Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6 ĐỌC HIỂU TỐT VĂN BẢN VĂN HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 17 trang )

DANH MỤC NHỮNG TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT

VIẾT TẮT

Ý NGHĨA

1

THCS

Trung học cơ sở

2

HS

Học sinh

3

BGH

Ban giám hiệu

4

SGK

Sách giáo khoa


GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

1


PHÒNG GD&ĐT TX TÂN CHÂU

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THCS VĨNH HÒA

Độc lập-Tự do- Hạnh phúc
Vĩnh Hòa, ngày 01 tháng 12 năm 2015

BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6
ĐỌC- HIỂU TỐT VĂN BẢN VĂN HỌC
I/ Sơ lược lý lịch tác giả:
-

Họ và tên: LƯƠNG THỊ DIỆU HIỀN - nữ.

-

Ngày tháng năm sinh: 20/10/1980

-

Nơi thường trú: Ấp Tân phú “B” Xã Tân An, thị xã Tân châu, tỉnh An Giang.


-

Đơn vị công tác: Trường THCS Vĩnh Hòa.

-

Chức vụ hiện nay: Giáo viên.

-

Trình độ chuyên môn: Đại học Ngữ văn.

-

Lĩnh vực công tác: Giảng dạy.

II/ Tên sáng kiến:
“ MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 6 ĐỌC- HIỂU TỐT VĂN
BẢN VĂN HỌC ”
III/ Lĩnh vực: Phân môn Văn học Ngữ Văn lớp 6
IV/ Mục đích yêu cầu của sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến:

Trong nhà trường phổ thông , môn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục. Theo kết quả thăm dò ý kiến, trao đổi với các thầy cô
giáo dạy văn ở Trường THCS Vĩnh Hòa nơi tôi giảng dạy và các trường bạn , chất
lượng học văn những năm gần đây ngày càng giảm sút. Tình trạng học sinh không
còn hứng thú học Văn bản trở thành hiện tượng phổ biến trong nhà trường. Nhiều
giáo viên dạy Văn phàn nàn, khổ tâm vì học sinh không chịu học văn. Hiện tượng
ấy là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về giáo dục nhà trường,

thuộc về chất lượng của môn văn, một môn học có trách nhiệm rất lớn đối với thế
giới tinh thần của các em. Qua thực tế giảng dạy văn, tôi nhận thấy các em chưa có
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

2


thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học, chưa có nhu cầu tự thân bộc lộ sự
hiểu biết, cảm nhận Văn học. Trước những vấn đề Văn học cần bộc lộ quan điểm,
các em thường dựa vào cách hiểu, cách cảm, cách đánh giá của người khác. Nhiều
giáo viên chưa mạnh dạn đổi mới cách dạy học, còn thuyết trình nhiều, chưa chú ý
đến khả năng tích cực sáng tạo trong nhận thức và cảm thụ Văn học của học sinh,
còn áp đặt, buộc học sinh phải thừa nhận, học thuộc. Vậy làm thế nào để giúp học
sinh yêu thích, có hứng thú khi tiếp nhận và cảm thụ Văn học, trách nhiệm của
người giáo viên dạy văn hãy chỉ dẫn và mở ra cho các em con đường đến với Văn
học. Đối với học sinh, đặc biệt đối tượng học sinh lớp 6, lứa tuổi hồn nhiên, ngây
thơ chưa hiểu nhiều về cuộc sống, cũng như chưa có kinh nghiệm sống thì không dễ
dàng nhìn thấy, cảm nhận ngay cái hay, cái đẹp, giá trị cuộc sống trong từng văn
bản. Trước thực trạng đó, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ và tìm ra giải pháp để nâng cao
chất lượng dạy học văn để góp phẩn nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến:
Dạy văn là quá trình gian nan, học văn lại càng gian nan hơn. Vậy đọc để tiếp cận
văn bản là điều cần thiết, nên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc và cảm nhận
được tác phẩm để làm cơ sở cho việc tìm hiểu nội dung tác phẩm (nhất là tác phẩm
Văn học dân gian) hiểu được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, tạo cho giờ học văn sôi
nổi, hấp dẫn hơn là điều rất quan trọng. Hơn thế nữa, môn Ngữ văn có vị trí quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Thực tế, hiện nay tình trạng học sinh
không còn yêu thích học văn, không chú ý đến tiết học, hay ngủ gật trong giờ học
thường xảy ra trong giờ văn. Giáo viên ít chú ý đến khả năng tích cực sáng tạo trong
nhận thức và cảm thụ Văn học của học sinh. Để khắc phục tình trạng ấy với cương

vị là giáo viên trực tiếp giảng Ngữ văn 6 nhiều năm qua cũng đã nhận thấy điếu đó,
chính vì thế việc đưa ra : “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 Đọc - hiểu tốt văn
bản Văn học” là một điều hết sức cần thiết.
3. Các phương pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp:
a. Các phương pháp tiến hành:
Thực hiện ñề tài, tôi sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp:
- Nghiên cứu tư liệu, phân tích, so sánh ñối chiếu

