Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5 6 tuổi thông qua thí nghiệm khám phá thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.03 MB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển để hội nhập với thế giới.
Mặc dù nước ta đã và đang có nhiều thành tựu lớn về kinh tế, chính trị, xã
hội…nhưng chúng ta vẫn phải đứng trước những thách thức không hề nhỏ.
Để chúng ta không bị tụt hậu so với thế giới thì cần có những con người có
năng lực và phẩm chất tốt. Xã hội ngày càng văn minh hiện đại đòi hỏi con
người cần phải tích cực chủ động, sáng tạo, thích ứng nhanh với những điều
mới và biết cách giải quyết chúng những điều kiện sống nhất định để tồn tại
và phát triển.
Con người muốn sống mà có ích cho xã hội thì cần có những phẩm chất
cần thiết như: tích cực, chủ động, tự lập, sáng tạo…. Trong đó, tự lập là một
trong những đức tính rất quan trọng mà con người không thể thiếu trong xã
hội hiện đại và phát triển như ngày nay. Một con người tự lập thì sẽ chủ động
làm tất cả mọi việc và rất dễ dàng đi đến thành công.
Để hình thành và phát triển tính tự lập cho trẻ thì nhà trường cần trang
bị những kiến thức, kĩ năng, phương pháp… giúp kích thích hình thành tính
tự lập cho trẻ. Tính tự lập của con người cần được hình thành ngay từ sớm và
càng được hình thành sớm bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Chính vì vậy,
trường mầm non chính là nơi gieo mầm thuận lợi để hình thành tính tự lập
cho trẻ và các giáo viên mầm non chính là người trực tiếp giúp trẻ phát triển
tính tự lập.
Ở trường mầm non, tính tự lập của trẻ được hình thành trong hầu hết tất
cả các hoạt động của trẻ như hoạt động chơi, hoạt động tự phục vụ, hoạt động
học như khám phá MTXQ, tạo hình, thể chất…Trong quá trình KPMTXQ, thí
nghiệm là hoạt động thường hấp dẫn trẻ vì nó thỏa mãn tính tò mò, ham hiểu
biết của trẻ, đồng thời, thí nghiệm rất có ưu thế trong việc phát triển tính tự
1


1


lập cho trẻ (trẻ tự mình chuẩn bị đồ làm thí nghiệm, trẻ tự mình tiến hành,
khám phá thí nghiệm…). Để tiến hành thí nghiệm cần có rất nhiều dụng cụ,
đồ dùng làm thí nghiệm. Điều này kích thích trẻ chủ động trong quá trình
chuẩn bị thí nghiệm.
Thí nghiệm giúp cho trẻ có khả năng tìm tòi, khám phá tính chất bên
trong của đối tượng. Nếu người lớn, đặc biệt là các giáo viên mầm non biết
cách hướng dẫn, tổ chức thí nghiệm một cách khoa học thì quá trình khám
phá ấy sẽ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Thông qua thí
nghiệm sẽ kích thích phát triển tính tự lập cho trẻ. Nhưng thí nghiệm là
phương pháp chưa được áp dụng phổ biến ở các trường mầm non hiện nay.
Hiện nay, các giáo viên mầm non đã bắt đầu quan tâm tới việc hình
thành tính tự lập cho trẻ trong các hoạt động. Họ khuyến khích để trẻ tự làm
và tôn trọng những quyết định của trẻ. Và các giáo viên cũng đã bắt đầu học
hỏi những kinh nghiệm để phát triển tính tự lập cho trẻ. Tuy nhiên điều này
còn rất hạn chế (về cách xây dựng môi trường hoạt động, cách tổ chức hoạt
động, các phương pháp…) sao cho phát triển tính tự lập cho trẻ. Mặc dù, thí
nghiệm rất có ưu thế trong việc phát triển tính tự lập cho trẻ nhưng các giáo
viên chưa trú trọng nhiều đến vấn đền này.
Khám phá thế giới thực vật là một nội dung không thể thiếu của hoạt
động cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Khám phá thế giới thực
vật giúp cho việc tổ chức làm thí nghiệm đem lại hiệu quả rất cao. Thí nghiệm
khám phá thực vật có nhiều ưu thế, dễ dàng để kích thích tính tự lập ở trẻ.
Nhưng để phát triển được tính tự lập cho trẻ không phải là chuyện dễ dàng. Vì
vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi
thông qua thí nghiệm khám phá thực vật”.
2


2


2.

Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài “Biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 56 tuổi ở trường mầm non thông qua thí nghiệm khám phá thực vật” nhằm mục
đích nâng cao mức độ phát triển tính tự lập cho trẻ, tạo nền tảng cho việc phát
triển những tính cách và năng lực cần thiết cho trẻ, chuẩn bị cho trẻ đến
trường phổ thông và cuộc sống sau này.

3.1.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: quá trình phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi ở

3.2.

trường mầm non.
Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi

3.

4.

thông qua thí nghiệm khám phá thực vật.
Giả thuyết khoa học
Nếu sử dụng các biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ dựa trên việc
tận dụng ưu thế của quá trình tổ chức thí nghiệm khám phá thực vật và thỏa
mãn được nhu cầu nhận thức của trẻ 5-6 tuổi thì mức độ phát triển tính tự lập

cho trẻ sẽ được nâng cao.

5.1.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc phát triển tính tự lập cho trẻ 5-

5.2.

6 tuổi thông qua thí nghiệm khám phá thực vật.
Đề xuất biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua thí nghiệm

5.3.

khám phá thực vật.
Thực nghiệm biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua thí

6.1.

nghiệm khám phá thực vật ở trường MN.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lí luận

5.

6.

Chúng tôi đọc, phân tích và tổng hợp các tài liệu có liên quan đến đặc
điểm phát triển tính tự lập thông qua thí nghiệm khám phá thực vật để xây
dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu của mình.

6.2.
6.2.1.

Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra

3

3


Chúng tôi sử dụng phiếu điều tra (anket) đối với giáo viên để tìm hiểu
nhận thức, biện pháp, kinh nghiệm, khó khăn của giáo viên trong việc phát
triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua thí nghiệm khám phá thực vật.
6.2.2.

Phương pháp quan sát
Chúng tôi tiến hành quan sát trẻ 5- 6 tuổi trong các hoạt động và sinh
hoạt hàng ngày của trẻ để làm rõ các biểu hiện tính tự lập của trẻ và mức độ
hình thành tính tự lập của chúng.
Chúng tôi quan sát giáo viên trong quá trình các hoạt động hàng ngày
nói chung và tổ chức thí nghiệm nói riêng nhằm làm rõ cách thức tổ chức hoạt
động của giáo viên và đặc biệt là biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ.

6.2.3.

Phương pháp đàm thoại
Chúng tôi tiến hành trò chuyện với trẻ để qua đó bước đầu làm quen
với tính cách trẻ và tìm hiểu kinh nghiệm của trẻ về việc khám phá thực vật
cũng như khả năng tự lập của trẻ 5- 6 tuổi trong quá trình tham gia vào thí

nghiệm khám phá thực vật.
Chúng tôi tiến hành đàm thoại với giáo viên để biết được cách thức tổ
chức thí nghiệm của giáo viên và sự quan tâm của họ về việc phát triển tính tự
lập cho trẻ.

6.2.4.

