việc học tập, nghiên cứu sự hình thành, phát triển của phép biện
chứng trong lịch sử là hết sức cần thiết. Nó giúp ta nắm được bức tranh toàn
cảnh của triết học, hiểu được nguồn gốc ra đời của phép biện chứng, sự hình
thành và phát triển của nó qua quá trình đấu tranh gay gắt với những tư tưởng

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


4

siêu hình, những hạn chế của phép biện chứng duy tâm. Trên cơ sở đó ta nắm
vững được phép biện chứng duy vật, thấu suốt những nguyên tắc phương pháp
luận của nó, vận dụng nó trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
Nghiên cứu sự phát triển của tư tưởng biện chứng trong triết học Tây Âu từ
thời cổ đại đến triết học cổ điển Đức là đi sâu vào giai đoạn phát sinh và phát
triển của phép biện chứng trong từng thời kỳ, từ phép biện chứng tự phát cổ đại
đến phép biện chứng duy tâm của Heghen thời cận đại, đồng thời còn nhằm hiểu
rõ tại sao nó là tiền đền quan trọng dẫn đến sự hình thành chủ nghĩa duy vật biện
chứng giai đoạn Mac – Awnggen với phép biện chứng duy vật Mácxít – phương
pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


5

NỘI DUNG

1. Thế nào là phép biện chứng?
1.1. Về khái niệm phép biện chứng
Phép biện chứng ở đây trước hết được hiểu là một phương pháp của triết học
nhằm nhận thức thế giới nói chung. Đó chính là phương pháp nhận thức thế giới
trong các mối liên hệ, ảnh hưởng và ràng buộc mhau, ở đó các sự vật hiện tượng
đều nằm trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển theo những quy luật
khách quan vẫn có của nó.
Thuật ngũ “biện chứng” xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, gắn liền với phép
biện chứng duy tâm của Xôcrat và Platon. Trước đó, dù không nên khái niệm
này, nhưng Hêraclit đã khẳng định quan điểm biện chứng tự phát trong học
thuyết của mình. Từ đó cùng với sự phát triển của tư duy con người “biện
chứng” không còn được hiểu là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý theo
cách hiểu của Xôcrat và Platon nữa mà được hiểu như là một phương pháp nhận
thức thế giới nói chung.
1.2.

Phân biệt phép biện chứng và phép siêu hình

Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai phương pháp
nhận thức: phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Đó là hai mặt đối
lập trong phương pháp tư duy và chính cuộc đấu tranh lâu dài của hai phương
pháp này đã thúc đẩy tư duy triết học phát triển và được hoàn thiện dần với
thăng lợi của tư duy biện chứng duy vật.
Phương pháp siêu hình là phương pháp nhận thức mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng khỏi chình thể,
giữa các mặt đối lập nhau có ranh giới tuyệt đối, đồng thời phép siêu hình cũng
Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


6


xem xét sự vật trong trạng thái tĩnh tại, ngưng đọng, nếu biến đổi thì đơn thuần
đó chỉ là biến đổi về số lượng và nguyên nhân biến đổi nằm ngoài đối tượng.
Tư duy của những nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không
thể dung hòa được, học nói có là có, nói không là không, với họ mọi sự vật hiện
tượng không tồn tại hoặc tồn tại chứ không thể có sự vật nào vừa là chính nó vừa
là cái khác. Do đó, phương pháp siêu hình làm cho con người sẽ mắc phải sai
làm trong tư duy cũng như trong hành động, như Ăng – ghen đã nói: “chỉ nhìn
thấy sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật
ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tái chứ không nhìn thấy sự ra đời và biến đi của sự vật
ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tingx của sự vật mà quên mất sự vận động của sự vật,
chỉ nhìn thấy cây mà không nhìn thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng nào
trước hết con người phải tách đối tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ và nhận
thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định.
Do đặc trưng đó, tư duy siêu hinhfchir có ý nghĩa trong những giới hạn hết sức
chật hẹp, vượt ra khỏi giới hạn đó, tưc “siêu hình xông vào cái thế giới bao la
của sự nghiên cứu” thì sớm hay muộn “nó sẽ trở thành phiến diện, sai lầm, trừu
tượng và sa vào những mâu thuẫn không thể nào giải quyết được”, bởi vì thế giới
hiện thực khách quan không rời rạc, ngưng đọng như nó quan niệm.
Đối lập với phép siêu hình. Quan điểm biện chứng không chỉ thấy tính các
biệt của sự vật mà còn thấy mối liên hệ qua lại tất yếu giữa chúng, không chỉ
thấy sự tồn tại mà còn thấy sự hình thành, tiêu vong của sự vật, không chỉ thấy
trạng thái tĩnh mà còn thấy trạng thái vận động biến đổi không ngừng của sự vật,
không chỉ thấy cái bộ phận mà còn thấy cả cái toàn thể. Đó là phép tư duy biện

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


7


chứng mềm dẻo linh hoạt. nó thừa nhận trong trường hợp cần thiết thì bên cạnh
cái “hoặc là…hoặc là …” còn có cái “vừa là … vừa là …”, thừa nhận một chỉnh
thể trong các lúc vừa là nó vừa không phải là nó, thừa nhận cái khẳng định và cái
phủ định vừa loại trừ lẫn nhau vừa gắn bó nhau.
Tóm lại, có thể nói phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó
tồn tại. Nhờ vậy, nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải
tạo thế giới.
1.3.