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

3


- Trao ñổi, thảo luận với ñồng nghiệp
- Khảo sát chất lượng và thăm dò ý kiến HS
b. Thời gian tạo ra các giải pháp:
Từ tháng 10 năm 2013 ñến tháng 05 năm 2014
4. Những giải pháp trong dạy học văn bản Văn học:
Xây dựng đề tài này, tôi xin nêu ra cách dạy văn hiệu quả thông qua một số hình
thức học tập trong dạy đọc- hiểu văn bản Văn học lớp 6 nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng
giáo dục.
* Cách tổ chức hình thức học tập thể hiện tính mới của đề tài
Bức tranh cuộc sống hiện thực và diện mạo tinh thần con người trong Văn học bao
giờ cũng chứa đựng sự đánh giá của nhà văn về cuộc sống. Sự đánh giá hiện thực
cuộc sống thể hiện cách nhìn riêng, quan điểm riêng của người nghệ sĩ. Bằng tác
phẩm của mình, người nghệ sĩ thường gợi lên ở người đọc những suy nghĩ và tình
cảm về cuộc sống. Hiểu được điều người nghệ sĩ muốn nói, muốn gửi gắm là điều
không đơn giản và dễ dàng, nhất là với học sinh lớp 6. Theo kết quả thăm dò ý kiến
và khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh lớp 6 trong nhà trường, môn học các

em thấy khó nhất, yếu nhất là môn Ngữ văn, cụ thể phân môn Văn học. Làm thế nào
để các em giảm được nỗi lo lắng, để các em tìm thấy được bao điều tốt đẹp, ý nghĩa
của cuộc đời qua những giờ Văn học? Tôi đã tìm ra một số hình thức học tập sau
nhằm tạo cho học sinh sự hứng thú, yêu thích Văn học, từ đó khao khát khám phá,
cảm thụ văn bản.
a. Tạo sự hứng thú trong phần giới thiệu bài mới:
Phần giới thiệu bài mới còn gọi là phần khởi động. Khi hướng dẫn học sinh tiếp
nhận văn bản, nhiều khi giáo viên chúng ta sợ mất thời gian nên bỏ qua phần này.
Phần giới thiệu bài chưa phải là phần trọng tâm của bài mới nhưng nó là phần
không thể thiếu vì một lời mở đầu bài học hấp dẫn sẽ tạo được sự hứng thú, gây cho
người nghe cảm giác, ấn tượng ban đầu về văn bản, tạo tâm thế, tâm lí cần có cho
quá trình thâm nhập và khám phá văn bản. Chính vì vậy giáo viên không nên bỏ qua
phần giới thiệu bài. Để lôi cuốn học sinh, giáo viên nên có nhiều cách giới thiệu bài

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

4


mới như: Giới thiệu bài bằng cách ñặt câu hỏi, dựa vào ý nghĩa, nội dung văn bản,
dùng tranh ảnh minh họa dẫn vào bài, nhắc lại vấn ñề ñặt ra trong bài cũ rồi dẫn vào
bài mới hoặc giới thiệu bài mới thông qua mẫu chuyện ngắn... Lời giới thiệu bài cần
ngắn gọn, nhẹ nhàng, gây hứng thú cho học sinh, tránh rườm rà, cầu kì, làm mất
nhiều thời gian. Phần giới thiệu bài mới lâu nay vốn là công việc của giáo viên,
dường như nó là thủ tục ñầu tiên bước vào dạy bài mới, thao tác cứ lặp ñi lặp lại dễ
gây sự nhàm chán ñối với học sinh nên nhiều khi chúng ta giới thiệu các em ít ñể ý
hoặc không muốn nghe. Vì vậy hãy ñể các em được trực tiếp tham gia vào công
việc này. Muốn các em có ñược một giới thiệu bài tốt, tôi hướng dẫn cho các em
các cách mở bài, cho các em thực hiện theo nhóm. Các em về nhà họp nhóm ñọc kĩ
văn bản, tìm hiểu nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa văn bản, sau đó viết lời giới thiệu