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Chúng tôi tiến hành tổng kết kinh nghiệm của giáo viên mầm non về
việc sử dụng các biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua
thí nghiệm khám phá thực vật.

6.2.5.

Phương pháp thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm những biện pháp đã đề xuất ở lớp mẫu
giáo lớn trường mầm non Thành Công đề kiểm chứng các biện pháp thực
nghiệm đã đề xuất.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm trên 50 trẻ 5- 6 tuổi trường mầm non
Thành Công
4

4


6.2.6.

7.

Phương pháp toán thống kê

Chúng tôi tiến hành xử lý những số liệu thu thập được bằng công thức
toán thống kê.
Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi giới hạn đề đề tài nghiên cứu của mình như sau:
Giới hạn về nội dung

7.1.

Nghiên cứu biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua
thí nghiệm khám phá thực vật trong suốt thời gian diễn ra chủ đề: “thế giới
thực vật”.
Giới hạn về thời gian và địa điểm nghiên cứu

7.2.

Thời gian nghiên cứu là 6 tháng và địa điểm nghiên cứu là trường mầm
non Thành Công và trường mầm non Quang Minh
8.

Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận cho biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ
5- 6 tuổi thông qua thí nghiệm khám phá thực vật.
- Làm rõ thực trạng biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi
thông qua thí nghiệm khám phá thực vật.
- Đề xuất biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua thí
nghiệm khám phá thực vật.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN


5

5


TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ 5- 6 TUỔI THÔNG QUA THÍ NGHIỆM
KHÁM PHÁ THỰC VẬT
1.
1.1.

Cơ sở lý luận của việc phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi thông qua
thí nghiệm khám phá thực vật.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Trên thế giới
Hiện nay trên thế giới đã và đang có rất nhiều công trình nghiên cứu về
tính tự lập của con người. Một số nhà tâm lí học đã có đóng góp to lớn cho
nền giáo dục nhờ vào việc nghiên cứu về tính tự lập của con người.
Xu hướng 1: Nghiên cứu về tính tự lập và việc hình thành tính tự lập
Có rất nhiều nhà tâm lí học nổi tiếng trên thế giới cho rằng tự lập là
một phẩm chất tổng hợp của nhân cách như: A.G Côvaliôp, A.A Xmiecnôp,
N.Đ Levitop…. Họ cho rằng tự lập có cấu trúc vô cùng phức tạp. Nó gắn liền
với hoạt động ý chí của cá nhân. Nếu cá nhân tích cực hoạt động và có sự nỗ
lực cao sẽ hình thành được khả năng tự lập. Tự lập có quan hệ mật thiết với
những quá trình tâm lý như: tư duy, tưởng tưởng, sáng tạo, chú ý, ghi nhớ…
Các quá trình tâm lý được diến ra một cách tích cực thì lẽ tất nhiên tự lập
cũng được hình thành một cách dễ dàng và tích cực.
Nhà tâm lí học L.A Vengher, K. K Platonop hay S. L Rubinxtein cho
rằng tự lập giống như năng lực hoạt động của con người. Rubinxetein khi
nghiên cứu về tự lập thì coi nó như khả năng lựa chọn hành vi. Cá nhân cần
biết mình phải làm gì và nên làm gì để giải quyết tình huống đặt ra. Nếu con

người có tính tự lập cao thì việc lựa chọn hành vi sẽ dễ dàng và nhanh chóng
hơn rất nhiều. Còn K. K Platonop thì cho rằng tự lập là khả năng tự điều
khiển và tích cực của cá nhân không cần sự trợ giúp từ bên ngoài. Con người
có khả năng tự lập sẽ biết đưa ra kế hoạch hợp lý, tự biết điều khiển bản thân
mình để giải quyết tình huống đưa ra một cách tốt nhất mà không cần tới sự
6

6


giúp đỡ của người khác. Những nghiên cứu này giúp ích rất nhiều cho nền
giáo dục, đặc biệt là giáo dục mầm non. Hệ thống giáo dục nhận thấy được
hiệu quả tối ưu khi con người có tính tự lập. Từ đó, họ đưa ra mục tiêu phát
triển tính tự lập ngay từ nhỏ cho trẻ.
Bên cạnh đó một số nhà tâm lí cho rằng tự lập là phẩm chất ý chí của
nhân cách như: B. G. Ananhiep, T. I Galine…Những tác giả này coi tự lập là
khả năng của bản thân, bản thân biết cố gắng để giải quyết những tình huống
theo hướng tích cực. Con người có ý thức sẽ biết cách thích nghi cao với môi
trường xã hội. Cá nhân có tính tự lập sẽ có những sáng kiến riêng của bản
thân. Với ý chí và nỗ lực cao, cá nhân sẽ lập được kế hoạch và giải quyết
được bất cứ nhiệm vụ nào. Họ sẽ luôn tin tưởng vào bản thân, không nhụt chí
trước mọi khó khăn, họ biết lượng sức mình để đưa ra những ý tưởng giải
quyết nhiệm vụ một cách phù hợp. Tuy nhiên những nhà tâm lí này không
quên sự ảnh hưởng từ môi trường sống đến việc hình thành khả năng tự lập
của con người. Ngay từ nhỏ, trẻ được sống trong môi trường tự lập và được
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển tính tụ lập sẽ dễ dàng hình thành được
tính tự lập cho bản thân. Ngược lại nếu bé sống trong môi trường được người
khác nuông chiều, cái gì cũng dựa dẫm và ỷ lại vào người khác thì việc có ý
chí hành động và khả năng tự lâp rất khó có thể có được. Chính vì vậy, từ
những quan điểm của các nhà tâm lí này mà người lớn cần tạo môi trường

thuận lợi để giúp trẻ dễ dàng hình thành khả năng tự lập cho bản thân.
Xu hướng 2: nghiên cứu về sự hình thành và phát triển tính tự lập cho
trẻ mầm non
Trên thế giới có nhiều những phương pháp giúp bé hình thành khả năng
tự lập thông qua việc trải nghiệm như: phương pháp Montessori, phương pháp
dạy con theo kiểu nhật…Montessori cho rằng trẻ cần hình thành tính tự lập
trước tuổi lên ba. Chính vì vậy, bà đã sáng chế ra bộ học cụ vô cùng hữu hiệu
7

7


để giúp bé tự trải nghiệm, khám phá. Thông qua đó, khả năng tự lập của bé
cũng được nâng cao. Bé được học theo phương pháp này sẽ biết mình cần
phải làm gì và luôn nỗ lực để tự giải quyết nhiệm vụ. Còn các bé người Nhật
được học những kĩ năng tự phục vụ ngay từ nhỏ. Chúng ta có thể nhìn thấy
những em bé nhỏ xíu người Nhật tự mang cơm đến trường, tự xúc ăn, tự mặc
quần áo…mà không cần sự giúp đỡ của cha mẹ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
về phương pháp hình thành khả năng tự lập cho bé thông qua thí nghiệm vẫn
chưa được mọi người đề cập và biết đến nhiều.
Theo các công trình nghiên cứu của T. I Ganhenlin, E.I. Đimitriev…
thì tình tự lập của con người xuất hiện ngay từ lứa tuổi mầm non. Họ đều cho
rằng tự lập được hình thành cùng với sự hình thành ý thức và phầm chất nhân
cách của trẻ và tự lập đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển nhân cách trẻ
Với các tác giả như L.I Laplan, T.I Godina, K. Đ. Usinxki, M.N
Acxaria… lại khẳng định lao động đóng vai trò quan trọng đối với ciệc hình
thành và phát triển tính tự lập của trẻ. Trẻ cần được lao động với những nhiệm
vụ phù hợp, vừa sức với mình sẽ góp phần phát triển tính tự lập ở trẻ
Tác giả A.A.Liublinxkaia cho rằng tính tự lập là sản phẩm tuân theo

những yêu cầu của người lớn, vừa là sản phẩm sáng kiến riêng của trẻ, phát
triển qua ba giai đoạn trên cơ sở của sự hình thành kỹ năng- thói quen.
Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng tính tự lập cũng như những phẩm
chất nhân cách khác của trẻ không tự nhiên sinh ra mà có mà nó được xuất hiện,
hình thành và phát triển dưới sự tác động và giáo dục của người lớn.
1.1.2. Ở Việt Nam