Các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử triết học Tây Âu.

Cùng với sự phát triển của tư duy triết học, lịch sử phép biện chứng đã trải
qua ba hình thức: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép
biện chứng duy vật.
Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời kỳ Hy lạp cổ đại. Nhiều
nhà biện chứng thời kỳ này như Hê rac lôt, Đê mô crit, … đã thấy các sự vật
hiện tượng cảu vũ trụ hình thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng
vô tận. Tuy nhiên, những gì họ thấy được đó chỉ là trực kiến, chưa phải là kết
quả của những nghiên cứu và thực nghiệm mang tính khoa học nào.
Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức,
gắn liền với tên tuổi của Heghen, Cantơ. Lần đầu tiên trong lịch sử duy nhân loại
các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan
trọng nhất cảu phương pháp biện chứng. Song đáng tiếc, đứng trên lập trownfg
duy tâm, họ cho rằng biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tình
thần, thế giới khách quan chỉ là sự sao chép của các ý niệm. Mac gọi đó là phép
biện chứng lộn ngược, không đứng bằng chân mà đứng bằng đầu.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2



8

Thứ ba là phép biện chứng duy vật được xây dựng trogn thời kỳ MacĂngghen, được Lênin phát triển. Nó gạt bỏ được tính chất duy tâm, thần bí, kế
thừa những hạt nhân hợp lý của biện chwnsgduy tâm, hình thành phép biện
chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển dưới hình thức hoàn thiện nhất.
Như vậy, xem xét ba hình thức của phép biện chứng như trên để nhìn thấy sự
phát triển từ thấp đến cao của phép biện chứng, thấy được nhẵng tiến bộ cũng
như những hạn chế của no qua các thời kỳ lịch sử.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


9

2. Sự phát triển của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại Phép biện chứng tự phát
2.1. Điều kiện ra đời phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại.
2.1.1 Điều kiện về kinh tế xã hội.
Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, triết học Hy Lạp cổ đại cũng bắt
nguồn từ đời sống thực tế, do vậy, khi xem xét về triết học nói chung, về phép
biện chứng nói riêng, không thể không nói đến những điều kiện về kinh tế- xã
hội với ý nghĩa tiền đề cho sự phát sinh, phát triển của triết học.
Xã hội Hy Lạp cổ đại gắn liền với một trong những nền văn minh sớm của
nhân loại: Văn minh Hy-La. Đó là thời kỳ chiếm hữu nô lệ phát triển tới cực
thịnh. Nền kinh tế đã có sự phân công lao động khiến sản xuất nông nghiệp thủ
công nghiệp được tập trung hóa, đồng thời nền kinh tế thương nghiệp phát triển
dẫn đến sự hình thành của nhiều bang giàu có và sầm uất.
Sự phân chia giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện sự phân biệt
giữa lao động trí thức và lao động chân tay. Mặt khác, khi của cải vật chất tương

đối được đảm bảo, con người bắt đầu có nhu cầu nhận thức về chính bản thân
mình, nhận thức về thế giới xung quanh mình. Những điều đó đòi hỏi có sự ra
đời về triết học, khoa học về thế giới quan cùng sự hình thành của một bộ phận
các nhà trí thức chuyên nghiên cứu về triết học.
Nhưng nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất vật chất còn đòi hỏi sự phát sinh,
phát triển về tri thức, thiên văn học, vật lý học, toán học… Hầu hết những nhà
triết học thời kỳ này đồng thời còn là nhà khoa học về tự nhiên được trở thành
hình thái sơ khai song những tri thức về tự nhiên học tình bày rất rõ trong hệ
thống triết học của mình.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


10

Sự xuất hiện của nhà nước dân chủ nô lệ là một bước tiến dài về lịch sử trong
xã hội Hy Lạp cổ đại, nó làm xuất hiện cuộc đấu tranh giai cấp giữa nô lệ và chủ
nô, song nó cũng là điều kiện cho sụ phát triển vượt bậc về kinh tế, làm cơ sở
cho sự hình thành phát triển của triết học, khoa học và nghệ thuật.
2.1.2. Những tiên đề về văn hóa tư tưởng.
Sự phát triển về sản xuất, sự xuất hiện của một số nghành khoa học tự nhiên
đã khiến cho thế giới quan thần thoại tồn tại trong xã hội Hy Lạp mất dần giá trị,
đó là cơ sở quan trọng hình thành nên tư duy vật và phép biện chứng sơ khai
trong triết học.
Những khái niệm được hình thành dựa trên cơ sỏ tích lũy những kinh nghiệm
từ thực tiễn sản xuất, từ đời sống xã hội đã khiến cho các nhà hiền triết thời kỳ
này dần thoát khỏi những tư duy thần thoại, với những ảo tưởng của nó, tiến dần
đến bản chất của thế giới hiện thực khách quan. Triết học tách khỏi thế giới của
thần thoại và trở thành một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, một biến thể đặc
thù của hoạt động tinh thần của con người.