bài mới. Mỗi giờ học Văn học, tôi chuẩn bị số bông hoa tương ứng với số nhóm
(mỗi bông hoa một màu trong đó có một bông hoa may mắn). Sau phần kiểm tra bài
cũ, tôi cho các nhóm bốc thăm. Nhóm nào ñược bông hoa may mắn nhóm đó ñược
quyền giới thiệu bài. Hoặc khi kiểm tra bài cũ, nhóm nào có học sinh trả lời bài cũ
tốt nhất thì nhóm đó ñược ưu tiên giới thiệu bài mới.
a1. Giới thiệu bài bằng cách tự ñặt câu hỏi
* Khi dạy văn bản “Buổi học cuối cùng” : Học sinh giới thiệu, học sinh
dẫn:Người dẫn tự ñặt câu hỏi và giới thiệu bài: Bạn hiểu thế nào là ngôn ngữ dân
tộc? Khi một dân tộc mất đi tiếng nói của mình thì dân tộc đó sẽ như thế nào?
Để hiểu rõ vấn ñề này, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu văn bản “Buổi học cuối
cùng”.
a2. Giới thiệu bài bằng hình thức ñối thoại
* Khi dạy văn bản “Bức thư của thủ lĩnh da ñỏ”
- Một học sinh của nhóm ñặt câu hỏi cho các nhóm khác ñể dẫn vào bài như sau:
+ Các bạn cho biết loài người trên thế giới có những màu da nào? Họ sống chủ
yếu ở châu lục nào?
- Học sinh của nhóm khác sẽ trả lời: da vàng chủ yếu ở châu Á, da trắng ở châu
Âu, da ñen ở châu Phi, da ñỏ ở châu Mĩ. Học sinh dẫn vào bài: Loài người trên thế
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

5


giới có nhiều màu da khác nhau. Dù là màu da gì thì loài người đều phải sống
chung với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên. Nhưng cách đối xử với thiên nhiên có
giống nhau không? Chúng ta hãy tìm hiểu văn bản “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ”.
- Hoăc hai học sinh của nhóm dẫn giới thiệu: Tôi là người châu Á, bạn tôi là người
châu Âu. Đại diện nhóm dẫn hỏi học sinh nhóm khác: Các bạn là người châu lục
nào? Sau câu trả lời của các nhóm, học sinh dẫn vào bài: Chúng tôi và các bạn sống
ở những châu lục khác nhau. Dù ở đâu thì loài người chúng ta ñều phải sống chung

với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên. Nhưng cách đối xử với thiên nhiên có giống
nhau không? Chúng ta hãy tìm hiểu văn bản“Bức thư của thủ lĩnh da đỏ”.
a3. Giới thiệu bài bằng cách dựa vào ý nghĩa, nội dung tác phẩm
Văn bản“Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” là một văn bản hay. Văn bản ra đời đã lâu
nhưng nay vẫn còn ý nghĩa giá trị. Qua việc từ chối chuyện mua đất, bán đất, thủ
lĩnh Xi-át-tơn đã thể hiện tình yêu quê hương, tình cảm yêu quý gắn bó với thiên
nhiên thắm thiết của người da đỏ. Thấm đẫm trong bức thư là những lời tâm huyết
đầy sức thuyết phục của thủ lĩnh. Để hiểu rõ hơn nội dung của thư, chúng ta tìm
hiểu bài học : “Bức thư của thủ lĩnh da đỏ”.
a4. Giới thiệu bài bằng cách hóa thân vào nhân vật
Người dẫn hóa thân vào nhân vật Dế Mèn: Xin chào các bạn! Mình là Dế Mèn
đây. Mình muốn hỏi các bạn có bao giờ các bạn làm điều gì khiến phải ân hận
chưa ? Còn mình, một lần ngỗ nghịch để phải ân hận suốt đời. Qua lần ấy, mình đã
rút ra một bài học vô cùng thấm thía. Bài học ấy là gì ? Mời các bạn hãy cùng tìm
hiểu văn bản “Bài học ñường ñời ñầu tiên” trích tác phẩm“Dế Mèn phiêu lưu kí”
của nhà văn Tô Hoài.
a5. Dùng tranh ảnh minh họa để dẫn vào bài
Học sinh sưu tầm tranh ảnh hoặc các em tự vẽ. Tranh ảnh liên quan đến nội
dung văn bản các em sẽ giới thiệu.
- Khi dạy văn bản “Cây tre Việt Nam”, nhóm ñược giới thiệu bài cho học sinh
trong lớp quan sát tranh và đặt câu hỏi cả lớp tham gia trả lời: Hình ảnh trong các
bức tranh có điểm gì chung? Bạn hãy giới thiệu ngắn gọn nội dung của những bức
tranh đó ?