8

8


Ở Việt Nam, nhà tâm lí học Hồ Ngọc Đại cũng có những nghiên cứu về
tính tự lập của con người. Ông cũng giống như một số nhà tâm lí học nổi
tiếng trên thế giới cho rằng tính tự lập gắn liền với các quá trình tâm lí và tự
lập được hình thành trong quá trình hoạt động của bản thân.
Một số nhà tâm lí học và giáo dục học của Việt Nam cũng cho rằng tính
tự lập được xuất hiện rất sớm. Chính vì vậy, ngay từ giai đoạn mầm non gia
đình và nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với nhau để hình thành tính tự lập
cho trẻ. Người lớn cần đưa ra kế hoạch cụ thể để có những biện pháp giúp trẻ
hình thành khả năng tự lập góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
Nguyễn Hồng Thuận nghiên cứu các biện pháp tác động của gia
đình nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ 5 -6 tuổi [34]. Tác giả đã khẳng
định rằng con đường để hình thành tính tự lập cho trẻ là thực hành trải
nghiệm và lao động. Trẻ cần được thực hành trải nghiệm nhiều thì sẽ dễ
dàng hình thành tính tự lập.
Nguyễn Thị Vinh nghiên cứu về việc tổ chức môi trường nhằm phát
triển tính tự lập có trẻ 5- 6 tuổi ở trưởng mầm non [43]. Tác giả đề cập rất
nhiều tới sự ảnh hưởng của môi trường tới khả năng phát triển tính tự lập cho
trẻ. Tác giả cho rằng môi trường là một trong những nhân tố quyết định tới sự

phát triển tính tự lập ở trẻ.
Nguyễn Thị Ngọc Bích đề cập tới vấn đề giáo dục tính tự lập cho trẻ 45 tuổi ở các trường mầm non trên địa bàn quận Cầu Giấy [3]. Tác giả chủ yếu
trú trọng nghiên cứu những trẻ trên địa bàn quận Cầu Giấy. Từ đó đưa ra
những biện pháp phù hợp nhằm giáo dục tính tự lập cho trẻ trên địa bàn quận
Cầu Giấy.
Tác giả Lê Thị Huyên đưa ra một số biện pháp tổ chức trò chơi đóng
vai có chủ đề nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi [12]. Tác giả cho
rằng trẻ 5- 6 tuổi là giai đoạn cần thiết, có ý nghĩa to lớn dễ dàng thích nghi
9

9


với môi trường và điều kiện mới. Chính vì vậy, nếu trẻ ở lứa tuổi được trang
bị đầy đủ về khả năng tự lập sẽ tạo cho trẻ một nền tảng nhân cách vững vàng
đề trở thành người tự tin, độc lập, năng động và sáng tạo trong cuộc sống sau
này. Lê Thị Huyên dựa vào trò chơi đóng vai có chủ đề là trò chơi chủ đạo
của trẻ 5- 6 tuổi để đưa ra biện pháp phát triển tính tự lập cho trẻ.
Có thể nói có rất nhiều tác giả đã đưa ra những công trình nghiên cứu
nhằm phát triển tính tự lập cho trẻ. Những công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước đã đề cập tới rất nhiều những phương pháp nhằm phát triển tính tự
lập như tạo môi trường thích hợp, sử dụng trò chơi có chủ đề, phối hợp với
gia đình.... Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới việc phát
triển tính tự lập cho trẻ thông qua thí nghiệm. Vì vậy, dựa vào kết quả nghiên
cứu cả trong nước và ngoài nước kể trên, chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm
phát triển tính tự lập cho trẻ một cách tối ưu nhất giúp trẻ tự tin, độc lập và
phát triển hoàn thiện nhân cách.
1.2.
1.2.1.


Tính tự lập và vai trò của tính tự lập đối với sự phát triển nhân cách trẻ
5- 6 tuổi
Khái niệm: “ tính tự lập”
Có rất nhiều các khái niệm khác nhau về tính tự lập:
Theo từ điển Hán- Việt thì tự lập giường như là tự mình vun trồng lấy
mà đứng lên được, không dựa dẫm vào ai.
Theo từ điển Tiếng Việt thì tự có nghĩa là chính mình, tự mình làm lấy.
Tự lập có nghĩa là tự lo gây dựng lấy không cầu cạnh nhờ vả ai. Tự lập là dựa
vào, tin vào khả năng và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân mình.
Theo từ điển Tâm Lý Học thì tự lập là một phẩm chất nhân cách của
con người xuất hiện trong sáng kiến phê bình, tự đánh giá bản thân một cách
tương ứng và tình cảm thể hiện trách nhiệm của cá nhân đối với hoạt động
hành vi của mình. Tự lập của cá nhân gắn liền với tư duy làm việc một cách
tích cực với tình cảm và ý chí cao.
P.P. Aristova định nghĩa tự lập như khả năng hoạt động của chủ thể
không có sự giúp đỡ của người khác.

10

10


Còn V.A. Puzanov thì lại coi tự lập là một khả năng tư duy và hoạt
động riêng vốn có của con người.
S.I. Zinvui thì lại cho rằng tự lập như một nét đặc trưng của nhân cách
được phản ánh trong khả năng tư duy và các dạng hoạt động khác trong hành
vi trong quá trình ứng xử.
Nhìn chung các tác giả đều cho rằng tự lập là phẩm chất nhân cách của
con người. Họ đều thống nhất rằng tự lập là tự bản thân của mình, không dựa
dẫm ỷ lại vào người khác. Người có tính tự lập sẽ luôn tự tin, chủ động trong

mọi hoạt động.
Tự lập là một cách sống của con người, tự làm lấy, tự suy nghĩ, tự
quyết định tương lai, số phận của mình mà không phụ thuộc vào quyết định ý
muốn của người khác, không ỷ vào sự trợ giúp của người khác để rải thảm
cho mình bước đi.
Về bản chất thì tính tự lập được hiểu là khả năng tự đề ra các mục tiêu,
kế hoạch hoạt động và tự giải quyết nhiệm vụ của hoạt động một cách tích
cực, chủ động và sáng tạo. Tính tự lập xuất hiện trong quá trình con người
tích cực tham gia các hoạt động và con người càng chủ động tham gia các
hoạt động thì tính tự lập càng được phát triển.
Dựa vào các quan niệm trên, trong nghiên cứu này chúng tôi quan
niệm khái niệm “TTL” như sau: “Tính tự lập là một phẩm chất của nhân
cách, được thể hiện ở khả năng tự đặt mục đích, nhiệm vụ, kế hoạch hành
động, tự điều khiển bản thân với sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực, tình cảm
và ý chí trong quá trình tự hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản
thân và mang ý nghĩa xã hội”.
1.2.2.