Tóm lại, những điều kiện về kinh tế- xã hội, về văn hóa tư tưởng, như trên đã
có tác động trực tiếp vàn đã được phản ánh rõ rệt trong hệ thống lý luận của các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại khi luận giải các vấn đề cơ bản về tự nhiên, xã hội và
tư duy.
2.2.

Sự phát triển của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp

cổ đại.
Ngay từ khi triết học ra đời, nó đã gắn liền với những quan niệm và tư tưởng
biện chứng. Nhu cầu cắt nghĩa thế giới đã cho phép biện chứng xuất hiện với tư
cách là lĩnh vực quan trọng nhất của triết học Hy Lạp cổ đại. Theo quan điểm

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


11

của những nhà duy vật biện chứng Macxit thì những nhà triết học Hy Lạp cổ đại
đều là những nhà biện chứng tụ phát bẩm sinh. Những tư tưởng biện chứng thời
kỳ này- Enghen. Những tư tưởng biện chứng thời kỳ này được coi là gian đoạn
đầu tiên trong lịch sử nhận thức mang tính biện chứng về sự phát triển của hiện
thực.
Nếu như coi phép biện chứng là khoa học về những quy luật phổ biến của sự
vận động và phát triển tự nhiên, qui định tính chỉnh thể, tính thống nhất của tự
nhiên của xã hội và tư duy’ – Enghen là học thuyết về sự phát triển của hình thức
hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện…- Lênin thì bắt buộc chúng ta
phải đặt câu hỏi: Phép biện chứng trong triết học cổ đại biểu hiện dưới những
vấn đề nào?
Có thể nói, phép biện chứng tự phát của các nhà triết học Hy Lạp về co bản

thể hiện rõ trong việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của thế giới
(khởi nguyên của thế giới là gì?) và thể hiện trong việc thừa nhận sự vận động
biến đổi không ngừng của thế giới hiện thực.
2.2.1. Tư tưởng biện chứng thể hiện trong học thuyết về khởi nguyên của
thế giới.
Câu hỏi lớn nhất đặt ran gay từ khi triết học ra đời là ‘ Thế giới này sinh ra từ
đâu?’ và cũng ngay từ đầu, vấn đề ankhe- tức khỏi nguyên- đã trở thành vấn đề
cơ bản của những nhà triết học đầu tiên trong lịch sử Hy Lạp cổ đại. Như vậy,
thong qua các thuyết của họ ta có thể thấy rõ biểu hiện trước hết của tư duy biên
chứng chính là nhìn nhận thế giới trong chỉnh thể và tính thống nhất. Do hạn chế
về lịch sử, các nhà biện chứng đều quan niệm cái qui định mối liên hệ giữa vạn
vật trong tự nhiên, qui định tính chỉnh thể, tính thống nhất của tự nhiên là một
yếu tố ‘ Khởi nguyên’ nào đó.
Khởi nguyên – đó là cái có trước, là cơ sở cho sự phát sinh của những vự vật
và hiện tượng. theo như những nhà triết học thuộc trường phái triết học Mi-Lê,
Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


12

yếu tố bản nguyên của thế giới là một đơn chất nào đó, tồn tại với tư cách là một
vật hay dạng vật chất cụ thể có thể cảm tính trực tiếp như nước – Talet- không
khí – Annaximen- hay Apeiron – Anaximandro. Yếu tố vật chất qui định sự phát
sinh ra thế giới tự nhiên (phixic) hay nói cách khác, các sự vật hiện tượng muôn
vàn muôn vẻ trong tự nhiên đều có sự thống nhất, có mối liên hệ với nhau nhờ
được cấu tạo từ ‘ thành phần chung’ là dạng vật chất nào đó.
Tuy những quan niệm như trên còn mang tính chất trực quan cảm tính, song
những nhà triết học phái Mi-lê đã thể hiện những nền móng đầu tiên cho sự phát
triển của tư tưởng biện chứng trong triết học.
Người tiếp tục tư tưởng biện chứng của phái Mi-Lê là Heraclit, ông đã đứng

trên lập trường duy vật để giải quyết vấn đề Arkhe ‘Khởi nguyên’ từ một vật
chất cụ thể, đó là lửa, lửa là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật,
hiện tượng tự nhiên. Theo đánh giá của LêNin, do lấy vật chất để giải quyết các
hiện tượng trong giới vật chất nên Heraclit chính là người sang lập ra phép biện
chứng và sự thực là Heraclit đà là nhà duy vật biện chứng sơ khai đầu tiên trong
lịch sử triết học Tây Âu.
Tư tưởng biện chứng mang tính chất khách quan ở Heraclit đã được tiếp tục
trong ‘ vũ trụ luận’ của Đemocrit. Song khác với Heraclit quan niệm tính thống
nhất của thế giới thể hiện ở một dạng vật chất đơn chất bởi hiện tượng sự vật đều
được tạo nên từ một nguyên tố phổ biến, đó là các hạt nguyên tử. Sở dĩ có sự
biểu hiện thành nhiều dạng khác nhau là do sự tổ hợp lại hay phân ly của các hạt
vật chát vô cùng nhỏ bé này, còn chính chúng thì không biến đổi gì cả.
Như vậy, về vấn đề khởi nguyên của thế giới, một số nhà duy vật trong triết
học Hy Lạp cổ đại đã khẳng định tư tưởng biện chứng của mình khi quan niệm
thế giới tự nhiên là một chỉnh thể thống nhât bởi một dạng vật chất nào đó.
2.2.2. Tư tưởng biện chứng biểu hiện trong những quan niệm sự vận
động và phát triển.
Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