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

6


+ Học sinh sẽ trả lời: Điểm chung của các bức tranh này đều có mặt của tre.

Hình ảnh hàng tre (bức tranh 1) là hình ảnh quen thuộc ta bắt gặp trên các đường
quê, trẻ em thả diều (bức tranh 2), cánh diều tre bay bổng biểu tượng cho cuộc sống
yên bình là kỉ niệm đẹp của tuổi thơ trong cuộc đời mỗi con người, hình ảnh (bức
tranh 3) gợi nghĩ về cậu bé làng Gióng nhổ tre làm vũ khí ñể đánh giặc cứu nước.
Đại diện nhóm được giới thiệu bài bắt theo mạch trả lời của bạn và nói tiếp: Muốn
biết rõ cây tre có đặc điểm như thế nào? Thông qua hình ảnh cây tre ñể nói ñến ai?
Mời các bạn đến với văn bản “Cây Tre Việt Nam”của nhà văn Thép Mới thì sẽ rõ
hơn.
a6. Giới thiệu bài mới thông qua mẫu chuyện ngắn
Khi áp dụng cách này, tôi yêu cầu các em chú ý lựa chọn những mẫu chuyện
ngắn gọn, gần gũi, sát với nội dung bài học, tránh lan man dài dòng.
- Văn bản “Lòng yêu nước”cho học sinh kể về tấm gương hi sinh anh dũng
của Lê Văn Tám, Bế Văn Đàn, Võ Thị Sáu...
- Văn bản “Đêm nay Bác không ngủ” kể một mẫu chuyện nhỏ về tình yêu
thương của Bác dành cho nhân dân Việt Nam. Từ câu chuyện vừa kể, người dẫn
giới thiệu bài mới.
* Hiệu quả:Với cách đã làm này rèn cho học sinh ý thức tự học ở nhà: học bài cũ,
chuẩn bị bài mới. Để cho học sinh tự giới thiệu bài sẽ phát huy được tính tích cực,
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

7


chủ động của học sinh, lôi cuốn nhiều em tham gia tập trung bài học, tạo cho các
em ý thức đọc văn bản, tìm hiểu kĩ nội dung bài học mà tác giả gửi gắm. Đây cũng
là biện pháp gây ấn tượng, tạo sự hứng thú, tạo tâm thế học tập, bước đầu giúp các
em tự tin để cảm thụ văn bản Văn học.
b.Tổ chức ghi“Nhật kí đọc”
Con ñường ñi vào cảm thụ văn bản nhất thiết phải từ ñọc, gắn liền với việc ñọc.
Tổ chức ñọc văn bản là hoạt đọc trước tiết học, diễn ra ở nhà và trong tiết học. Đây