Quá trình hình thành tính tự lập của trẻ em
Tính tự lập của trẻ mẫu giáo là một phẩm chất nhân cách cá nhân được
hình thành trong quá trình hoạt động của trẻ với sự vật, con người trong môi
trường xung quanh. Tính tự lập được đặc trưng bởi khả năng trẻ tự định
hướng hoạt động, tự đề ra kế hoạch, tự lựa chọn phương tiện cách thức hoạt
11

11


động, tự đánh giá, kiểm tra bản thân…Với thái độ tích cực tự tin để thực hiện
đến cùng nhiệm vụ của mình mà không dựa dẫm ỷ lại vào người khác. Trẻ

càng tích cực tham gia các hoạt động thì trẻ càng tích cực và chủ động hơn
trong môi trường xung quanh.
Theo nhà giáo dục Montessori ở trẻ có những thời điểm nhạy cảm nhất
đình, thời điểm này là thời điểm mà trẻ luôn nhạy cảm với mọi thứ có trong
môi trường xung quanh. Bà gọi đó là “thời kỳ nhạy cảm”. Người lớn có thể
nhận thấy dấu hiệu của thời kỳ nhạy cảm của trẻ bằng việc quan sát những
đặc điểm của trẻ. Nếu trẻ có những dấu hiệu như: trẻ thể hiện mình muốn làm
gì? Trẻ rất có hứng thú với điều gì đó? Trẻ luôn tích cực tự giác, tìm tòi với
điều gì đó mà trẻ thích.... Và người lớn nên tận dụng cơ hội này để hình thành
tính tự lập cho trẻ.
* Ví dụ: có những đứa trẻ rất thích được gieo hạt và chăm sóc cây, có
những đứa trẻ lại thích được chăm sóc các con vật. Người lớn nên tận dụng cơ
hội này để tạo điều kiện cho trẻ được làm việc mình thích và phát triển tính tự
lập cho trẻ.
Quá trình hình thành tính tự lập đòi hỏi phải có thời gian lâu dài, không
phải ngày một ngày hai mà thành. Việc hình thành tính tự lập càng phải được
hình thành càng sớm càng tốt. Bởi vì cuối tuổi mẫu giáo về cơ bản nhân cách
của trẻ đã hoàn thiện. Nếu để qua giai đoạn tuổi mầm non thì việc hình thành



tính tự lập cho trẻ sẽ trở nên vất vả hơn rất nhiều.
Việc hình thành tính tự lập của trẻ 5- 6 tuổi diễn ra như sau:
Tính tự lập của trẻ bắt đầu được hình thành từ nhu cầu tự khẳng định mình
Trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ ở giai đoạn 5- 6 tuổi nói riêng có nhu
cầu tự khẳng định mình rất lớn. Lúc này, trẻ bắt đầu muốn tách mình ra khỏi
người khác. Ở giai đoạn này, trẻ hiểu được mình là người như thế nào, có
những phẩm chất gì? Những người xung quanh đối xử với mình ra sao và tại
sao mình lại có những hành động như vậy? Trẻ có khả năng tự đánh giá nhận
xét mình, trẻ biết mình thành công hay thất bại.

12

12


Trẻ 5- 6 có khả năng tự làm được hành động không cần sự giúp đỡ của
người khác. Trẻ có thể tự phục vụ và giúp đỡ người lớn trong một số công
việc sinh hoạt hàng ngày. Và trẻ rất muốn tự mình làm những công việc đó để
được khen. Người lớn nên tận dụng những lời khen của mình để kích thích


thích trẻ tích cực và chủ động thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Tự lập của trẻ được hình thành và phát triển thông qua việc rèn luyện thói
quen
Theo giáo trình tâm lí học đại cương thì thói quen mang tính chất nhu
cầu, nếp sống. Chính vì vậy, người lớn cần luôn tạo cho trẻ những nếp sống
tốt như: tự mình làm mọi việc, chủ động tích cực tham gia vào quá trình hoạt
động…Trẻ được hình thành những thói quen tốt thì trẻ rất dễ dàng có được
những phẩm chất và năng lực tốt.
Thói quen được hình thành bởi rất nhiều con đường khác nhau, có
những con đường là tự phát. Người lớn cần định hướng cho trẻ những thói
quen tốt, ngăn chặn những thói quen xấu tự phát.
Nhà giáo dục cần đưa ra mục tiêu rèn luyện thói quen tự lập cho trẻ
bằng nhiều phương pháp và cách thức khắc nhau để giúp trẻ hình thành và



phát triển tính tự lập ngay từ lứa tuổi mầm non.
Tính tự lập của trẻ được hình thành và phát triển nhờ sự có ý thức trong hành
động

Trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo đã có khả năng điều khiển hành vi của mình
sao cho phù hợp với những chuẩn mục và quy tắc xã hội. Trẻ thực hiện các
hành động đã có mục đích hơn, hành vi của trẻ cũng mang tính xã hội hơn.
Ở tuổi mẫu giáo lớn việc đặt mục đích cho hành động và lập kế hoạch
để thực hiện hành động thường được thể hiện rõ nét. Điều này thúc đẩy cho
các quá trình tâm lý phát triển mang tính chủ định rõ ràng. Có thể coi sự phát
triển về mặt ý chí là một trong những biểu hiện rõ nhất của ý thức, khiến cho
nhân cách của trẻ được khẳng định.
Ở giai đoạn này trẻ đã hiểu mình cần phải làm gì và tại sao mình cần phải
làm như vậy. Phần lớn trẻ đã hiểu những việc đúng thì nên làm còn việc gì sai thì
13

13


không nên làm. Trẻ tự ý thức được để thay đổi hành động của mình sao cho phù
hợp với yêu cầu của người lớn. Người lớn cần tận dụng cơ hội này để gieo vào
1.2.3.

trong trẻ sự tự lập, tích cực, chủ động và sáng tạo trong hoạt động.
Biểu hiện tính tự lập của trẻ 5- 6 tuổi
Biểu hiện của tự lập rất phong phú. Nó được thể hiện qua những hành
vi từ rất nhỏ cho đến những hành vi lớn lao. Một người nếu có ý thức tự lập
cao thì ngay từ nhỏ đã có khả năng tự phục vụ, tự giải quyết những nhiệm vụ
trong khả năng của mình mà không cần sự giúp đỡ của người lớn.
Chúng ta có thể nhận thấy những biểu hiện tính tự lập của trẻ 5- 6 tuổi



như sau:

Thứ nhất: Trẻ có khả năng chủ động thực hiện các hoạt động thường
ngày
Trẻ ở lứa tuổi 5- 6 tuổi có nhu cầu khẳng định mình rất lớn. Lúc này,
trẻ đã có khả năng tự mình làm những việc đơn giản để phục vụ lợi ích cho
mình và người khác như: trẻ có thể tự phục vụ, giúp đỡ người khác…
Giai đoạn này trẻ có kĩ năng tự phục vụ cho bản thân khá tốt. Trẻ có thể
tự làm những công việc của bản thân mình như: tự đi vệ sinh, tự mặc quần áo,
đi giày dép…Không chỉ những công việc của bản thân mà trẻ còn biết giúp đỡ
người lớn những công việc đơn giàn như tưới cây, lau nhà giúp bố mẹ hoặc
dọn lớp giúp cô…Những trẻ tự lập là những trẻ luôn chủ động, tích cực hoàn
thành những công việc hàng ngày của mình mà không cần phải sự nhắc nhở
của người lớn. Trẻ luôn có ý thức với việc của bản thân, không ỷ lại, dựa dẫm
vào người khác.
Giai đoạn cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu biết hành động có mục đích,
biết lập ra kế hoạch và cách giải quyết nhiệm vụ cho hành động của mình. Trẻ
có khả năng điều khiển bản thân và cố gắng vượt qua mọi khó khăn để tự giải



quyết nhiệm vụ của bản thân.
Ví dụ: giáo viên giao cho mỗi trẻ tự chuẩn bị đồ dùng để gieo một loại hạt mà
mình muốn. Lúc này trẻ sẽ tự suy nghĩ từ những vốn hiểu biết kinh nghiệm
14

14


của mình xem để gieo hạt thì cần chuẩn bị những gì? Và lấy những thứ đó ở
đâu?...
Người lớn có thể quan sát được biểu hiện được sự chủ động của trẻ

trong lúc trẻ tham gia hoạt động vui chơi với các bạn. Trong khi trẻ tham gia
các vai chơi trẻ sẽ tự phân công vai chơi, nhiệm vụ chơi. Trẻ 5- 6 tuổi có khả
năng tham gia các trò chơi đóng vai theo chủ đề rất tốt. Trong lúc chơi trẻ sẽ
biểu hiện rất rõ khả năng làm chủ các vai chơi và các hành động của mình.
Do có khả năng làm chủ được nhiều hành vi, được người lớn giao cho
nhiều việc nhỏ… Trẻ dần dần đã xác định rõ mục đích của hành động. Tính
mục đích càng ngày càng được trẻ ý thức và cố gắng hoàn thành công việc.


Tính kế hoạch theo đó cũng xuất hiện.
Thứ hai: Trẻ có kĩ năng tiến hành các hành động
Một đứa trẻ tự lập sẽ có khả năng thực hiện hành động khá tốt vì trẻ
luôn muốn tự mình được trải nghiệm, tự mình giải quyết nhiệm cụ của bản
thân. Chính vì vậy, trẻ cũng được rèn luyện nhiều và kĩ năng thực hiện hành
động của trẻ sẽ tốt hơn so với những bạn luôn dựa dẫm, ỷ lại vào người khác.
Đứa trẻ tự lập là đứa trẻ biết tự giải quyết nhiệm vụ của bản thân mình
bằng những hành động cụ thể. Trẻ luôn tìm tòi khám phá mọi cách để có thể
giải quyết được nhiệm vụ trước mắt.
Đứng trước những hoạt động cụ thể, đứa trẻ tự lập luôn biết mình cần
phải làm gì, trẻ tiến hành hoạt động rất thành thạo và nhanh chóng đạt được
hiệu quả cao. Ngược lại những trẻ không có tính tự lập sẽ không biết mình
cần phải làm gì khi đứng trước một hoạt động cụ thể. Trẻ chỉ đứng tại chỗ



quan sát mà không biết mình nên làm gì.
Ví dụ: Khi giáo viên giao nhiệm vụ cho cả lớp chăm sóc góc thiên nhiên.
Nếu trẻ nào nhanh chóng biết lấy các dụng cụ như: bình tưới, khăn lau,
cuốc, xẻng và sử dụng thành thạo những dụng cụ đó để chăm sóc góc thiên
nhiên thì trẻ đó có khả năng tự lập cao. Ngược lại những trẻ chỉ biết đứng

nhìn các bạn mà không biết mình phải làm gì, hơn nữa khi có đồ dùng
15

15


trong tay cũng không biết cách sử dụng đồ dụng đó thì trẻ đó chưa có khả


năng tự lập tốt.
Thứ ba: trẻ có khả năng khắc phục khó khăn để hoàn thành công việc.
Trẻ ở giai đoạn này có nhu cầu tự khẳng định mình rất lớn. Trẻ luôn
muốn thể hiện mình trước những người xung quanh. Chính vì thế trẻ luôn
muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao để làm cho người lớn khen ngợi trẻ.
Nếu ngay từ nhỏ trẻ đã được hình thành tính tự lập thì ở giai đoạn này
trẻ sẽ luôn cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ dù có
khó khăn đến đâu trẻ đều có khả năng tìm tòi, khám phá cách giải quyết để
đem lại hiệu quả cao trong hành động.
Mặt khác, tư duy logic của trẻ ở giai đoạn này đang phát triển nên trẻ
có khả năng suy nghĩ để đưa ra những phương hướng giải quyết cho nhiệm vụ
trước mắt. Mặc dù có khó khăn nhưng chỉ cần trẻ chủ động thì sẽ dễ dàng giải
quyết được nhiệm vụ.
Khi giáo viên đưa ra nhiệm vụ bất kì, nếu trẻ nào tự hoàn thành nhiệm
vụ tốt mà không cần nhờ sự giúp đỡ của người khác và trẻ luôn có những ý
tưởng sáng tạo khi giải quyết nhiệm vụ thì đứa trẻ đó có khả năng tự lập rất
cao. Ngược lại những trẻ luôn nhờ người khác giúp đỡ và luôn nghĩ mình sẽ



không làm được thì khả năng tự lập của trẻ đó chưa tốt.

Ví dụ: Khi cô giao cho các bạn tưới cây trong sân trường, số lượng bình tưới
chỉ có hạn đòi hỏi các bạn tự tìm ra cách để có thể có dụng cụ tưới cây. Nếu
bạn nào thấy hết bình tưới biết tự đi tìm các loại chai, lọ, hộp… để tưới thì
bạn đó biết khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại có những
bạn khi thấy hết bình tưới sẽ thôi không làm nữa, đứng nhìn các bạn khác làm



hoặc bỏ đi chơi.
Thứ tư: Trẻ có khả năng tự đánh giá kết quả của hoạt động
Trẻ 5 - 6 tuổi ý thức bản ngã đã được hình thành, trẻ có khả năng so
sánh mình với lứa tuổi khác. Trẻ đã nhận biết được giới tính của mình và biết
phải thể hiện như thế nào sao cho phù hợp với giới tính. Trẻ có thể lĩnh hội
các khái niệm sơ đẳng, có các lập luận và kết luận chính xác hơn.
16