13

Sở dĩ Heraclit được các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy vật biện chứng đánh
giá rất cao là bởi ông đã đưa ra một vấn đề có tính chất cốt lõi của phép biện
chứng, đó là sự vận động và biến đổi không ngừng của thế giới vật chất. Ông
quan niệm mọi sự vật hiện tượng trong giới vật chất không đứng im tuyệt đối mà
không ngừng vận động, biến đổi và chuyển hóa thành cái khác. Sở dĩ có sự vận
động, biến đổi đó là nhờ sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự vật
hiện tượng, nghĩa là nguồn gốc vận động và phát triển của sự vật chính là ‘ sự
trao đổi của những mặt đối lập’. Đây là đóng góp quan trọng thể hiện tư tưởng vĩ

đại của Heraclit trong phép biện chứng. Hơn thế nữa, Heraclit còn là người đưa
ra khái niệm về quy luật khách quan, ông chi rằng mọi sự vật vận động biến đổi
đều do khách quan qui định. Dù chứa những nét tự phát của, sơ khai song phép
biện chứng duy vật của Heraclit đã trở thành trung tâm trong lịch sử phép biện
chứng thời Hy Lạp cổ đại.
Vấn đề vận động, biến đổi và phát triển của thế giới, nếu Heraclit thiên về lý
giải sự vận động của giới tự nhiên thì Đêmôcrit vừa lý giải sự vận động của giới
tự nhiên bằng lý thuyết nguyên tử, vừa lý giải mối liên quan và sự phát triển của
quá trình nhận thức của con người, nghĩa là Đêmôcrit mở rộng đối tượng triết
học của mình và phép biện chứng của ông còn thể hiện giá trị của nó về mặt
nhận thức luận.
Theo Đêmôcrit muốn đi đến được bản chất sự vật hiện tượng con người phải
đi từ ‘ nhận thức mờ tối’ tới ‘ nhận thức chân lý’, hai dạng nhận thức trên có liên
hệ chặt chẽ với nhau nhưng dạng nhận thức chân lý đáng tin cậy hơn. Như vậy
có thể nói, biện chứng của Đêmôcrit không chỉ giới hạn trong vấn đề bản thể
luận mà nó còn được mở sang vấn đề nhận thức luận.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


14

Đóng góp vào việc phát triển tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại Hy
Lạp không chỉ có những nhà duy vật chất phác mà còn có những nhà triết học
duy tâm.
Là những nhà triết học duy tâm, Xôcrat và Platon bỏ qua vấn đề bản thể luận
vĩ đại đã quan niệm: ‘Con người hãy nhận thức chính mình’- Xôcrat. Với
Xôcrat, phép biện chứng gắn liền với các khái niệm và nghệ thuật đàm thoại, là
phải đi đến được cái chung, cái phổ biến khi nhận thức hiện thực khách quan.
Một giai đoạn quan trọng trong lịch sử tư tưởng biện chứng cổ đại Hy Lạp là

phép biện chứng cổ đại Hy Lạp là phép biện chứng duy tâm của Platon. Platon
đã phát triển tư tưởng biện chứng của mình trong cuộc đấu tranh chống lại chủ
nghĩa duy vật của Đêmôcrit, chống lại biện chứng về logos - Khác quan- của
Heraclit, cũng như chống lại phép ngụy biện cổ đại.
Khi xây dựng hệ thống triết học duy tâm của mình Platon quan niệm các ý
niệm là bản chất chung của mọi sự vật, là yếu tố khởi nguyên, là cơ sở thống
nhất toàn vũ trụ. Ông cũng thừa nhận thế giới vật chất (thế giới cảm tính) cũng
tồn tại biểu hiện ra nhiều sự vật đa dạng, cũng không ngừng biến đổi nhưng sự
biến đổi của thế giới cảm tính phụ thuộc vào thế giới ý niệm. Nối tiếp phép biện
chứng của Xôcrat, Platon coi đối tượng cơ bản của mình là các khái niệm, đã chỉ
ra biện chứng chuyển tiếp lẫn nhau của các khái niệm đối lập. Theo ông cái hiệ
tồn tại trong thế giới cấu thành từ các mặt đối lập (Cái đẹp- cái xấu, công bằngbất công…) luôn luôn luân chuyển lẫn nhau.
Như vậy, phép biện chứng của Platon đã bộc lộ khiếm khuyết ở chỗ rơi vào
sự quẩn quanh trong quan điểm duy tâm khi lý giải sự vận động biến đổi của thế
giới phụ thuộc vào các ý niệm. Tuy nhiên, bằng việc tạo ra cuộc đấu tranh với
các nhà duy vật cổ đại, Platon đã góp một phần không nhỏ tạo nên động lực phát
triển của tư tưởng biện chứng trong lịch sử phát triển của nó.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