là họat ñộng quan trọng ñể học sinh cảm thụ văn bản. Đọc ñể nắm bắt ñược cảm
xúc của tác giả, ñể hòa nhập vào thế giới cảm xúc, ñể phát hiện ý ñồ nghệ thuật của
tác giả, ñể nhìn ra thế giới cuộc sống trong văn bản, để tiếng nói nội tâm người đọc
hòa vào tiếng nói nội tâm của tác giả. Phần đọc văn bản được thầy cô hướng dẫn và
dặn dò rất kĩ ở phần hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà, bởi không đọc văn bản sẽ không
soạn được bài, sẽ khó khăn khi tiếp nhận văn bản. Thực tế cho thấy học sinh rất lười
đọc, nhiều học sinh đến lớp mà chưa hề đọc văn bản hoặc có đọc thì qua loa ñại
khái, ñọc lướt, đọc xong không hiểu văn bản nói gì. Để khắc phục tình trạng nêu
trên, tôi luôn nhắc nhở các em phải hiểu rằng đọc văn bản là yêu cầu bắt buộc; đọc
kết hợp tìm hiểu kĩ câu hỏi, bài tập trong SGK, những yêu cầu, câu hỏi gợi ý, định
hướng của giáo viên. Tôi cho các em ghi “Nhật kí đọc”. Mỗi em có một sổ nhật kí.
Tên gọi “Nhật kí ñọc” giúp cho các em nhận thấy đây là công việc phải làm thường
xuyên, bắt buộc với mỗi học sinh. Trước khi soạn bài, các em đọc văn bản nhiều
lần rồi ghi lại những điều mình biết, hiểu, cảm về tác giả và văn bản vào sổ nhật kí
như tiểu sử, sáng tác của tác giả, hoàn cảnh ra đời, thể loại, nội dung và nghệ thuật
của văn bản, tính cách nhân vật, chi tiết, hình ảnh, câu văn, câu thơ hay, gây ấn
tượng..., có thể là những suy nghĩ, cảm xúc, nhận xét riêng của mình sau khi đã đọc
văn bản. Để thúc ñẩy, kiểm tra hoạt động của học sinh, tôi kết hợp khi kiểm tra bài
cũ, phân công học sinh học tốt bộ môn kiểm tra sổ “Nhật kí đọc” và báo cáo cho
giáo viên ñầu giờ hoặc sau tiết học ñể kịp thời nhắc nhở.Tôi thu sổ tay “Nhật kí
đọc” mỗi tháng ít nhất 2 lần về kiểm tra, khen thưởng, khuyến khích những học sinh
ghi tốt và có cách hướng dẫn học sinh ghi chưa tốt.

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

8


* Hiệu quả:Tổ chức ghi “Nhật kí đọc” sẽ hình thành cho học sinh thói quen đọc
văn bản chủ động, tự giác trước khi đến lớp, nhờ đọc trước nên các em sẽ dễ dàng

hơn trong quá trình tiếp nhận văn bản ở lớp.
c. Sử dụng sơ đồ, tranh ảnh sáng tạo trong phần đọc, tóm tắt truyện
Trong chương trình Ngữ Văn lớp 6, học sinh chỉ học 3 văn bản thơ, còn lại chủ
yếu là văn bản truyện. Để học tốt văn bản truyện, tôi hướng dẫn kĩ, giao việc cụ thể
về nhà cho từng cá nhân, từng nhóm chuẩn bị trước khi học văn bản ở lớp. Sự
chuẩn bị kĩ của học sinh sẽ quyết định thành công giờ học.
c1.Lập sơ đồ tóm tắt truyện
Thể loại văn tự sự là thể loại đầu tiên và chủ yếu trong chương trình Ngữ văn lớp
6. Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật
của văn bản tự sự, khâu quan trọng là phải tóm tắt được nội dung cốt truyện. Tóm
tắt nội dung cốt truyện là yêu cầu có tính chất tạo nền là cơ sở để từ đó tìm hiểu các
vấn đề khác của tác phẩm. Thế nhưng việc tóm tắt truyện của học sinh quá yếu, các
em rất lười đọc truyện, kĩ năng tóm tắt, diễn đạt lại hạn chế nên khâu tóm tắt truyện
các em thường bỏ qua, cảm thấy lo sợ khi giáo viên yêu cầu tóm tắt. Vì vậy, để các
em có giờ học nhẹ nhàng, thoải mái, tôi đã ñịnh hướng cho học sinh trước khi tóm
tắt truyện cần:
- Đọc kĩ văn bản
- Xác định nội dung, chọn sự việc, nhân vật chính.
- Sắp xếp sự việc chính theo trình tự hợp lí.
- Dùng lời văn của mình để tóm tắt truyện.
Để dễ nhớ các tình tiết, diễn biến của truyện, tôi yêu cầu các em phải xây dựng sơ
đồ tóm tắt. Sử dụng sơ đồ tóm tắt truyện trong dạy học văn không phải là cách làm
mới, lâu nay thầy cô chúng ta vẫn làm nhưng chưa thường xuyên, chủ yếu là tóm tắt
miệng. Sơ đồ chúng ta làm chỉ mới dừng lại ở sơ ñồ hình khối vuông, chữ nhật, vẽ
sơ đồ nhánh. Để tăng phần hứng thú, kích thích niềm ñam mê học tập của học sinh,
tôi hướng dẫn cho các em tóm tắt truyện bằng những sơ đồ với nhiều hình dạng,
màu sắc thể hiện khả năng sáng tạo của các em. Tôi cho thực hiện theo nhóm, vẽ

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền


9


trên giấy khổ lớn. Đến phần đọc, kể tóm tắt văn bản, đại diện 1- 2 nhóm gắn sơ đồ
của nhóm lên bảng và dựa vào đó tóm tắt. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung.

