Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và tác động của nó đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa bàn quân khu VII hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 176 trang )

BỘ QUỐC PHÕNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGỌ VĂN DUY

Đề tài:CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÕNG TOÀN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU VII HIỆN NAY

HÀ NỘI - 2010


BỘ QUỐC PHÕNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGỌ VĂN DUY

Đề tài:CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÕNG TOÀN DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN QUÂN KHU VII HIỆN NAY

Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số

: 62 31 01 01

HÀ NỘI - 2010



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của ®Ò tµi
Sau hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cùng với sự
phát triển của nền kinh tế, DNNN cũng từng bước được đổi mới và dần dần khẳng
định là bộ phận cấu thành quan trọng của thành phần KTNN, góp phần quan trọng
để KTNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trước yêu
cầu của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau, một bộ phận không nhỏ DNNN đã không
chuyển mình kịp để đáp ứng yêu cầu mới đặt ra, bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém cả
về hiệu quả SXKD, sức cạnh tranh tại thị trường trong nước và quốc tế, làm hạn
chế vai trò chủ đạo của KTNN đặc biệt là trong việc góp phần ổn định và điều tiết
nền kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Để phù hợp với sự vận động của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đồng thời cũng là để tháo gỡ những khó khăn, hạn chế nhằm phát huy
mạnh mẽ hơn nữa vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế, trong những năm
qua, DNNN đã được sắp xếp, đổi mới để nâng cao hiệu quả SXKD với một loạt
các giải pháp trong đó có giải pháp CPH. Cổ phần hoá DNNN trong thời gian vừa
qua về cơ bản đã bám sát và thực hiện đúng mục đích, yêu cầu do các Nghị quyết
của Đảng đề ra là cơ cấu lại DNNN, giảm những DNNN quy mô quá nhỏ, kinh
doanh thua lỗ, ở những lĩnh vực không nhất thiết phải có, để tập trung phát triển
các DN lớn ở các lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế; hình thành loại
hình DN đa sở hữu, thu hút các nguồn vốn xã hội vào phát triển kinh tế, có cơ chế
quản lý năng động, hiệu quả hơn. Hầu hết các DNNN sau CPH đều có tốc độ
tăng trưởng cao, hoạt động kinh doanh có hiệu quả (quy mô vốn, tỷ xuất lợi
nhuận, thu nhập của người lao động, đóng góp cho ngân sách nhà nước đều tăng).
Tuy nhiªn, cổ phần hoá DNNN vừa qua thực hiện còn chậm và gặp không ít khó


khăn. Trong quá trình CPH, việc xác định giá trị DN thời kỳ đầu, khi chưa đấu

giá giá trị DN còn sơ hở, chưa tính đúng, tính đủ giá trị thương hiệu, lợi thế kinh
doanh và nhất là chưa xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất để đưa vào giá trị
DN, làm thất thoát tài sản nhà nước, làm giàu cho một số cá nhân, gây bức xúc
trong xã hội. Đồng thời, quá trình CPH cũng làm xuất hiện những vấn đề mới
trên các lĩnh vực của đời sống KT - XH tác động đến việc xây dựng nền QPTD
và sự nghiệp BVTQ. Bên cạnh đó, việc huy động các nguồn lực cho thực hiện
nhiệm vụ xây dựng nền QPTD của các DNNN sau CPH cũng như thực trạng giải
quyết mối quan hệ này trên phạm vi cả nước cũng như ở địa bàn Quân khu VII
trên thực tế còn nhiều bất cập.
Quân khu VII là địa bàn có nhiều địa phương đi đầu và đạt được những kết
quả quan trọng trong việc thực hiện CPH doanh nghiệp nhà nước ngay từ khi có
chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề CPH. Đồng thời, Quân khu VII
cũng là một trong những địa bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh trong chiến
lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đây cũng là địa bàn hội tụ những vấn đề
nổi bật cả về CPH doanh nghiệp nhà nước và xây dựng nền QPTD.
Vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra là tiếp tục làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về
CPH doanh nghiệp nhà nước, về mối quan hệ giữa CPH doanh nghiệp nhà nước với xây
dựng nền QPTD và thực trạng của vấn đề này nói chung cũng như trên địa bàn Quân khu
VII nói riêng, từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để phát huy những tác
động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của CPH và sau cổ phần hoá DNNN đến
xây dựng nền QPTD trên địa bàn. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước và tác động của nó đến xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên địa
bàn quân khu VII hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích:
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn CPH doanh nghiệp nhà nước
và tác động của nó đến xây dựng nền QPTD; Trên cơ sở đó xem xét những tác động của


CPH doanh nghiệp nhà nước và đề xuất quan điểm, giải pháp góp phần thúc đẩy quá

trình CPH doanh nghiệp nhà nước và phát huy những tác động tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực từ kết quả CPH đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu VII
thời gian tới.
* Nhiệm vụ
- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về CPH doanh nghiệp nhà
nước và tác động của nó đến xây dựng nền QPTD.
- Trên cơ sở những vấn đề chung đó, phân tích rõ thực trạng CPH doanh
nghiệp nhà nước và tác động của CPH doanh nghiệp nhà nước đến xây dựng nền
QPTD trên địa bàn Quân khu VII.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình
CPH doanh nghiệp nhà nước và phát huy những tác động tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực từ CPH đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu VII.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề kinh tế và quốc phòng của quá
trình CPH doanh nghiệp nhà nước tại địa bàn Quân khu VII, và tác động hai chiều
của quá trình đó đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu.
Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Xây dựng nền QPTD ở Việt Nam có nội dung
rộng lớn và phong phú, nhưng luận án đi vào nghiên cứu những tác động của CPH
doanh nghiệp nhà nước đến xây dựng lực lượng (cả hiện hữu và tiềm tàng) và một
bộ phận của nội dung cấu thành thế trận QPTD đó là tác động của CPH doanh
nghiệp nhà nước đến xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) và phòng
thủ dân sự trên địa bàn Quân khu VII. Thời gian khảo sát là từ năm 1992.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp luận nghiên cứu
Cơ sở lý luận: luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CPH, về xây
dựng nền QPTD; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ
Quốc phòng, của Đảng uỷ Quân khu VII, qui định của lãnh đạo và chính quyền
các tỉnh trên địa bàn Quân khu có liên quan đến nội dung luận án.