15

3. Tư tưởng biện chứng trong thời kỳ thống trị của phương pháp tư
tưởng siêu hình
Như đã nói, trong lịch sử phép biện chứng, giai đoạn trước Mác đã có hai
bước đi quan trọng: từ phép biện chứng sơ khai, chất phác thời cổ đại đã đi tới
phép biện chứng duy tâm thời tiết hocjcoor điển Đức. Nói như vậy không có
nghĩa là trong suốt khoảng thời gian hai ngàn năm từ thời cổ đại đến thời của
Can tơ, Hê ghen phép biện chứng hoàn toàn biến mất. Tư tưởng biện chứng vẫn

tồn tại trong hệ thống triết học Tây Âu, bất chấp ự thống trị của phép tư du siêu
hình. Người ta không thể bác bỏ những yếu tố biện chứng nằm rải rác trong các
học thuyết triết học của N. kudanxk, Brunô, Telediô, Biômê, và một số nhà tư
tưởng khác thời phục hưng, cũng như phải thừa nhận sự tồn tại của tư tưởng biện
chứng trong triết học thế kỷ XVII – XVIII ở Tây Âu.
Đi qua thời trung cổ, thời kỳ phục hưng đã có sự phát triển các tư tưởng biện
chứng mà đặc trưng của nnos còn thể hiện dưới hình thức thần học (Kudanxky,
Biômê, …) hay phiếm thần song nó được các nhà sáng lapaj sử dụng như một
phương pháp xác định, như tổng thể các nguyên tắc xác định khi giải quyết các
vấn đề triết học (như bản thể luận, nhận thức luận) hay các vấn đề về khoa học tự
nhiên và xã hội.
Biểu hiện tư tưởng biện chứng thời kỳ này thể hiện trong quan niệm về thế
giới qua các bức tranh về tự nhiên của Lêôna đơ vanhxi , qua thuyết nhật tâm
của Côpecnich, Ni cô lai kudanxky đã hình thành các nguyên tắc biện chứng cho
sự lý giải chung về vũ trụ, còn G.Brunô khi phát hiện và sự dụng những nguyên
tắc đó, không những đã tạo ra nguồn gốc vũ trụ luận biện chứng của thế giới
khách quan, mà còn biện chứng thành cơ sở cho lý luận nhận thức mang tính
biện chứng sâu sắc của mình. Từ việc nghiên cứu các học thuyết của các mặt đối

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


16

lập, nguyên tắc tự phát triển của thế giới, sự thống nhất và mối liên hệ giữa các
yếu tố của nó, tính tâm đoạn của vận động biện chứng….
Đến thế kỷ thứ XVII, với sự ra đời “kinh nghiệm luận” của F.Bêicon, nhà
triết học duy vật Anh, phép siêu hình đã thực sụ tiến đến địa vị thống trị trong tư
duy triết học. Tuy nhiên, ngay trong tính chủ quan và phiến diện với cách nhìn
siêu hình của Bê ic ơn, các học thuyết của ông vẫn chứa đựng không ít tư tưởng

biện chứng. Có nghĩa là, không có sự đối lập tuyệt đối phép siêu hình và phép
biện chứng trong tính hệ thống mà phép phép siêu hình và phép bienj chứng vẫn
có mối liên quan, các tư tưởng biện chứng một cách khách quan vẵn biểu hiện xu
hướng đấu tranh với tính siêu hình ở ngay trong hệ thống triết học siêu hình.
Sự phát triển tư tưởng bienj chứng giai ddaonj thế kỷ XVII – XVIII diễn ra
dưới hai hình thức khác nhau: thứ nhất, dưới các đề tài biện chứng các luận điểm
và các quan niệm biện chứng riêng biệt bên trong các học thuyết triết học mang
tính siêu hình và thứ hai, nó thể hiện dưới hình thức dần cải tạo nội dung của
toàn bộ siêu hình học, từ các lý giải siêu hình dần dần xuất hiện nội dung biện
chứng. Các hình thức này được thể hiện trong triết học của F. Bê cơn, Đềcáctơ,
Lepnit …
Khi tới cuối thế kỷ XVIII, phép siêu hình dần dần đánh mất vị trí thống trị, sự
khủng hoảng của nó bắt đầu biểu hiện khi khoa học tự nhiên, khoa học xã hội
ngày một phát triển, thói quen chia cắt, phân tích, chia nhỏ sự vật khi xem xét đã
bộc lộ rõ hạn chế và rơi vào những mâu thuẫn không tự giải quyết được. Trong
điều kiện đó đã xuất hiện xu hướng giải phóng phép biện chứng khỏi sức ép của
tư duy siêu hình, xu hướng cải tạo hình thức của phép biện chứng, thể hiện trogn
triết học của Vônte, Đềsam, …