* Tóm tắt: Đời HùngVương thứ sáu, ở làng Gióng có vợ chồng ông lão đã già
không có con. Bà ra ñồng thấy vết chân to nên ñặt chân ướm thử. Về nhà, bà thụ
thai, mười hai tháng mới sinh ra đứa bé khôi ngô đặt tên là Gióng, kì lạ lên ba tuổi
không biết nói cười. Khi nghe sứ giả tìm người tài giỏi đánh giặc, Thánh Gióng cất
tiếng nói nhờ tâu với vua sắm cho roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt ñể đánh giặc. Sau khi
gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Dân làng phải góp cơm gạo nuôi chú bé.
Khi đồ sắt được mang tới, Gióng vươn vai thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt, mặc áo,
cầm roi nhảy lên ngựa phi thẳng đến chỗ có giặc. Đánh tan giặc, Gióng phi ngựa lên
núi, cới áo giáp bỏ lại rồi cùng ngựa bay về trời. Vua nhớ công ơn lập đền thờ,
phong danh hiệu là Phù Đổng Thiên Vương.
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

10


* Sơ đồ tóm tắt truyện Bức tranh của em gái tôi

* Tóm tắt: Câu chuyện kể về người anh và cô em gái có tài hội họa tên Kiều

phương gọi là Mèo. Khi tài năng hội họa của em gái được phát hiện, người anh thấy
buồn, thất vọng vì mình không có tài năng và cảm thấy mình bị cả nhà lãng quên.
Từ đó, người anh cảm thấy khó chịu, hay gắt gỏng với em gái. Khi đứng trước bức
tranh đạt giải nhất của em gái, cậu bất ngờ vì hình ảnh mình qua cái nhìn của em.
Người anh nhận ra những yếu kém của mình và hiểu được tâm hồn trong sáng và

lòng nhân hậu của người em.
c2. Sử dụng tranh ảnh trong kể, tóm tắt truyện
Chúng ta biết rằng thời đại công nghệ thông tin phát triển, chỉ cần bấm nút là
hình ảnh các em muốn tìm lại hiện ra. Vì vậy, trẻ em ngày nay không còn hấp dẫn
với tranh vẽ, không thấy hứng thú để tự mình vẽ tranh. Đó cũng điều thầy cô dạy
Mĩ thuật hay phàn nàn. Học vẽ nhưng khả năng sáng tạo lại hạn chế, nét ngây thơ
ngộ nghĩnh của các em qua từng nét vẽ dường như rất hiếm. Hạn chế đó một phần
là do giáo viên chúng ta chưa tạo điều kiện để các em được thể hiện. Khi dạy văn
bản, giáo viên cũng cho học sinh vẽ tranh nhưng thường cho về nhà vẽ sau khi đã
học văn bản nên giáo viên không kiểm tra, vì thế học sinh không thực hiện yêu cầu
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

11


của giáo viên. Để giờ học sinh động, hấp dẫn, để phát huy trí tưởng tượng, khả năng
sáng tạo của các em, tôi cho các em nhớ và tái hiện lại nội dung cốt truyện bằng
tranh do chính các em vẽ.
-

Khi dạy văn bản “Ếch ngồi đáy giếng”, giáo viên sẽ mời học sinh treo tranh đã
vẽ và dựa vào tranh tóm tắt lại truyện.

* Tóm tắt: Một con ếch sống trong giếng đã lâu ngày, xung quanh nó là những
con vật bé nhỏ. Nó cứ nghĩ mình thì oai như chúa tể, còn bầu trời chỉ bằng chiếc
vung. Đến khi mưa to, nước dâng lên đưa ếch ra khỏi giếng. Nó đi lại nghênh
ngang, không thèm để ý đến xung quanh nên bị một con trâu giẫm bẹp.
* Khi dạy văn bản “Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng” tương tự học sinh cũng treo
tranh đã vẽ và dựa vào tranh tóm tắt.


GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

12


* Tóm tắt: Cô Mắt, Cậu Chân, Cậu Tay, Bác Tai, Lão Miệng từ xưa sống rất thân
thiết với nhau (tranh 1). Một hôm Chân, Tay, Tai, Mắt tị với lão Miệng là lão chẳng
làm gì mà lại được ăn ngon (tranh 2). Chúng hăm hở kéo đến nhà lão Miệng cho lão
biết từ nay chúng không làm cho lão ăn nữa (tranh 3). Qua ba ngày, cả bọn cảm
thấy mệt mỏi rả rời, không muốn làm gì cả(tranh 4). Sau đó, chúng mới vỡ lẽ ra là
nếu miệng không được ăn thì chúng không có sức (tranh 5). Thế rồi, chúng cho Lão

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

13


Miệng ăn và cả bọn lại khỏe khoắn như trước. Từ đó, chúng lại hoà thuận như xưa
(tranh 6).
d.Tạo dựng tình huống có vấn đề trong giờ dạy văn bản Văn học:
Cách 1: Giáo viên xây dựng một hệ thống các câu hỏi nêu vấn đề, đặt học sinh vào
một tình huống và yêu cầu phải giải quyết.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Bức tranh của em gái tôi”, đoạn phân tích tâm trạng
người anh trước bức tranh em gái vẽ mình, giáo viên đặt các câu hỏi tạo tình huống
có vấn đề để kích thích suy nghĩ, tìm tòi ở mỗi cá nhân học sinh : Em cảm nhận như
thế nào về hình ảnh người anh trong tranh? Suy nghĩ của em về người anh của Kiều
Phương: con người thật và con người trong tranh? Có ý kiến cho rằng : “Soi vào
bức tranh là soi vào tâm hồn trong sáng và lòng nhân hậu của em gái để vượt lên
hạn chế của lòng ích kỉ, tự ti, tự ái”. Em có đồng ý không?
- Cách 2: Giáo viên không đưa ra những câu hỏi nêu vấn đề mà chỉ cung cấp thông

tin tạo tình huống có vấn đề. Học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề
xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp, giải quyết vấn đề.
Ví dụ: Tìm hiểu ý nghĩa tư tưởng, rút ra bài học của truyện “Bức tranh của em gái
tôi”:
Giáo viên cho học sinh quan sát 2 đoạn văn SGK (đoạn 1: anh tự ti, mặc cảm, cáu
gắt với em - đoạn 2: ngỡ ngàng, hãnh diện, xấu hổ nhận ra hạn chế). HS thảo luận,
phát hiện vấn đề: Sự thay đổi trong tâm trạng của người anh. Học sinh nêu vấn đề:
Vì sao người anh lại thay đổi tâm trạng? Lần lượt các thành viên trong nhóm nêu
lên các giả thuyết về nguyên nhân thay đổi tâm trạng vào bảng phụ, gắn lên bảng.
Đại diện mỗi nhóm nêu lí lẽ bảo vệ giả thuyết của nhóm mình, bác bỏ giả thuyết
nhóm khác. Cuối cùng học sinh nêu được nguyên nhân làm thay đổi tâm trạng
người anh là do tâm hồn trong sáng và lòng nhân hậu của em gái. Từ đó, học sinh sẽ
rút ra bài học của truyện: “Trước thành công hay tài năng của người khác, mỗi
người cần phải vượt qua lòng mặc cảm, tự ái, tự ti. Tình cảm yêu thương và sự độ
lượng sẽ giúp con người tự vượt lên được bản thân mình, đạt được thành công
trong cuộc sống”.

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

14


đ. Liên hệ thực tế, giáo dục tư tưởng, tình cảm, kĩ năng sống cho học sinh
Tránh câu hỏi rập khuôn, sáo mòn khi liên hệ. Luôn làm mới hình thức liên hệ
như cho HS nhập vai nhân vật, nêu gương, dùng tranh ảnh, đối thoại.
Tùy nội dung bài học, giáo viên đặt tên cho hoạt động: Cuộc sống xanh, Vì một
ngày mai, Tình yêu biển đảo… để lôi cuốn học sinh tham gia, học sinh cảm thấy
thoải mái, mong muốn được giải bày, chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc.
Ví dụ: - Khi dạy truyện “Con hổ có nghĩa”, giáo viên hoặc cho học sinh các nhóm
đặt câu hỏi: Tưởng tượng nếu con hổ trán trắng nhờ bạn viết một dòng chữ lên mộ

bác tiều đã quá cố, bạn sẽ viết như thế nào? Nếu con hổ đực biết nói, bạn tưởng
tượng nó sẽ nói gì với bà đỡ Trần sau khi bà đỡ đẻ cho hổ cái? Trả lời được câu hỏi
có nghĩa là học sinh biết ơn là phẩm chất đáng quý.
- Khi dạy bài kí “Cô Tô”. Để giáo dục các em tình yêu biển đảo, ý thức về chủ
quyền của dân tộc, giáo viên cho học sinh xem ảnh đảo Trường Sa, Hoàng Sa và
hỏi: Qua ảnh, các em hãy bày tỏ tình cảm của mình với biển đảo Trường Sa, Hoàng
Sa bằng một câu ngắn gọn?