16


Do khả năng tập trung chú ý của trẻ lâu hơn, bền vững hơn, ghi nhớ của
trẻ có chủ định hơn nên khả năng khám phá sự vật hiện tượng ở trẻ cũng tốt
hơn làm cho khối lượng tri thức về sự vật hiện tượng của trẻ ngày càng phong
phú. Đây là cơ sở để trẻ có thể tiến hành các thao tác so sánh những đặc điểm
giống và khác nhau của một vài đối tượng, phân nhóm dấu hiệu theo một hay
vài dấu hiệu rõ nét. Nhờ vậy, khả năng tổng hợp khái quát những dấu hiệu
bên ngoài của sự vật, hiện tượng của trẻ thực hiện tương đối tốt.
Trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo bắt đầu có khả năng đánh giá về việc mình
làm. Trẻ biết mình làm như thế có đúng hay không và bắt đầu hiểu vì sao nên
hay không nên làm việc đó. Trẻ đã nhận ra bạn làm việc đó là đúng hay sai và



vì sao lại như vậy?
Ví dụ: Thấy bạn đánh nhau trẻ biết ra gọi cô. Vì trẻ hiểu hành vi đó là không
đúng và phải nhờ cô ngăn chặn hành vi đó lại.
Không chỉ có vậy, sau khi tiến hành hoạt động trẻ đã có khả năng tìm
tòi, phân tích xem tại sao lại như vậy. Chính vì thế trẻ có thể đưa ra những
nhận xét và đánh giá của bản thân sau khi tích cực thực hiện một hoạt động

1.2.4.

nào đó.
Vai trò của tính tự lập đối với sự phát triển nhân cách trẻ 5- 6 tuổi
Chúng ta biết rằng, trong cuộc sống, ai ai cũng cần phải biết tự lập, đó
là một đức tính rất cần thiết đối với mỗi người. Tự lập được hiểu là khả năng
tự đứng vững, tự vượt qua mọi khó khăn trong học tập, trong cuộc sống bằng
chính sự nỗ lực của bản thân mà rất ít hoặc không cần sự giúp đõ của người
khác. Đó là một trog những yếu tố cần thiết làm nên sự thành công trong học
tập và trong cuộc sống. Bởi lẽ, nếu ta biết tự lập, ta sẽ có thái độ chủ động,
tích cực, có động cơ và mục đích học tập đúng đắn.
Tự lập có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển nhân cách
của trẻ 5- 6 tuổi. Tự lập và giúp nhau tự lập cũng là cách giúp trẻ học cách
sống trong xã hội, sống với người khác và thích nghi được với sự phát triển
không ngừng của xã hội.
17

17


Giáo dục tính tự lập cho trẻ càng sớm càng tốt là điều cha mẹ nên làm
cho con ngay từ khi còn nhỏ. Trẻ cần tự lập từ những việc nhỏ nhất như: tự

phục vụ, giúp đỡ người lớn những việc trong khả năng của mình. Điều đó, là
một yếu tố rất quan trọng giúp cho trẻ có được tương lai thành đạt.
Ngay khi trẻ bắt đầu lớn và đi mẫu giáo, cha mẹ có thể lập một thời
gian biểu cho trẻ, bắt đầu từ những việc nhỏ nhất như dạy đúng giờ, tự đánh
răng, lựa chọn quần áo… Việc để trẻ tự làm các công việc vệ sinh cá nhân mà
không cần đến sự giúp đỡ của bố mẹ cũng sẽ khiến trẻ biết tự lập, lo cho
chính bản thân mình, không chời đợi, ý lại vào người khác.
Tính tự lập là một đức tính vô cùng quan trọng mà trẻ cần có, vì không
phải lúc nào cha mẹ, bạn bè và thầy cô cũng ở bên cạnh họ để giúp đỡ trẻ.
Nếu không có tính tự lập, khi lớn lên sẽ dễ bị vấp ngã, thất bại và dễ có những


hành động xấu, thiếu kiềm chế.
Tính tự lập giúp trẻ phát triển trí tuệ, lĩnh hội và tích lũy được nhiều vốn kinh
nghiệm.
Trẻ 5- 6 tuổi có nhu cầu khẳng đình mình rất lớn nên trẻ luôn có mong
muốn được độc lập trong hoạt động và trong quá trình trẻ tự hoạt động trẻ sẽ
khám phá, tìm tòi để đưa ra cách thức giải quyết hành động. Trẻ ở lứa tuổi
này con chưa có nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên nếu trẻ chủ động giải quyết
nhiệm vụ của mình theo hướng thử và sai thì trẻ sẽ học được rất nhiều. Trẻ sẽ
lĩnh hội được nhiều kiến thức hơn sau quá trình thẻ tham gia hoạt động.
Không chỉ có vậy nhờ có tính tự lập trẻ sẽ tích cực và sáng tạo trong
các hoạt động. Sự tự lập sẽ tạo cho trẻ động lực để chủ động tìm kiếm để lĩnh
hội trí thức. Đứa trẻ tự lập sẽ luôn luôn mong muốn khám phá để nâng cao
hiểu biết của mình.
Trong những tình huống khó khăn trẻ tự lập trẻ chủ động và nghĩ ra các
phương án giải quyết sáng tạo.

18


18


Khi trẻ tự lập thì sẽ sẽ tích cực và hứng thú tham gia các hoạt động. Và
có sự tích cực và hứng thú trong các hoạt động thì dĩ nhiên hiệu quả của hoạt
động cũng sẽ được nâng cao.
Những đứa trẻ như vậy sẽ luôn say mê tìm kiếm và phát hiện ra những


điều mới lạ và đưa ra được ý tưởng giải quyết độc đáo.
Tính tự lập giúp trẻ tích cực, chủ động sáng tạo trong các hoạt động
Nhờ có sự tự lập sẽ giúp trẻ có sự say mê, tích cực, tự tìm tòi khám phá
những điều mới mẻ trong cuộc sống. Khi trẻ tự tìm tòi khám phá thì tri thức
của trẻ sẽ dần được nâng cao, kinh nghiệm xã hội cũng càng ngày càng phong
phú hơn. Nếu kiến thức phong phú và vốn kinh nghiệm nhiều thì việc đưa ra
các ý tưởng để giải quyết các nhiệm vụ hoạt động sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Tự lập được thể hiện ở sự chủ động, độc lập giải quyết nhiệm vị của
mình mà không phụ thuộc vào người khác, Nhiệm vụ dù có khó khăn thì cố
gắng, nỗ lực và ý chí để vượt qua mọi khó khăn.
Tự lập liên quan rất nhiều đến sự hứng thú và tích cực của bản thân.
Khi có sự hứng thú với hoạt động thì trẻ sẽ có quyết tâm cao để thực hiện
công việc đến cùng, làm việc với tinh thần, hứng thú, say mê thì tất nhiên hiệu
quả công việc sẽ cao. Những đứa trẻ luôn hứng thú, tích cực tham gia các hoạt



động thì đa số những đứa trẻ đó là những đứa trẻ tự lập chủ động.
Sự tự lập giúp trẻ dễ dàng thích ứng với cuộc sống luôn biến động hiện nay.
Xã hội ngày càng hiện đại đòi hỏi con người phải có được những năng
lực, phẩm chất cần thiết để thích nghi được với sụ phát triển không ngừng của

xã hội.
Một đứa trẻ tự lập sẽ luôn thích tham gia và các hoạt động. Khi chủ
động tahm gia vào các hoạt động thì trẻ có cơ hội mở rộng các mối quan hệ
xã hội. Điều này góp phần rất nhiều vào việc hình thành xúc cảm tình cảm
của trẻ với mọi người xung quanh.
Khi tham tích cực tham gia vào các hoạt động, trẻ sẽ dần điều chỉnh
được hành vi của mình để sao cho phù hợp với tất cả các mối quan hệ xã
hội của mình. Trẻ dần lĩnh hội được chuẩn mực hành vi đạo đức từ những
19