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


17

Có thể nói, nếu trong thời kỳ cổ đại, tư tưởng biện chứng đã biểu hiện một
dạng biện chứng tương đối độc lập chứa đựng nhiều yếu tố duy vật, tuy còn chất
phác ngây thơ thì ở thời đại thống trị của phép siêu hình, các tư tưởng biện
chứng vẫn tồn tại trong khuôn khổ các hệ thống triết học siêu hình. Sự tồn tại đó
không phải mang tính chât ngẫu nhiên mà có thể nói chúng là kết quả những
thành tựu to lớn của triết học và khoa học tưn nhiên cùng với những nhiệm vụ tất

yếu mà phép biện chứng phải trực tiếp nghiên cứu.
Như vậy, ngay cả trong thời đại thông trị của phương pháp tư duy siêu hình,
lịch sử phép biện chứng vẫn không hề bị gián đoạn, tái lại đó là giai đoạn tất yếu,
có ý nghĩa chuẩn bị các tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và thắng lợi của phép
biện chứng về sau.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


18

4. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
4.1. Những điều kiện kinh tế xã hội và đặc điểm chung của triết học cổ
điển Đức.
Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao
của triết học cổ điển phương Tây và có ảnh hưởng lớn lao đến triết học hiện đại,
nhất là triết học Mác.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở một
số nước Tây Âu như: Italia, Anh, Pháp … và nó đã tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với
tất cả các chế độ xã hội trước đó, trong khi đó Đức vẫn là một quốc gia phong
kiến lạc hậu, trì trệ.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, ở Tây Âu khoa học tự nhiên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Cùng với
sự thay đổi về mặt chính trị xã hội, sự phát triển đó của khoa học cũng đã vạch ra
sự hạn chế và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản
chất các hiện tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX. Nó đòi hỏi cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự
nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại cũng như cần có quan niệm mới về khả năng
và vai trò của con người. Triết học cổ điển Đức đã ra đời nhằm đáp ứng những

nhiệm vụ lịch sử đó.
Chịu sự chi phối của hoàn cảnh khách quan giai đoạn đó, triết học cổ điển
Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức thì “rối rắm” và có
tính bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong hệ thống triết học của
Hêghen. Triết học của ông bao chứa một nội dung cách mạng sâu sắc là phép
biện chứng, nhưng hệ thống triết học của ông lại duy tâm, rơi rắm và kéo theo
những kết luận phản tiến bộ.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


19

Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò cảu con người, tính tích cực
trong hoạt động cảu con người,thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết
học phương Tây, từ chỗ chủ yếu bàn về vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, …
đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt động và là nền tảng và điểm xuất
phát cảu mọi vấn đề triết học.
Tiếp theo tư tưởng triết học biện chứng thờ kỳ cổ đại, triết học cổ điển Đức
xây dựng phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học đối lập với
phương pháp tư duy siêu hình trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và
xã hội.
4.2. Phép biện chứng thể hiện trong các học thuyết của những nhà triết
học cổ điển Đức tiêu biểu
4.2.1.. Phép biện chứng trong triết học Can tơ
Cantơ (1724 – 1804) là người sáng lập ra triết học cổ diển Đức, là người khởi
xướng ra hàng laotj tư tưởng biện chứng lỗi lạc, là nhà tư tưởng đã sáng tạo ra
phép biện chứng lỗi lạc, là nhà tư tưởng dã tạo ra phép biện chứng duy tâm,
được những người đi sau kế thừa và phát triển.
Phép biện chứng của Cantơ thể hiện qua hai giai đoạn: ở giai đoạn “tiền phê

phán” nó biểu hiện ở phép biện chứng của tự nhiên và cảu nhận thức khoa học tự
nhiên, ở giai đoạn “phê phán” nó thể hiện ở phép biện chứng cảu tư duy triết học
và của đời sống xã hội.
Ở thời kỳ thứ nhất, tư tưởng biện chứng của Cantơ thể hiện trong hệ thống
triết học về tự nhiên. Ông cho rằng: thế giới vật chất luôn vận động và biến đổi
không ngừng, mọi sự vật đều liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau thông qua lực hút
và lực đẩy. Thông qua sự tương tác giữa lực hút và lực đẩy làm cho vật chất vận
Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


20

động và vật chất không hình biến thành những thiên thể hình cầu. Nhờ vậy, giới
tự nhiên mới có thể tồn tịa và vận động được.
Lần đầu tiên Cantơ đã đưa ra quan niệm về lịch sử giới tự nhiên, ông cho
rằng thế giới ngày nay là kết quả của quá trình lịch sử phát triển lâu dài. Không
chỉ mọi sự vật của thế giới vật chất mà toàn bộ vữ trụ đều nằm trogn quá trình
phát sinh, phát triển và diệt vong theo quy luật tất yếu cảu tự nhiên. Những quan
điểm này của Cantơ đã thể hiện tư tưởng biện chứng khi xem xét về nguồn gốc
chung của các hiện tượng tự nhiên, mối liên hệ và sự tác động qua lại phổ biến
giữa chúng.
Như vậy trong thời kỳ đầu cảu triết học Cantơ, nội dung biện chững thể hiện
trước hết ở các kết quả của tư duy khoa học với mức độ ít hơn là phương pháp
luận. “thực tiễn biện chứng là việc áp dụng một cách cụ thể phương pháp biện
chứng ở Cantơ đã có trước bản than lý luận về quá trình biện chứng”.
Trong thời kỳ thứ hai, giai đoạn “phê phán” về cơ bản, tư tưởng biện chứng
của Cantơ biểu hiện ở “phép biện chứng phủ định” là ý niệm chung về mâu
thuẫn, cái thể hiện là hệ quả chính bản chất của lý tính. Bản than nó là mầm
mống của phép biện chứng hiện thực. Ở giai đoạn này triết học của Cantơ duy
tâm, thần bí, rốt cuộc cái quan trọng mà ông cố làm rõ trong lý thuyết “vật tự nó”