Đảo Sinh Tồn ở Trường Sa
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

15


V. Hiệu quả đạt được:
Học sinh tự tạo ra đồ dùng trực quan để học tập, ít tốn kém về kinh tế, nắm chắc
kiến thức văn học, biết vận dụng vào cuộc sống. Học sinh có ý thức tự học, hứng
thú say mê, tích cực, chủ động, sáng tạo học tập. Giáo viên đã đáp ứng được yêu
cầu, bản chất đổi mới phương pháp dạy học.
* Kết quả bộ môn cuối năm học 2014-2015, đầu năm học 2015-2016 như sau:
Năm
học
20142015
20152016

SLHS

Kết quả khảo sát ban đầu Kết quả áp dụng giải pháp mới
Yếu TB Khá Giỏi Yếu TB Khá
Giỏi


32

8

11

7

4

1

5

15

11

95

15

45

23

12

4


15

41

30

VI. Mức độ ảnh hưởng:
1. Khả năng áp dụng: Vận dụng cho tất cả đối tượng học sinh lớp 6. Đề tài phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí và khả năng nhận thức, điều kiện thực tế của học sinh,
nhà trường và có thể áp dụng cho các trường THCS.
2. Những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp:
a. Đối với học sinh:
Tổ chức cho học sinh học tập một cách chủ động, sáng tạo trong những tiết
văn học sẽ làm cho giờ học sinh động, thoải mái, giúp các em tự tìm ra con đường
phân tích, đánh giá, thưởng thức văn bản Văn học; đồng thời giúp các em rút ra
những bài học sâu sắc về tư tưởng, tình cảm, lối sống để tự hoàn thiện nhân cách,
trở thành người công dân có ích cho xã hội.
b. Đối với giáo viên: Trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, với
các giải pháp nêu trên, đã góp một phần không nhỏ vào việc đổi mới phương pháp
dạy học. Nếu nhận thức đầy đủ vai trò tác dụng của phương pháp đọc- hiểu nội
dung văn bản thì sẽ làm cho việc dạy học văn phù hợp với đặc trưng bộ môn và tâm
lí tiếp nhận của học sinh. Chắc chắn làm cho các em học sinh sẽ thêm yêu thích bộ
môn Văn hơn. Chính vì thế, việc áp dụng các giải pháp trên vào việc dạy văn bản
Văn học ở lớp 6 là những điều kiện rất cần thiết.
GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

16



VII. Kết luận
Việc đọc – hiểu văn bản, cảm thụ tác phẩm bằng các giải pháp trên, được thực
hiện dưới nhiều hình thức như dùng tranh ảnh, sơ đồ tóm tắt đã đem lại những kết
quả khả quan. Học sinh biết dựa vào sản phẩm của mình để tóm tắt tác phẩm một
cách dễ dàng, ngoài ra các em cò biết chọn đọc những đoạn văn bản minh họa cho
các nhiệm vụ học tập một cách chính xác. Học sinh có năng lực phán đoán nhanh
nhạy những dữ liệu ngôn ngữ hiểu được mục đích của các văn bản. Đặc biệt các em
đã biết liên hệ giữa những điều có trong tác phẩm với thế giới bên ngoài. Trong
những lời phát biểu, những bài kiểm tra các em đã thực sự hiểu và vận dụng tác
phẩm một cách linh hoạt.
Trên đây, là những giải pháp được tôi rút ra từ thực tế giảng dạy ở trường
THCS Vĩnh Hòa, có thể vẫn còn nhiều hạn chế. Vậy tôi rất mong được tiếp thu ý
kiến đóng góp của BGH, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa học của
Phòng giáo dục – Đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng
cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn và thu hút học sinh yêu thích bộ môn Ngữ Văn
hơn.
Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật.
Vĩnh Hòa ngày 01Tháng 12 năm 2015
Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến.
Người viết sáng kiến

Lương Thị Diệu Hiền

GV thực hiện: Lương Thị Diệu Hiền

17




×