Cơ sở thực tiễn: từ thực trạng CPH doanh nghiệp nhà nước và những tác
động của nó đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn Quân khu; tác giả nghiên cứu,
khảo sát thực tế ở một số DNNN trên địa bàn, tham khảo các thông tin, số liệu ở
một số công trình khoa học đã được công bố.
Phương pháp luận nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp đặc thù của kinh tế
chính trị Mác - Lênin; Trên cơ sở đó sử dụng các phương pháp đặc thù của kinh tế
chính trị và KTQS Mác - Lênin; kết hợp phương pháp lôgíc và lịch sử, trừu tượng
hoá khoa học, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, và một số phương pháp khác
đang được sử dụng trong nghiên cứu kinh tế.
5. Đóng góp mới của luận án
- Chỉ ra nội dung tác động của quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước đến
xây dựng nền QPTD nói chung, từ đó đánh giá thực trạng tác động trên địa bàn
Quân khu VII.
- Xác định quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm vừa thúc đẩy CPH doanh
nghiệp nhà nước diễn ra theo đúng quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, vừa phát huy những tác động tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực
từ CPH, sau CPH doanh nghiệp nhà nước đến xây dựng nền QPTD trên địa bàn
Quân khu VII.
6. Ý nghĩa của luận án
Những kết quả của luận án được rút ra từ nghiên cứu tại một địa bàn cụ thể
(Quân khu VII), nhưng sẽ góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn
về CPH doanh nghiệp nhà nước và tác động của nó đến xây dựng nền QPTD của
nước ta nói chung trong điều kiện hiện nay.
Luận ¸n có thể làm tài liệu tuyên truyền hoặc tham khảo trong nghiên cứu
và giảng dạy môn kinh tế chính trị, KTQS trong các nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Gồm phần mở đầu; Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài;
3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục các công trình của tác giả đã công bố có
liên quan đến đề tài; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.



TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Một số tài liệu nghiên cứu nước ngoài về cổ phần hoá
Cổ phần hoá và các vấn đề liên quan đến CPH trong lịch sử và hiện tại đã
và đang được nhiều học giả thuộc các nhà tư tưởng tư sản và vô sản quan tâm
nghiên cứu. Do những giới hạn về điều kiện xã hội - lịch sử, các nhà nghiên cứu
trong lịch sử chưa có điều kiện để bàn về hiện tượng CPH, nhưng cũng được chứng
kiến sự xuất hiện của các CTCP trong quá trình phát triển của CNTB nên đã có sự
phân tích tương đối sâu sắc về hiện tượng ra đời và địa vị lịch sử của các CTCP
trong nền kinh tế TBCN. Mặc dù, ở thời kỳ CNTB tự do cạnh tranh, sự xuất hiện
của các CTCP không phải là hệ quả của quá trình CPH các công ty tư bản nhà nước
mà là sự thành lập các CTCP từ các tư bản cá biệt làm cho tư bản mang tính chất tư
bản xã hội ở những mức độ khác nhau.
Trong điều kiện CNTB đã phát triển thành CNTB hiện đại, trong nền kinh
tế TBCN, đã xuất hiện sở hữu nhà nước - nhân tố tiền đề làm xuất hiện hiện tượng
CPH doanh nghiệp nhà nước trong xã hội tư bản. Hiện tượng kinh tế này trở thành
đề tài nghiên cứu cho nhiều học giả tư sản. Khi trong đời sống kinh tế thế giới
xuất hiện các mô hình KTTT trong các nền kinh tế chuyển đổi, ở các nước XHCN
đã thường xuất hiện những bài viết về CPH trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
theo mô hình KTTT. Trong các công trình nghiên cứu đó đáng chú ý là một số
công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc: “Công cuộc vận động công ty
hoá ở Trung Quốc: một sự đánh giá và những hệ quả về chính sách” của TIAN
ZHU - Trường đại học Khoa học và Kinh tế Hồng Kông (Viện Nghiên cứu quản
lý Kinh tế Trung ương). Ở công trình này, tác giả đánh giá cuộc vận động công ty
hoá ở Trung Quốc dựa trên những vấn đề hiện tại của khu vực KTNN, để đưa ra
hiện trạng về những vấn đề về bộ máy quản lý ngày càng xấu đi, sức ép về phúc
lợi quá lớn cũng như cạnh tranh ngày càng tăng là những nhân tố góp phần làm
cho khu vực DNNN ở Trung Quốc ngày càng thua lỗ; mặc dù việc xã hội hoá sức
ép về phúc lợi xã hội có thể cải thiện sự lành mạnh về tài chính của các DNNN,



nhưng cuộc vận động công ty hoá trên quy mô lớn nếu không có các điều kiện cơ
bản về thể chế đi kèm thì tự bản thân nó không thể xử lý được vấn đề một cách cơ
bản đó là bộ máy quản lý. Tác giả đưa ra kết luận rằng, điều kiện quan trọng hàng
đầu để tái cơ cấu thành công khu vực DNNN là phải có sự chuyển đổi cơ bản về
sở hữu nhà nước và tạo lập bộ máy quản lý có hiệu quả, điều đó dẫn đến việc đòi
hỏi phải phát triển các thể chế định hướng thị trường của quốc gia, đặc biệt là các
thị trường tài chính và hệ thống pháp luật.
“Tìm tòi việc thí điểm cải cách chế độ cổ phần” của Lý Trường Hải; Nhân dân
nhật báo ngày 4/4/1994 (Học viện Chính trị - quân sự). Trong bài viết này, tác giả đưa ra
câu hỏi: làm thế nào để các xí nghiệp quốc doanh có thể chuyển đổi cơ chế kinh doanh
về cơ bản. Theo tác giả, theo đuổi mục tiêu xây dựng chế độ xã hội hiện đại mà Đảng
Cộng sản Trung Quốc xác định cải cách xí nghiệp một cách sâu sắc mà chế độ CTCP
(dụng ý chỉ sự cần thiết phải CPH) là hình thức tổ chức chủ yếu của chế độ xã hội hiện
đại; xí nghiệp quốc doanh thực hiện chế độ cổ phần nhằm tới mục đích: bảo đảm chắc
chắn nguồn vốn và gia tăng giá trị tài sản nhà nước; củng cố địa vị chủ thể của chế độ
công hữu, phát huy tốt hơn tác dụng chủ đạo của kinh tế quốc doanh (DNNN). Quá
trình thực hiện cải tổ kinh tế quốc doanh theo chế độ cổ phần trước hết phải làm tốt
công tác bình xét đánh giá tài sản quốc hữu, không để thất thoát tài sản quốc hữu. Tác
giả cũng chỉ ra: cải tổ chế độ cổ phần với xí nghiệp quốc doanh đã dẫn tới những biến
đổi sâu sắc là: 1) Chuyển biến tác phong kinh doanh của DN; 2) Đổi mới quan điểm, tư
tưởng của đội ngũ công nhân; 3) Hoàn thiện hơn nữa chế độ quản lý xí nghiệp; 4) Mở
rộng không gian kinh doanh của xí nghiệp.
“Những vấn đề khó khăn và viễn cảnh của công cuộc cải cách xí nghiệp quốc
doanh ở Trung Quốc” của tác giả Trịnh Phúc Viên; đăng trên Tạp chí nghiên cứu
“Trung công” (Đài Loan) số 9/1995. Trong đó tác giả đã phân tích những tệ nạn kéo
dài lâu ngày trong quá trình cải cách, hoàn cảnh khó khăn gặp phải và những sách
lược đổi mới của xí nghiệp quốc doanh ở Trung Quốc. Theo bài viết, việc chuyển đổi
các xí nghiệp quốc doanh thành CTCP bảo đảm: 1) Các công ty sản xuất các sản phẩm