làm nảy sinh bất khả tri luận trogn lý luận nhận thức cảu ông.
Tóm lại, mặc dù còn nhiều mâu thuẫn mà chính ông không giải quyết được,
triết học của Cantơ vẫn mang đến một nội dung hết sức phong phú và sinh động.
Qua đó, Cantơ đã đặt nềm móng cho một quan niệm biện chứng về giới tự nhiên
và về lịch sử, đồng thời đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc cho sự phát triển cảu triết

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


21

học phương Tây hiện đại, những hạn chế trong triết học Đức hiện đại, những hạn
chế trong triết học Kant không làm lu mờ công lao đó của triết học Kant.
4.2.2.. Phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph. Hê ghen
Tiếp theo tinh thần biện chứng sâu sắc cảu Cantơ, triết học cổ điển Đức còn
ghi nhận tên tuổi cảu hai đại biểu khác là Phictơ và Senling. Tuy nhiên, chỉ đến
Hêghen, phép biện chứng trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức mới đạt tới sự
hoàn chỉnh nhất.
Hêghen (1770-1830) là nhà biện chứng lỗi lạc, triết hocjcaur ông là “tập đại
thành” cảu triết học cổ điển Đức – một tiền đề lý luận của triết học Mác xít.
Theo Ăngghen đánh giá, Hêghen “không chỉ là một thiên tài sáng tạo mà còn là
một nhà bác học có tri thức bách khoa, nên những phát biểu cảu ông trên mỗi
lĩnh vực có giá trị vạch thời đại”.
Học thuyết Hêghen là thành tựu cao nhất cảu phép biện chứng trong triết học
Tây Âu giai đoạn trước Mac. Học thuyết này có điểm khác biệt là nội
dungquanrg bác và sâu sắc đặc biệt, các vấn đề đặt ra đa dạng và có ý nghĩa quan
trọng. Ông đã phát hiện ra các quy luật biện chứng cơ bản mà Phic tơ và Senling
chỉ mới thể hiện dưới dạng không rõ ràng hay thậm chí chưa từng đề cập đến.
Ông cũng đã nghiên cứu hơn một trăm cặp phạm trù khác nhau của logic biện
chứng cùng với các quy luật và chúng đã tạo thành một hệ thống thống nhất .

Hạt nhân phép biện chứng của Hêghen là tư tưởng về sự phát triển, bởi ông
quan niệm phép biện chứng “nói chung là nguyên tắc cảu mọi vận động, mọi sự
sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng còn là linh hồn
của mọi nhận thức khoa học chân chính”.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


22

Hệ thống triết học của Hêghen gồm ba phần: logic học, triết học về tự nhiên
và triết học về tinh thần. Nếu như quan niệm phép biện chứng là khoahọc về mối
liên hệ phổ biến và sự phát triển thì phép biện chứng của Hêghen thể hiện rõ nhất
trong phần logic học học thuyết về các quy luật phổ biến của vận động và phát
triển, về các nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi cái đang tồn tại. Lần đầu
tiên, trong phép biện chứng Hêghen, một hệ thống phạm trù được nghiên cứu
một cách toàn diện, các quy luật biện chứng được rút ra từ việc phân tích sự tác
động qua lại giữa các phạm trù. Ông đã nêu lên nhiều cặp phạm trù cơ bản như
“tồn tại” “không tồn tại” , “bản chất” hiện tượng”. Ông không chỉ nêu ra , nghiên
cứu mà còn phân tích tỉ mỉ sự đối lập tương đối, sự thống nhất và mâu thuẫn của
những cặp phạm trù đó. Ông còn chỉ ra các quy luật cơ bản của mối liên hệ và sự
phát triển: “quy luật lượng đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “quy luật phủ
định của phủ định”, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Như
vậy, ông đã phác họa ra một bức tranh phát triển của các phạm trù sự vận động
và chuyển biến lẫn nhau giữa chúng,… đã khám phá ra, hình thành và luận
chứng các quy luật chung nhất về sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Tuy nhiên, là một nhà triết học duy tâm, Hêghen coi tất cả những quy luật đó chỉ
là quy luật vận động phát triển tư duy của khái niệm, phép biện chứng của
Hêghen là phép biện chứng về sự phát triển của các khái niệm được ông đồng
nhất với bản chất cảu sự vật. Do đó, khi kế thừa phép biện chứng của Hêghen,

các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác luôn phải lật nó lại theo tinh thần duy vật để cso
cái nhìn đúng đắn và toàn diện về thực tại khách quan.
Về nhận thức luận, theo Hêghen cũng như lịch sử tự nhiên và xã hội, tư duy
của con người cũng là một quá trình, luôn nằm trong sự vận động, biến đổi và
phát triển không ngừng. Chân lý không phải là một tập hợp những giáo điều sẵn
Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