19


người xung quanh mình. Trẻ sẽ quan tâm đến người khác nhiều hơn, biết
chia sẻ, hợp tác với các bạn cùng chơi, cảm thông với những bạn thiệt thòi
hơn mình…
Tự lập là một trong những chất vô cùng quan trọng giúp trẻ phát triển
nhân cách toàn diện. Trẻ sẽ trở lên chủ động, không phụ thuộc hay trông chờ
vào người khác. Điều này sẽ hình thành những đức tính tốt ở trẻ góp phần để
1.3.
1.3.1.

trẻ xứng đáng trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Thí nghiệm khám phá thực vật và ưu thế của nó đối với sự phát triển
tính tự lập cho trẻ 5- tuổi.
Khái niệm “Thí nghiệm khám phá thực vật”
1.3.1.1. Khái niệm: “Thí nghiệm”
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thí nghiệm:
Theo từ điển hóa học: “thí nghiệm là công việc tiến hành nhằm mục đích
xác định một sự kiện chưa biết bằng cách quan sát tỉ mỉ trong những điều kiện

khác”. Do vậy, thí nghiệm được coi như một loại hình quan sát diễn ra trong
điều kiện nhất định khi có sự tác động tích cực lên đối tượng (sự vật, hiện tượng)
làm thay đổi cho nó phù hợp với mục đích đặt ra. Nghĩa là, thí nghiệm là sự tác
động có mục đích lên đối tượng để làm bộc lộ bản chất bên trong đối tượng.
Thí nghiệm là quá trình tạo ra một hiện tượng, một sự biến đổi nào đó
trong điều kiện xác định để quan sát, thu thập các thông tin về sự vật hiện tượng
nào đó.
Thí nghiệm là sự tác động có chủ định, có hệ thống của con người vào các
đối tượng của hiện thực khách quan để thu nhận tri thức về chúng dựa trên sự
phân tích các điều kiện diễn ra sự tác động, các kết quả của sự tác động đến các
đối tượng tham gia.
Tóm lại ta có thể hiểu: "thí nghiệm là sự tác động của con người vào
các đối tượng ở trong môi trường nhằm tạo ra một sự biến đổi nào đó của đối
tượng ở trong một điều kiện nhất định nào đó để làm bộc lộ bản chất bên
trong của đối tượng".
20

20


1.3.1.2. Khái niệm: “Thí nghiệm khám phá thực vật”
Thí nghiệm khám phá thực vật là sự tác động lên thực vật thông qua
các điều kiện sống khác của nó nhằm tạo ra hiện tượng hoặc sự biến đổi ở
thực vật trong một điều kiện nhất định để làm bộc lộ bản chất bên trong của
thực vật.
*Ví dụ: muốn khám phá về tính hướng sáng của thực vật thì cần thực
hiện thí nghiệm: “cây cần ánh sáng”: để thực vật trong phòng tối và có một lỗ
1.3.2.

chiếu sáng. Sau một thời gian cây sẽ vươn về phía có ánh sáng.

Đặc điểm của thí nghiệm khám phá thực vật
1.3.2.1. Khái niệm “Thực vật”
Thực vật là cơ thể sống có khả năng dinh dưỡng, hô hấp, sinh sản và
phát triển.
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: “thực vật là những sinh vật
có khả năng tạo chất dinh dưỡng cho bản thân từ những hợp chất vô cơ đơn
giản và xây dựng thành những phân tử phức tạp nhờ quá trình quang hợp.
Quá trình này sử dụng năng lượng ánh sáng được hấp thụ do yếu tố màu lục
(diệp lục) có trong các thực vật. Trong số đó, ngoại lệ có nấm không có chất
diệp lục, dinh dưỡng bằng các chất hữu cơ lấy từ các sinh vật khác hoặc từ
những mô chết. Đặc điểm của thực vật là vách tế bào bằng xenlulozơ không
có khả năng chuyển động tự do (trừ một số thực vật hiển vi) và thường phản
ứng rất chậm với kích thích”.
Thực vật là giới tự nhiên hữu sinh gồm các cơ thể tự dưỡng hay di
dưỡng thứ cấp. Tế bào có màng dày, thường bằng xenlulozơ, có lục lạp. Chất
dinh dưỡng ở dạng tinh bột gồm: tảo đỏ, tảo chính thức, thực vật bậc cao.
1.3.2.2. Đặc điểm của thực vật
Thực vật sống ở khắp mọi nơi trên trái đất, ở nhiều môi trường khác
nhau (trên cạn, dưới nước...), chúng có số lượng loài rất lớn. Thực vật tự tổng

21

21


hợp được chất hữu cơ, không có khả năng di chuyển và phản ứng chậm với
kích thích môi trường.
Thực vật được chia làm hai giới phụ:
- Thực vật hạ đẳng: bao gồm những thực vật có cấu tạo đơn giản, cơ
thể chưa phân hóa thành rễ, thân, lá. Thực vật hạ đẳng gồm các ngành:

ngành tiên thực vật, ngành vi khuẩn, ngành niêm thực vật, ngành tảo,
ngành nấm, ngành địa y.
- Thực vật thượng đẳng: gồm những thực vật có tổ chức cao, cơ thể đã
phân hóa thành rễ, thân, lá. Thực vật thượng đẳng gồm các ngành: ngành đài
thực vật, ngành quyết thực vật, ngành khỏa tử, ngành bí tử (phôi có 2 lá mầm
và phôi có 1 lá mầm).
Thực vật vô cùng đa dạng và phong phú. Khi nhìn ra xung quanh,
chúng ta thấy có rất nhiều loại thực vật khác nhau. Chúng khác nhau về chủng
loại, khác nhau về kích thước, lá, hoa, quả cũng như nhiều phương diện khác.
Thực vật thường có cấu tạo gồm: rễ, thân, lá, hoa, quả….Mỗi một bộ
phận lại có những đặc điểm khác nhau và cũng rất phong phú và đa dạng (rễ
thì có rễ cọc, rễ chùm, thân thì có thân gỗ, thân xốp, thân leo…). Thực vật cần
nước, dinh dưỡng, ánh sáng…thì mới tồn tại và phát triển được. Tuy nhiên
mỗi loài thực vật lại có những nhu cầu khác nhau, điều này làm trẻ rất hứng
thú, tò mò tìm hiểu về nó.
Thực vật có rất nhiều loại đa dạng phong phú: cây lấy gỗ, cây ăn quả,
cây rau, cây hoa…Vì vậy, trẻ mầm non rất tò mò muốn tìm hiểu tất cả các
loài thực vật. Với trẻ mầm non thì những loại thực vật như: những cây rau,
cây hoa, cây lương thực rất gần gũi gắn bó với trẻ và có ý nghĩa với cuộc sống
hàng ngày của trẻ. Những cây hoa nhiều màu sắc sặc sỡ làm trẻ rất muốn tìm
hiểu xem nó là loại hoa gì. Hàng ngày, trẻ được ăn rất nhiều loại hoa quả và
trẻ cũng muốn biết xem loại quả đó là quả gì, có vị gì và nhiều loại quả trẻ
22

22


muốn biết xem quả đó có ăn được không? Vì vây, thực vật kích thích hứng
thú nhận thức của trẻ rất lớn.
1.3.2.3. Đặc điểm của thí nghiệm khám phá thực vật