đặc biệt và các xí nghiệp quốc phòng nên do một mình nhà nước đầu tư kinh doanh; 2)
Những xí nghiệp cốt cán trong các ngành trụ cột và ngành cơ sở nhà nước phải khống
chế cổ phần và thu hút vốn tham gia cổ phần của các lực lượng ngoài quốc doanh; 3)
Các CTCP hữu hạn trên thị trường chỉ chiếm số ít và nhà nước tăng cường kiểm soát;
4) Các tổng công ty ngành nghề có tính chất toàn quốc phải từng bước cải tổ thành các
công ty khống chế cổ phần.
Đáng chú ý tác giả chỉ ra quá trình CPH ở Trung Quốc đang gặp 4 trở
ngại lớn đó là: sự thâm căn cố đế của quan niệm truyền thống; chức năng của
chính quyền không dễ thay đổi; sự tồn tại của lực lượng lao động dôi thừa quá
lớn; không có cách nào để giải quyết món nợ khổng lồ.
2. Các công trình khoa học trong nước nghiên cứu về cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước
Trong những năm qua, ở trong nước đã có nhiều công trình liên quan đến
CPH doanh nghiệp nhà nước được in thành sách chuyên khảo hoặc đăng trên các
báo và tạp chí như:
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: kinh nghiệm thế giới”, của Hoàng
Đức Tảo, Nguyễn Tiến Sơn, Ngô Xuân Bình. Sách do Nhà xuất bản Thống kê,
xuất bản năm 1993. Ở công trình khoa học này, các tác giả đã trình bày nội dung
căn bản của việc chuyển đổi sở hữu các DNNN, nét đặc trưng của hiện trạng kinh
tế quốc doanh các nước; mục tiêu, nguyên tắc, điều kiện và hình thức chuyển hoá
sở hữu, kinh nghiệm chuyển hoá sở hữu ở các nước trên thế giới. Trong đó, tác giả
làm rõ mục tiêu của việc chuyển đổi sở hữu đó là: 1) Nhanh chóng hình thành các
DN ngoài quốc doanh, tạo ra các chủ thể kinh doanh khác nhau trên thị trường, thu
hẹp và xoá bỏ tình trạng độc quyền của DNNN. 2) Thúc đẩy nâng cao hiệu quả
kinh doanh của từng DN và toàn bộ nền kinh tế. 3) Bằng cách chuyển hoá sở hữu
DNNN, buộc phải chuyển gần hết chức năng quản lý cho chủ sở hữu mà lâu nay bộ
máy nhà nước vẫn phải đảm đương. Về điều kiện để chuyển đổi sở hữu, tác giả nêu
ra: Sớm tạo ra cơ sở pháp lý và cơ sở phương pháp luận cho việc chuyển hoá sở



hữu DNNN; Phải xác lập chương trình tiến hành bao gồm những công việc chủ yếu
như phân loại tài sản và DNNN theo qui mô và xác định tỷ trọng chuyển đổi sở
hữu trong từng loại; Có sự quyết tâm cao của chính phủ và có sự thông hiểu của
quần chúng. Về hình thức chuyển đổi theo tác giả đó là: Bán trọn gói; Thuê khoán
và CPH, trong đó CPH được tiến hành rộng rãi hơn và có nhiều ưu điểm.
“Khu vực kinh tế quốc doanh ở các nước đang phát triển” do Đỗ Đức Định
chủ biên. Sách do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản năm 1990. Ở công
trình này, tác giả đã phản ánh được những mặt chủ yếu về lý luận và thực tiễn liên
quan đến thực trạng và giải pháp đối với khu vực kinh tế quốc doanh ở các nước
đang phát triển, đặc biệt là các khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn
Quốc, Thái Lan…tác giả cũng chỉ ra một số kinh nghiệm nước ngoài, tổng kết
những bài học và kinh nghiệm của các nước đồng thời phân tích thực trạng và
giải pháp đổi mới xí nghiệp quốc doanh ở nước ta; qua đó nêu ra một số đề xuất
bổ ích vào việc tìm kiếm giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp
quốc doanh ở nước ta trong đó có vấn đề CPH.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - những vấn đề lý luận và thực tiễn”
do PGS, TS Lê Hồng Hạnh chủ biên. Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn
hành năm 2004. Ở công trình khoa học này tác giả phản ánh tình hình DNNN ở các
quốc gia và xu thế cải cách DNNN, những vấn đề lý luận và thực tiễn về DNNN ở
Việt Nam, về CPH doanh nghiệp nhà nước, hoàn thiện nền tảng pháp lý cho CPH
doanh nghiệp nhà nước. Khi luận giải về lý luận và thực tiễn CPH doanh nghiệp
nhà nước, tác giả đã đi sâu phân tích những tác động của CPH doanh nghiệp nhà
nước: Một là, CPH có tác động làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng
hơn. Vì vậy, nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu trong DNNN vốn gây ra
những vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng động trong SXKD; Hai là, CPH có
tác dụng trong việc xã hội hoá tư liệu sản xuất trong các DN có sở hữu một chủ.
Như vậy, các thực thể kinh tế vĩ mô cũng trở nên đa dạng sở hữu như bản thân nền
kinh tế vĩ mô. Điều này tạo sự tương thích nhất định của các giải pháp quản lý vĩ



mô và vi mô; Ba là, CPH tạo cho những người lao động cơ hội thực sự làm chủ
DN nếu như người lao động mong muốn. Tác giả chỉ rõ, bằng việc sở hữu cổ phần,
người lao động có thể tham gia vào quản lý DN từ đó nâng cao tính chủ động, tích
cực của người lao động không chỉ đối với các vấn đề của DN mà đối với các vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Phân tích về những tác động của quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam, tác giả còn chỉ rõ những tác động của CPH đối với tăng trưởng kinh
tế và đối với vấn đề dân chủ hoá đời sống kinh tế và chống tham nhũng; tác
động đến các vấn đề xã hội và thúc đẩy phát triển TTCK.
Tuy nhiên, các tác giả mới chỉ phân tích những tác động của CPH doanh
nghiệp nhà nước trên bình diện KT - XH chứ không phân tích tác động của CPH
doanh nghiệp nhà nước đến các lĩnh vực khác trong đó có lĩnh vực quốc phòng
và an ninh.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nghiên cứu và vận dụng” của tác
giả Phạm Ngọc Côn. Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm
2001. Trong công trình này, tác giả đã trình bày tổng quan về cải cách DNNN
và về CTCP; tình hình CPH doanh nghiệp nhà nước trên thế giới và ở Việt
Nam; công nghệ chuyển đổi DNNN thành CTCP.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng trong công ty cổ phần” của các tác giả Phí Văn Chỉ, Đào Ngọc Long,
Phùng Anh Tuấn. Sách do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2000.
Các tác giả đã trình bày khái niệm về CPH doanh nghiệp nhà nước và sự tất yếu
khách quan của nó trong nền KTTT; kinh nghiệm CPH của một số nước trong
khu vực và trên thế giới; CPH ở Việt Nam, vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng trong các CTCP có vốn nhà nước.
Ở loại hình các bài báo khoa học, đã có một số lượng khá nhiều các bài
báo viết về CPH ở các khía cạnh khác nhau như: “CPH doanh nghiệp nhà nước
trong thập kỷ 90 - thành công và tồn tại ” của Nguyễn Hữu Đạt và Nguyễn Văn