23

có mà nó phải được hình thành từ trong quá trình nhận thức, trong trình độ phát
triển lâu dài của khoa học đang đi từ thấp đến cao. Tuy nhiên, chân lý cũng
không phải là tuyệt đối, nó cũng như mọi sự vật, không tồn tại ngoài quá trình
không ngừng của sự sinh thành, phát triển và tiêu vong của sự tiến triển vô cùng
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Học thuyết các phạm trù của Hêghen, không chỉ có ý nghĩa là lý luận về tồn
tại và phát triển. Hơn thế, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, ông đã tạo ra được
một lý luận biện chứng phát triển với tư cách là logic học và với tư cách là
phương pháp, đã hợp nhất phép biện chứng và logic học thành một quan niệm
thống nhất về logic học biện chứng,trong khuôn khổ của nó tư duy logic đã có
được bộ mặt của tri thức khách quan bằng phạm trù. Ông đã có nhiều đóng góp
làm sáng tỏ chức năng và phương pháp luận của phép biện chứng.
Tóm lại, dù chưa thoát khỏi cái vỏ duy tâm, thần bí, phép biện chứng Hêghen
vẫn là đỉnh cao của toàn bộ phép biện chứng trước mắt. Dù có phê phán, những
nhà sáng taoj chủ nghĩa Mác vẫn không thể không thừa nhận công lao của
Hêghen trong việc đẩy những tư tưởng biện chứng thành phép biện chứng như
một hệ thống hoàn chỉnh: “Tính thần bí mà phép biện chứng mắc phải ở trong
tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trỏ thành người đầu tiên trình
bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận động chung của phép biện
chứng ấy”. Ở giai đoạn sau của phép biện chứng duy tâm, Mác và Ănghen đã gạt

bỏ tính chất thần bí của nó, đã cải tạo nó bằng cách chứng minh rằng: Những ý
niệm trong đầu óc chúng ta chẳng qua chỉ là sự phản ánh của các sự vật hiện
thực, do đó, bản thân biện chứng của các ý niệm cũng chỉ là sự phản ánh biện
chứng của thế giới hiện thực chứ không phải là biện chứng của thế giới hiện thực
là sự phản ánh biện chứng của các ý niệm như Hêghen đã quan niệm. Làm như
Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


24

vậy, Mác và Ănghen đã đặt phép biện chứng của Hêghen từ chỗ trước kia “ đứng
bằng đầu” nay “ đứng bằng chân”, cải tạo phép biện chứng ấy từ duy tâm sang
duy vật, hình thành phép biện chứng duy vật- giai đoạn phát triển cao nhất của
sự phát triển triết học từ trước đến nay.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác không thể không
hiểu quá trình hình thành phát triển của tư tưởng biện chứng trong lịch sử triết
học Tây Âu từ thời cổ đại đến thế kỷ XIX.
Trong quá trình hình thành phép biện chứng duy vật, Mác và Ăngghen đã tiếp
thu dưới hình thức cải tạo và lý giải lại có tính phê phán tất cả những gì quý giá
mà toàn bộ sự phát triển của triết học đã tạo ra trong lịch sử. Không thể hiểu
được phép biện chứng đó nếu không tính đến những thành tựu mà các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại đã đạt được. Họ là những người đầu tiên thừa nhận sự tồn tại
của sự vật, hiện tượng thong qua những mối lien hệ, sự vận động, sự thay đổi và
chuyển hóa lẫn nhau. Nhưng do thế giới quan khoa học còn hạn chế, những tư
tưởng biện chứng trong thời kỳ này chỉ hình thành nên một phép biện chứng sơ
khai, ngây thơ, tự phát cơ bản là đúng nhưng chưa đạt đến kết quả của những
nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Đến thời đại phục hung thì nhiều học
thuyết triết học đã phục hồi phép biện chứng tự phát thời cổ đạivà khái quát
những thành tựu của khoa học tự nhiên tiên tiến.Nghiên cứu những vấn đề cơ

bản của triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng và cận đại giúp chúng ta hiểu được
lịch sử phát triển tư tưởng triết học trong thời kỳ này với tất cả những gì là tiến
bộ và hạn chế của nó, mà đến nay vẫn chưa mất tính thời sự, có them cơ sở để
hiểu sâu sắc và đúng đắnn hơn triết học Mác xít. Và rồi đến triết học cổ điển Đức

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


25

thì khôi phục lại truyền thống phép biện chứng, bước chuyển từ chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, tiên nghiệm của Can tơ đến chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hê
ghen; phê phán phép siêu hình truyền thống “lý tính”; chú ý đến vấn đề triết học
lịch sử. Cantơ, Hê ghen có vai trò rất lớn, góp phần làm cho triết học cổ điển
Đức trở thành một tiên đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. C. Mác và Ph. Ăng ghen. Toàn tập – NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995
[2]. Đại cương triết học Việt Nam -PGS.TS Nguyễn Hùng Hậu - Nhà xuất bản
Thuận Hóa
[3]. Giáo trình lịch sử kinh tế - Nhà xuất bản thống kê.

Học viên Lã Thị Ngọ - Cao học toán K16 ĐHSP Hà Nội 2


×