Thực vật có ở khắp mọi nơi, nó rất gần gũi gắn bó với con người. Việc
sử dụng thực vật để tiến hành thí nghiệm thì sẽ dễ dàng.
Có những đặc tính của thực vật ta không thể quan sát trong điều kiện bình
thường được mà cần phải có nhưng tác động nhất định thì nó mới bộc lộ, ví dụ
như: nhu cầu nước, ánh sáng, chất dinh dưỡng….của thực vật. Chính vì vậy, việc
làm thí nghiệm để quan sát đặc điểm bên trong của thực vật là cần thiết.
Tuy nhiên khi làm thí nghiệm với thực vật, giáo viên cần lưu ý tác động
vừa phải đủ để trẻ quan sát được đặc điểm cần thiết. Tránh tác động quá làm


chết thực vật. Điều này sẽ có ảnh hưởng không tốt đến trẻ.
Ví dụ: Muốn biết cây cần nước thì khi cây có sự thay đổi khác so với lúc bình
thường, cần dừng lại và tưới nước cho cây để cây sống bình thường. Tránh
việc làm thí nghiệm mà để cây chết khô.
Có những thí nghiệm với thực vật cần chờ một khoảng thời gian nhất
định mới có thể xem được sự biến đổi của thực vật như: tính hướng sáng của
cây, cây cần ánh sáng, cây cần nước…Điều này tạo điều kiện kích thích sự tò
mò, chờ đợi ở trẻ. Trẻ sẽ tò mò về kết quả của thí nghiệm, giúp thu hút sự chú
ý của trẻ với thí nghiệm hơn.
Tùy vào những thí nghiệm nhất định mà cần chuẩn bị đối tượng, dụng
cụ làm thí nghiệm và cách tiến hành thí nghiệm cũng khác nhau. Chính vì thế,
trước khi tổ chức thí nghiệm nào đó cho trẻ giáo viên cần tìm hiểu rõ đồ dùng,
cách thức tiến hành và phản ứng của từng thí nghiệm để cung cấp chính xác



đến cho trẻ.
Ví dụ: với thí nghiệm; “Sự đổi màu của bắp cải tím” thì cần chuẩn bị bắp cải
tím, xà phòng, chanh… còn với thí nghiệm: “Sự cháy của lá” thì lại cần chuẩn


1.3.3.

bị nến, bật lửa và các loại lá cây khô tươi khác nhau.
Yếu tổ ảnh hưởng đến sự phát triển tính tự lập cho trẻ 5-6 tuổi trong thí
nghiệm khám phá thực vật
23

23


Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6


tuổi. Chúng ta có thể phân loại thành các nhóm yếu tố sau:
Đặc điểm tâm sinh lý trẻ
Trẻ ở giai đoạn 5- 6 tuổi bắt đầu có khả năng chú ý có chủ định từ 1215 phút tùy vào từng hoạt động và đối tượng hoạt động. Chính vì vậy, với
nhiệm vụ bất kì giáo viên cần chỉnh thời gian hợp để trẻ có sự tập trung chú ý
và hoàn thành nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
Trẻ có khả năng tự phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở đồ vật hình
ảnh và ngay cả từ ngữ. Các phẩm chất tư duy của trẻ đã bộc lộ đủ về cấu tạo
và chức năng hoạt động của nó như tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính linh
hoạt, độ mềm dẻo, tính khách quan…
Hơn nữa, trẻ đã bắt đầu có khả năng làm chủ được hành vi, được người
lớn giao cho nhiều việc nhỏ, trẻ đã dần dần hiểu được mục đích của hành
động. Nếu như ở giai đoạn mẫu giáo nhỡ mục đích và động cơ hành động
hoàn toàn trùng nhau, thì ở lứa tuổi này, trẻ dần dần tách động cơ ra khỏi mục



đích với sự cố gắng hoàn thành nhiệm vụ.

Ví dụ: trẻ biết hoàn thành công việc để được cô khen, biết giúp đỡ mẹ quét
nhà để làm mẹ vui lòng…
Đến giai đoạn này trẻ đã biết lên kế hoạch cho từng hoạt động và bắt
đầu có tinh thần trách nhiệm với những nhiệm vụ mà mình được giao. Chính
vì thế, trẻ bắt đầu biết mình cần phải làm gì và làm như thế nào để hoàn thành
nhiệm vụ một cách tốt nhất cho cô giáo và cha mẹ vui lòng.
Mặt khác, ở giai đoạn này trẻ luôn tò mò, ham hiểu biết về mọi thứ
xung quanh. Mỗi nhận thức mới đều kích thích niềm vui, hứng thú sự say
mê thích thú đối với trẻ. Chính vì đặc điểm này mà trẻ luôn muốn khám
phá mọi thứ xung quanh, thích được tự mình trải nghiệm và thích thú với



những điểu mới lạ.
Môi trường

24

24


Môi trường là yếu tố gắn bó và ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống với trẻ.
Để phát triển được tính tự lập thì trẻ không thể không có môi trường. Môi trường
là nơi để trẻ có những trải nghiệm và tham gia hoạt động một cách tích cực.
Hơn nữa, thực vật lại có rất nhiều ở trong môi trường. Khi trẻ tiến hành
thí nghiệm khám phá thực vật trẻ sẽ cần tiếp xúc rất nhiều với môi trường.
Môi trường là nơi giúp bé có thể tiến hành thí nghiệm một cách tích cực.
Nếu trẻ có một môi trường thuận lợi với nhiều yếu tố kích thích sự tò
mò, hứng thú của trẻ khi trẻ tham gia thí nghiệm thì sẽ giúp trẻ hình thành
tính tự lập một cách dễ dàng. Ngược lại nếu môi trường nghèo nàn không có

gì thú vị kích thích trẻ tham gia thí nghiệm thì việc hình thành tính tự lập cho


trẻ sẽ rất khó khăn.
Ví dụ: Nếu có nhiều đồ dùng thí nghiệm mới lạ và được bố trí, sắp xếp một
cách hấp dẫn thì tất nhiên sẽ kích thích được sự tích cực tham gia hoạt động
cho trẻ.
Giáo viên nên biết được tầm quan trọng của yếu tố môi trường đối với
sự phát triển tính tự lập cho trẻ 5- 6 tuổi để bố trí môi trường sao cho hấp dẫn



phù hợp với trẻ để giúp trẻ phát triển tính tự lập một cách tốt nhất.
Tác động của người lớn
Người lớn có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của trẻ.
Người lớn đóng vai trò là người định hướng và tạo cơ hội để trẻ phát triển
một cách toàn diện.
Để trẻ 5- 6 tuổi phát triển tính tự lập thì người lớn cần phải biết cách
làm sao để tổ chức các hoạt động một cách khéo léo giúp trẻ tích cực chủ
động tham gia các hoạt động.
Muốn trẻ tham gia tích cực vào thí nghiệm khám phá thực vật giáo viên
cần đưa ra kế hoạch cụ thể, bố trí sắp xếp môi trường sao cho phù hợp và kích
thích được trẻ. Không chỉ có vậy, giáo viên còn cần đưa ra các phương pháp



cụ thể tác động đến trẻ sao cho trẻ tích cực và chủ động tham gia thí nghiệm.
Ví dụ: Giáo viên có thể tạo tình huống kích thích trẻ tham gia thí nghiệm như:
mụ thủ thủy đã biến con mèo yêu quý của cô bé thành con chuột. Bây giờ
25


25


×