Thạo, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 286 tháng 2/2002. “CPH doanh nghiệp nhà
nước ở Đồng Nai - thực trạng và giải pháp” của Phạm Văn Sáng, Tạp chí Kinh
tế và Dự báo số 1/2003. “Đẩy mạnh CPH và xây dựng CTCP trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Chơn Trung, Tạp chí Cộng sản số 20, tháng
10/2004. “CPH doanh nghiệp nhà nước với việc huy động và phát huy các
nguồn lực” của Đỗ Bình Dương, Tạp chí Cộng sản số 8 tháng 4 /2006. “CPH
doanh nghiệp nhà nước với người lao động và vai trò của công đoàn” của
Đặng Ngọc Chiến, Tạp chí Cộng sản số 14 tháng 7/2006. “Thách thức và triển
vọng đối với DNNN khi chuyển sang hoạt động theo luật doanh nghiệp (năm
2005)” của Hồ Xuân Hùng, Tạp chí Cộng sản số 13 tháng 7/2006. “CPH doanh
nghiệp nhà nước ở Đồng bằng sông Cửu Long: thực trạng và giải pháp” của
Trương Đông Lộc, Nguyễn Văn Ngân, Nguyễn Thị Diệu, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế số 371 tháng 10/2004. “CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam: mấy
vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản tháng
11/2004. “CPH doanh nghiệp nhà nước: 15 năm nhìn lại” của Phạm Quang
Huấn, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 333 tháng 2/2006. “Để CPH không trở
thành tư nhân hoá về vận dụng phương pháp định giá trị doanh nghiệp khi
CPH” của Châu Oanh, Tạp chí Tài chính số 5/2007. “CPH doanh nghiêp nhà
nước - mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Quang Cận, Tạp chí Cộng sản số
785 tháng 3/2008. “CPH, cải cách DNNN tăng tốc trong điều kiện mới” của
Nguyễn Duy Long, Tạp chí Tài chính tháng 5/2008. “Nâng cao chất lượng và
sớm hoàn thành nhiệm vụ CPH doanh nghiệp nhà nước” của Đặng Văn Thanh,
Tạp chí Thông tin và dự báo KT - XH số 30 tháng 6/2008.
Nhìn chung ở các bài báo khoa học này, các tác giả đều khẳng định vai trò
quan trọng của CPH doanh nghiệp nhà nước, chỉ ra thực trạng, những hạn chế, khó
khăn trong tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay như: tiến độ
CPH còn chậm, chưa đạt yêu cầu, nhất là CPH doanh nghiệp có qui mô lớn; đối
tượng CPH, đối tượng được mua cổ phần còn hạn hẹp, phương thức bán cổ phần



chưa thực sự phù hợp; qui định về qui trình CPH còn rườm rà, phức tạp, chưa phù
hợp với thực tế; cơ chế vận hành và chất lượng quản lý doanh nghiệp CPH chưa thực
sự đổi mới; tình trạng thất thoát và lãng phí vốn, tài sản của Nhà nước trong và sau
quá trình CPH…Tiếp tục nêu ra chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
CPH, đồng thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để thúc đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hoá DNNN trong thời gian tiếp theo như: cần nâng cao và thống nhất nhận thức
về chủ trương, quan điểm; chỉ đạo kiên quyết đề cao trách nhiệm trong quá trình thực
hiện CPH doanh nghiệp nhà nước; đơn giản hoá các thủ tục hành chính liên quan
đến quá trình CPH; ban hành mới và hoàn thiện các cơ chế quản lý tài chính đối với
DN sau khi chuyển thành CTCP; trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện cần
tăng cường sự phối hợp, kiểm tra, giám sát giữa các bộ, ngành, các địa phương trong
việc triển khai lộ trình CPH. Song các tác giả cũng chỉ phân tích thuần tuý về mặt
kinh tế mà không đề cập đến mối quan hệ gắn kết giữa CPH doanh nghiệp nhà nước
với xây dựng nền QPTD.
Về mảng tác động của CPH đến củng cố quốc phòng, trong thời gian qua,
đã có nhiều nghị quyết, công trình khoa học, bài viết nghiên cứu được công bố.
Trong đó đề cập tác động nhiều chiều của quá trình phát triển kinh tế đến lĩnh vực
quốc phòng, đáng chú ý như: Quyết định số 339/QĐ - TTg Phê duyệt phương án
sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc Bộ Quốc phòng giai
đoạn 2008 -2010 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị quyết số 71 của Đảng uỷ Quân
sự Trung ương về “nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế của Quân đội trong thời
kỳ mới - tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
quân đội” cũng đề cập đến chủ trương chuyển hướng các hoạt động sản xuất, xây
dựng kinh tế của các đơn vị trong toàn quân nhằm tập trung cho yêu cầu huấn
luyện và xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ và từng
bước hiện đại. Riêng đối với các doanh nghiệp quân đội, cần căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ và vị trí đứng chân để sắp xếp lại theo hướng tập trung về qui mô,
nâng cao trình độ công nghệ, đa dạng và lưỡng dụng hoá sản phẩm công nghệ



nhằm nuôi dưỡng, phát triển tiềm lực công nghiệp quốc phòng và KHCN quân
sự; dần dần hình thành và phát triển khu Kinh tế - quốc phòng dọc theo chiều dài
biên giới của Tổ quốc.
Dưới góc độ luận án, luận văn liên quan đến vấn đề CPH; CPH và tác
động của nó đến củng cố quốc phòng đã có một số đề tài được thực hiện.Trong
đó đáng chú ý là:
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam”, luận án tiến sỹ kinh
tế của tác giả Nguyễn Thị Thơm (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1999). Ở công trình này đã nghiên cứu và tổng kết khá công phu về lý luận và
thực tiễn CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên
cứu chung về CPH doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn đầu của tiến trình xắp
sếp, chuyển đổi DNNN. Do vậy cũng chưa thể đánh giá hết được những vấn đề
hạn chế, phức tạp liên quan đến CPH nhất là về sau này khi lộ trình CPH được
đẩy mạnh và tiến hành rộng rãi.
“Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả tiến trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước”, luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Trần Hồng Thái
(Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - 2001). Tác giả đã trình bày lịch sử
hình thành phát triển của kinh tế cổ phần và tính quy luật của tiến trình phát
triển các loại hình DN. Nêu ra thực trạng các DNNN và những vấn đề đặt ra
cho tiến trình CPH một số DNNN như: đổi mới cơ chế, chính sách quản lý
DN quốc doanh theo cơ chế thị trường định hướng XHCN; hiệu quả hoạt
động SXKD của các DN quốc doanh trong quá trình đổi mới; những yếu kém
tồn tại và những nguyên nhân cơ bản làm cho DNNN hoạt động kém hiệu quả
trong đó có các vấn đề về tốc độ tăng trưởng và hiệu quả SXKD; vấn đề kỹ
thuật, công nghệ và việc làm, lao động dôi dư đang là áp lực đối với ngân
sách nhà nước. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất các nhóm giải pháp bao gồm:
nhóm giải pháp nhằm tăng cường vai trò điều tiết của nhà nước thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô và nhóm giải pháp liên quan đến DN nhằm thực hiện
có hiệu quả tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.



“Cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước trong ngành Giao thông
vận tải - Thực trạng và giải pháp”, luận án tiến sỹ kinh tế của Lê Văn Hội (Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 2003). Tác giả tập trung nghiên cứu các
vấn đề lý luận và thực tiễn của CPH các DNNN của ngành giao thông vận tải,
chủ yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thực hiện CPH; những vấn đề đặt
ra sau CPH doanh nghiệp nhà nước như: vấn đề quản trị DN; vấn đề lao động
dôi dư…chưa được tác giả đề cập.
“Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt
Nam trong giai đoạn đến năm 2010”, luận án tiến sỹ kinh tế của Đỗ Thị Hoài Phi
(Viện Kinh tế học - 2003). Luận án đánh giá thực trạng quá trình CPH doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam từ 1992 đến 2003 và kinh nghiệm CPH ở các nước
trên thế giới. Tác giả nêu ra những luận cứ khoa học để đẩy mạnh CPH doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam bao gồm những yêu cầu của việc đổi mới toàn diện
kinh tế đất nước; việc phát triển KTTT định hướng XHCN; yêu cầu của hội nhập
kinh tế quốc tế; yêu cầu của việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu qủa của
DNNN…Trên cơ sở đó, đề xuất hệ thống nhóm giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình
này bao gồm: phân loại DN và xây dựng lộ trình CPH; quyền, nghĩa vụ của DN và
người lao động khi DNNN được CPH; giải pháp các vấn đề về DN, và nhóm các
giải pháp hỗ trợ CPH và sau CPH.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Một trong những giải pháp quan
trọng để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường”, luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Đăng Liêm (Đại học kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh - 2003). Ở công trình khoa học này, tác giả trình bày một
số vấn đề lý luận về CTCP và CPH doanh nghiệp nhà nước. Nêu lên hiện trạng về
tổ chức quản lý và hoạt động SXKD của DNNN trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh. Đề ra các giải pháp cần thực hiện nhằm đẩy nhanh tiến độ CPH doanh
nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả SXKD ở Việt Nam. Có nhiều vấn đề nghiên
cứu được tác giả nêu lên rất đáng chú ý đối với việc thực hiện chủ trương CPH

doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới.


“Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nước trong công nghiệp Việt Nam”, luận án tiến sỹ kinh tế của Hoàng Kim
Nguyên. (Trường Đại học kinh tế quôc dân Hà Nội - 2003). Theo tác giả, CPH
doanh nghiệp nhà nước là một hướng quan trọng của đổi mới DNNN; tác giả đánh
giá thực trạng tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ công nghiệp và
đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình đó. Ở công trình này, những số
liệu về thực trạng CPH doanh nghiệp nhà nước tuy chỉ giới hạn ở Bộ Công thương
nhưng có giá trị tham khảo rất thiết thực.
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về CPH và sau CPH doanh nghiệp
nhà nước ở Việt Nam”, luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Bùi Quốc Anh
(Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội - 2007). Ở công trình khoa học
này, tác giả đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của tiến trình
CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, chỉ ra những thành công, hạn chế
và nguyên nhân của những thành công và hạn chế đó. Thông qua phân tích
thực trạng của tiến trình CPH doanh nghiệp nhà nước trong ngành giao
thông vận tải, tác giả chỉ ra những vấn đề KT - XH đặt ra trước, trong và sau
CPH như: tồn tại tư tưởng bao cấp do cơ chế cũ để lại; những vấn đề sở hữu
của DN sau CPH; những vấn đề quản trị DN và điều hành DN; vấn đề phân
phối và lao động của DN sau CPH; vấn đề tổ chức đảng và các tổ chức đoàn
thể quần chúng trong các DN sau CPH. Từ đó đề xuất phương hướng và giải
pháp nhằm giải quyết những vấn đề hậu CPH ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu nêu trên tuy có đề cập đến nhiều vấn đề có
trong và sau CPH, tuy nhiên, mới chỉ đặt CPH doanh nghiệp nhà nước vào
đối tượng nghiên cứu của mình, nhưng không ai đặt tiếp vấn đề CPH, sau
CPH doanh nghiệp nhà nước với vấn đề xây dựng nền QPTD sẽ như thế nào.
Thực sự đây là một mảng trống, là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp
đòi hỏi phải có những công trình tiếp tục nghiên cứu.

Xung quanh mảng các vấn đề liên quan đến QP - AN, có các công trình:


“Xây dựng và phát triển kinh tế nhà nước với vấn đề bảo đảm kinh tế cho
quốc phòng ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sỹ kinh tế của tác giả Phan Trần
Đắc (Học viện Chính trị quân sự - 1996). Tác giả khái quát vai trò của KTNN
với bảo đảm kinh tế cho quốc phòng ở Việt Nam hiện nay, phân tích tác động
của quá trình tăng cường củng cố KTNN đối với nhiệm vụ nâng cao sức mạnh
của lực lượng vũ trang; phương hướng cơ bản xây dựng, phát triển KTNN và vai
trò trách nhiệm của quân đội đối với việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và
xây dựng KTNN. Tuy luận án mới chỉ đề cập khía cạnh DNNN chưa bàn về
CPH nhưng những vấn đề về quốc phòng luận án đề cập là rất hạn chế.
“Kết hợp kinh tế với quốc phòng ở nước ta hiện nay”, luận án tiến sỹ kinh tế của
tác giả Trần Trung Tín (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - 1998). Ở công trình
này, tác giả đã đề cập tương đối có hệ thống và toàn diện mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế
và quốc phòng trong giai đoạn hiện nay ở nước ta; chỉ rõ sự cần thiết, mục đích, nội dung
của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng; trên cơ sở phân tích thực trạng kết hợp kinh tế với
quốc phòng trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, trong
đó có bàn về sự tác động của các hoạt động kinh tế đến lĩnh vực quốc phòng; tác giả đã chỉ
ra nội dung đổi mới kết hợp kinh tế với quốc phòng trên cả góc độ hoạch định, thực thi
chính sách và phương thức hoạt động KT - XH, quân sự quốc phòng và một số yêu cầu,
giải pháp đặt ra nhằm nâng cao tính hiệu quả trong quá trình thực hiện cả hai nhiệm vụ xây
dựng và BVTQ. Luận án hoàn thành trước thời kỳ chủ trương CPH ở Việt Nam được triển
khai, những giá trị ở mảng quốc phòng sẽ giúp cho việc nghiên cứu về củng cố quốc
phòng liên quan CPH sẽ được sâu sắc hơn.
“Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và tác động của nó tới củng cố
tiềm lực quốc phòng ở Việt Nam hiện nay”, luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả
Phan Xuân Việt (Học viện Chính trị quân sự - 2005). Ở công trình khoa học này,
tác giả phân tích sự cần thiết, chỉ ra thực trạng, nguyên nhân và những hạn chế
của quá trình CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, đề ra những quan điểm

và giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình CPH, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và
củng cố tiềm lực quốc phòng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên,


tác giả chỉ giới hạn sự luận giải những tác động của CPH doanh nghiệp nhà nước
tới củng cố tiềm lực quốc phòng, chưa luận giải cơ sở khoa học xem xét sự tác
động, cũng như nội dung tác động của CPH doanh nghiệp nhà nước một cách
toàn diện đến xây dựng nền QPTD ở nước ta hiện nay; đồng thời mới đề xuất
một số quan điểm và giải pháp đề thúc đẩy nhanh quá trình CPH doanh nghiệp
nhà nước chứ chưa có những giải pháp để khai thác tiềm lực của DNNN sau
CPH đối với xây dựng nền QPTD nói chung.
Liên quan đến vấn đề kinh tế và quốc phòng trên địa bàn Quân khu VII có
một số luận án, luận văn đề cập đến một số lĩnh vực đó là:
“Phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và tác động của nó đối với
xây dựng tiềm lực quốc phòng trên địa bàn Quân khu VII”, luận án tiến sĩ kinh
tế của tác giả Cấn Văn Lực (Học viện Chính trị quân sự - 2007). Ở đây tác giả
luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển vùng kinh tế trọng điểm,
phân tích những tác động của quá trình phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía
Nam đến xây dựng tiềm lực quốc phòng trên địa bàn quân khu VII, chỉ ra những
vấn đề mới nảy sinh trong sự tác động đó, đồng thời đề xuất những quan điểm cơ
bản và giải pháp chủ yếu nhằm gắn kết hai quá trình đó. Ở công trình khoa học
này, có thể kế thừa được một số nội dung khái quát về đặc điểm tình hình KT XH, vị trí chiến lược của địa bàn quân khu VII. Góc độ kinh tế của luận án là
vấn đề ở một vùng kinh tế trọng điểm, khía cạnh quốc phòng gắn với địa bàn
Quân khu VII nên có giá trị tham khảo trực tiếp.
“Phát triển các khu công nghiệp tập trung trên địa bàn Đồng Nai và tác
động của nó đến xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh”, luận văn thạc sĩ kinh tế của
Nguyễn Đức Phượng (Học viện Chính trị quân sự - 2000). Tác giả khẳng định vai
trò quan trọng của khu công nghiệp tập trung trong phát triển ngành công nghiệp
nói riêng và phát triển kinh tế nói chung trong thu hút đầu tư, đẩy mạnh sản xuất
góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tiếp thu vốn, khoa học công nghệ,

trình độ quản lý. Trên cơ sở đó tác giả khẳng định các khu công nghiệp tập trung ở
Đồng Nai đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế trong thực hiện


đường lối đổi mới và tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đồng thời các khu
công nghiệp tập trung cũng tác động lớn đến qúa trình xây dựng và tăng cường sức
mạnh của các khu vực phòng thủ tỉnh Đồng Nai.
“Phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và tác động của nó
tới củng cố quốc phòng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai” (Học viện Chính trị quân sự 2004), luận văn thạc sỹ kinh tế của Trần Hoàng Trình. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý
luận của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, khẳng định sự tồn tại, phát
triển của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm đổi mới
vừa qua, vai trò ngày càng quan trọng không thể thiếu nhằm đẩy mạnh tốc độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng
có hiệu quả. Từ lý luận về thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, tác giả đã
phân tích sự tác động của thành phần kinh tế này đối với củng cố quốc phòng trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai ở hai khía cạnh: tích cực và không tích cực…
Tương tự như cách đặt vấn đề của các luận án, hai công trình trên đây của
các tác giả đã bàn trực tiếp đến khía cạnh quân sự ở tỉnh Đồng Nai nên có nhiều
tư liệu có giá trị để tác giả tham khảo trực tiếp.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan về mối quan hệ giữa
kinh tế và quốc phòng. Tuy nhiên, cho đến nay, ở trong nước và nước ngoài
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện về CPH
doanh nghiệp nhà nước theo hướng quá trình xem xét đó được đặt trong khuôn
khổ những tác động của quá trình đó (đặc biệt là sau CPH) đến xây dựng nền
QPTD trên địa bàn Quân khu VII. Vì vậy, đề tài luận án là một công trình khoa
học nghiên cứu độc lập, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Mặc dù luận án có
kế thừa một số kết qủa nghiên cứu của một số tác giả nhưng không trùng lắp với
bất kỳ một công trình khoa học nào đã được công bố.



Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CƠ BẢN VỀ CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN XÂY
DỰNG NỀN QUỐC PHÕNG TOÀN DÂN
1.1. Những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nƣớc
1.1.1. Cổ phần hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
1.1.1.1. Cổ phần hoá
Cổ phần hoá là một hiện tượng kinh tế xuất hiện trong quá trình phát triển
của CNTB mà thực chất của nó là việc xã hội hoá TLSX vốn thuộc sở hữu của các
chủ tư bản cá biệt thành sở hữu mang tính xã hội (hay dưới dạng tập thể các nhà tư
bản trong đó có một bộ phận được thực hiện dưới hình thức các CTCP- các công ty
thuộc sở hữu nhà nước). Cũng là hình thái CTCP nhưng có hai con đường dẫn đến
sự ra đời của các công ty này. Một là, các CTCP ra đời từ việc biến các công ty
thuộc sở hữu tư nhân thành các CTCP; Hai là, CPH các công ty thuộc sở hữu nhà
nước tư bản thành các CTCP. Đối với sự hình thành các CTCP thuộc con đường
thứ nhất có nguyên nhân là từ sự phát triển, qui mô tích tụ và tập trung tư bản
ngày càng được mở rộng của nền kinh tế TBCN. Nó diễn ra cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí, trong giai đoạn tự do cạnh
tranh của CNTB. Trong nền sản xuất hàng hoá TBCN, qui luật giá trị tác động
mạnh mẽ gây nên sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản, buộc họ phải
cải tiến và nâng cao trình độ kỹ thuật, công nghệ, năng suất lao động và giảm
chi phí sản xuất nhằm tăng lợi nhuận cá biệt, hạ giá thành sản phẩm tạo thế
mạnh trong cạnh tranh và tạo lập sự độc quyền. Song, điều này chỉ có những
tư bản cá biệt lớn, có qui mô sản xuất nhất định mới có đủ khả năng thực hiện
việc trang bị kỹ thuật hiện đại, làm tăng năng suất lao động mới chiếm được
ưu thế trong cạnh tranh; những nhà tư bản nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao
hơn giá trị xã hội của hàng hoá sẽ bị phá sản. Để không bị phá sản, các tư bản



cá biệt nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở rộng qui mô sản xuất và hạ giá thành sản
phẩm. Đây là việc làm hết sức khó khăn và đòi hỏi thời gian dài. Vì vậy, các
tư bản cá biệt nhỏ có thể liên kết với nhau, tập trung tư bản riêng lẻ của họ
thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh và giành ưu thế với các tư bản khác.
Từ hình thức tập trung vốn như vậy, các CTCP dần dần hình thành và phát
triển rộng rãi…Trong nền KTTT, công ty cổ phần ra đời vừa là sự điều chỉnh
cục bộ mối quan hệ sản xuất TBCN, vừa là kết quả tất yếu của sự phát triển
về xã hội hoá sản xuất. Do yêu cầu của việc mở rộng quy mô sản xuất, đổi
mới công nghệ, yêu cầu tập trung những nguồn vốn lớn, trong khi nguồn vốn
xã hội dành cho hoạt động SXKD được lưu thông trong toàn xã hội, cả trong
các tầng lớp dân cư. Những người lao động có tài sản họ có thể tham gia đầu
tư, sở hữu cổ phiếu, còn đa phần các DN cổ phần cũng tham gia TTCK, và tuỳ
thuộc vào diễn biến của thị trường này mà có sự thay đổi về chủ sở hữu, trong
đó có thể có cả hình thức sở hữu chi phối của DN. Vì vậy, từ quá trình này đã
dần hình thành những CTCP.
C.Mác đã đi sâu phân tích những ảnh hưởng của quá trình sản xuất TBCN,
so sánh công ty cổ phần TBCN với nhà máy hợp tác của người công nhân và đánh
giá cao vai trò của các CTCP đối với quá trình này và khẳng định sự ra đời của
các CTCP là một bước tiến của LLSX. Song Ông cũng chỉ ra rằng quá trình này
đã phát sinh ra một loại ăn bám mới - quí tộc tài chính mới và cả hệ thống lừa đảo,
bịp bợm về việc sáng lập, phát hành, buôn bán cổ phiếu.
Công ty cổ phần ra đời là sự thủ tiêu các tư bản cá biệt, biến các tư bản cá biệt
thành các tư bản mang tính xã hội - một sự phát triển của quá trình xã hội hoá sản
xuất của CNTB. Theo C.Mác, dưới chủ nghĩa tư bản, CTCP ra đời là sự thủ tiêu
phương thức sản xuất cũ, vừa là tiền đề để phát triển CNTB và suy cho cùng CTCP
ra đời, dẫn đến sự ra đời của chế độ độc quyền và đưa đến sự can thiệp của nhà nước
tư sản vào quá trình kinh tế. Sự ra đời của các CTCP trong phương thức sản xuất
TBCN đã làm cho chức năng tư bản tách rời với quyền sở hữu về tư liệu sản xuất.
Tiền công lao động của người quản lý được thu về dưới hình thái lợi tức.



Đến lượt nó sau khi xuất hiện, CTCP đã trở thành tiền đề thủ tiêu
CNTB. Đó là xuất hiện tính chất xã hội trong chế độ sở hữu tư nhân trong
khuôn khổ của phương thức sản xuất TBCN: “CTCP cũng là điểm quá độ để
biến tất cả những chức năng của quá tình tái sản xuất hiện còn gắn liền với
quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản
xuất liên hiệp, tức là thành chức năng xã hội”[53, tr.668], hay “Xí nghiệp cổ
phần TBCN cũng như những nhà máy hợp tác, đều phải được coi là những
hình thái quá độ từ phương thức sản xuất TBCN sang phương thức tập
thể”[53, tr.673]. Như vậy, thực chất của quá trình ra đời và phát triển các
CTCP là sản xuất tư nhân nhưng không còn có sự kiểm soát của quyền sở hữu
tư nhân của những tư bản cá biệt. Tiền đề tiến tới sở hữu xã hội “Cùng với sự
phát triển của nền sản xuất xã hội, những TLSX này sẽ không còn làm tư liệu
và sản phẩm của nền sản xuất tư nhân nữa, mà sẽ chỉ có thể làm TLSX trong
tay những người sản xuất liên hiệp, tức là chỉ có thể làm sở hữu xã hội của họ,
cũng như chúng là sản phẩm xã hội của họ ”[53, tr.672].
Cũng theo C.Mác, chính bản thân những CP của công nhân đã làm
cho xí nghiệp tư bản mang dáng vẻ như là một loại nhà máy hợp tác, và đây
chính là một lỗ thủng đầu tiên trong hình thái kinh tế TBCN. Sự đối kháng
giữa lao động làm thuê và chủ tư bản đã được xoá bỏ trong phạm vi những
nhà máy hợp tác đó; mặc dầu ban đầu nó chỉ được xoá bỏ bằng cách biến
những người lao động liên hiệp thành “nhà tư bản” với chính bản thân
mình, nghĩa là họ “có thể dùng tư liệu sản xuất để bóc lột lao động của
chính họ” [53, tr.673].
Còn đối với các CTCP với tư cách là sản phẩm của quá trình CPH
một bộ phận doanh nghiệp nhà nước - vấn đề đang được bàn luận ở đây,
sau khi được "lột xác" chúng có sự khác nhau nhất định về đặc điểm hoạt
động so với các loại hình doanh nghiệp khác (trước hết là DNNN) đang tồn
tại trong nền kinh tế, đó là:



Thứ nhất, nếu như DNNN, bộ máy quản lý DN được cấu thành từ
những cán bộ trong biên chế và việc bổ nhiệm bởi các quyết định của các
cơ quan quản lý chuyên ngành hoặc cơ quan quản lý của nhà nước thì khi
chuyển sang CTCP, (xét về lý thuyết) chế độ bổ nhiệm đã nhường chỗ cho
chế độ bầu hoặc chế độ thuê cán bộ quản lý DN kể cả giám đốc DN. Bộ
máy quản lý gọn nhẹ, cơ chế quản lý năng động. Sự thay đổi này đã tạo ra
sự biến đổi cơ bản và toàn diện các hoạt động quản lý của DN sau CPH.
Thứ hai, khi chuyển thành CTCP nó giải quyết triệt để tình trạng
thiếu vốn “kinh niên” ở các DNNN, bởi xét trên phương diện vốn, CPH là
chuyển sở hữu nhà nước về vốn của DNNN thành sở hữu về vốn của các cổ
đông trong các CTCP. Chính nhờ những ưu thế trong huy động vốn mà
CTCP có điều kiện thuận lợi hơn trong việc hiện đại hóa trang thiết bị và
công nghệ một cách nhanh chóng, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển
và mở rộng SXKD.
Thứ ba, Quá trình CPH - việc chuyển một bộ phận DNNN thành
CTCP là quá trình chuyển đổi nội dung tổ chức và quản lý DN từ mô hình
này sang mô hình khác. Với ưu thế trong tổ chức bộ máy, mô hình DN ,
quản lý nhân sự, quản lý các hoạt động SXKD, các CTCP - sản phẩm của
DNNN sau CPH, là tạo ra cơ chế vận hành mới của doanh nghiệp, là tạo ra
điệu kiện cho sự xuất hiện động lực mới cho các hoạt động của mình như:
CTCP hoạt động theo luật công ty, trong đó đại hội cổ đông có quyền quyết
định phương hướng hoạt động của DN cũng như giám sát các hoạt động
của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành; người lao động đồng thời là
cổ đông có quyền yêu cầu lãnh đạo DN công khai trước đại hội những vấn
đề về nguyên tắc thu, chi tài chính của DN, về hiệu quả SXKD…
1.1.1.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Nếu CPH nói chung đề cập đến việc thành lập các CTCP là từ sở hữu tư
nhân và cả từ sở hữu nhà nước thì CPH doanh nghiệp nhà nước chỉ đề cập đến



việc biến các DN thuộc sở hữu nhà nước của nền kinh tế TBCN và cả trong nền
kinh tế chuyển đổi ở các nước XHCN thành sở hữu cổ phần. Với cách đặt vấn đề
như vậy, có thể thấy CPH doanh nghiệp nhà nước là xu hướng có tính chất phổ
biến ở nhiều quốc gia (kể cả các nước tư bản và các nước XHCN) có nền kinh tế
chuyển đổi theo mô hình KTTT với mục tiêu khắc phục những hạn chế, yếu kém
của khu vực KTNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Thực chất của quá
trình này là nhằm chuyển đổi hình thức sở hữu của DN sang hình thức sở hữu
hỗn hợp giữa các cổ đông là tư nhân, pháp nhân; giữa tư nhân với nhà nước.
Loại hình các CTCP ra đời từ con đường thứ hai là quá trình nhà
nước tư sản chuyển các công ty thuộc sở hữu của mình thành các CTCP
theo hình thức CPH. Theo C.Mác, với mục đích để tăng thêm quy mô sản
xuất của chúng, thì các xí nghiệp của các nhà nước tư sản cũng có thể trở
thành các CTCP. Bởi vì, bằng việc CPH các DN thuộc sở hữu nhà nước,
CTCP ra đời đã làm cho quy mô sản xuất có thể được tăng lên, mở rộng
một cách to lớn, mà bản thân những tư bản riêng lẻ không thể làm được.
Sau cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, V.I.Lênin đã viết nhiều tác
phẩm nhưng hầu như không đề cập đến hình thức của CTCP. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới (NEP), V.I.Lênin đề cập nhiều đến
CNTB nhà nước và sự vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga
lúc bấy giờ mà về bản chất một DN liên doanh giữa nhà nước với tư bản thì
về hình thức nó là CTCP. Theo V.I.Lênin, CNTB nhà nước như mắt xích
trung gian để chuyển nền kinh tế hàng hoá của những người sản xuất nhỏ lên
chủ nghĩa xã hội, là chính sách để phát triển đại công nghiệp và củng cố liên
minh công nông trên cơ sở mới. V.I.Lênin chỉ rõ: CNTB nhà nước theo khái
niệm hẹp có thể coi như một thành phần kinh tế, có hình thức rõ rệt và tồn tại
như một thực thể của nền kinh tế bao gồm tất cả những tổ chức kinh tế hình
thành trên cơ sở hợp tác liên doanh cùng đầu tư của tư bản trong nước hoặc
nước ngoài với cơ sở kinh tế quân đội hoặc với nhà nước. Nhà nước can thiệp
trực tiếp vào điều tiết, kiểm soát các hoạt động SXKD của các tổ chức này



thông qua đại diện của mình trong đó. Tuy nhiên, theo V.I.Lênin để có thể
kiểm soát và chi phối được các cổ đông khác trong các xí nghiệp của thành
phần kinh tế CNTB nhà nước thì nhà nước Xô - Viết chỉ cần nắm giữ khoảng
25% cổ phần. Như vậy, về mặt lịch sử CTCP xuất hiện là bước “quá độ” từ
hình thức sở hữu tư nhân lên hình thức sở hữu tập thể của các cổ đông.
Như vậy, CPH là một hình thức, một hoạt động của các chủ sở hữu nhằm
biến các sở hữu tư nhân hoặc sở hữu nhà nước thành những sự kiện ít nhiều có
tích chất xã hội để làm tăng khả năng sinh lợi của các TLSX trước những tác động
khách quan mà qui luật QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX và của quá
trình cạnh tranh giành giật lợi nhuận trong nền kinh tế TBCN. Các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác - Lênin đánh giá tính tích cực của quá trình này, coi sự xuất hiện
CTCP là kết quả của quá trình phát triển LLSX và là bước tiến từ sở hữu tư nhân
lên sở hữu tập thể của các cổ đông.
Như thế CPH doanh nghiệp nhà nước nhìn tổng quát nhất, có hai loại hình:
CPH doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu tư bản và CPH doanh nghiệp nhà nước
thuộc sở hữu nhà nước XHCN. Đối với vấn đề được bàn luận trong luận án này,
trọng tâm được đề cập là CPH doanh nghiệp nhà nước các nền kinh tế thuộc các
nước XHCN trước đây nay thực hiện cải cách, đổi mới, chuyển sang mô hình kinh
tế theo định hướng XHCN hoặc KTTT định hướng XHCN.
Chẳng hạn, ở Trung Quốc, mục đích căn bản của việc thực hiện chế độ cổ
phần là thay đổi chế độ sở hữu tài sản mà ở đó trước đây, nhà nước luôn giữ vai trò
độc quyền, để hình thành nên kết cấu đa dạng về quyền sở hữu tài sản trong nội bộ
DN, tối ưu hoá kết cấu quản trị DN. Đây là lợi ích căn bản và lâu dài nhất của việc
CPH các DNNN ở Trung Quốc theo nhận định của Hội nghị TW 3 khoá XVI Đảng
Cộng sản Trung Quốc (năm 2004), chế độ cổ phần đã được thực hiện rộng rãi “là
hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”. Thông qua CPH đã tạo ra
những điều kiện mới thuận lợi hơn cho các DN chuyển đổi phương thức quản lý,
chuyển đổi phương hướng SXKD nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của DN, tăng



×